Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT NHÀ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.05 KB, 8 trang )

TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT NHÀ VĂN
Câu1: Căn cứ vào đâu và làm như thế nào để xác định được tư tưởng
nghệ thuật của nhà văn?
Như chúng ta đã biết, văn chương là loại sản phẩm tinh thần, một hình thái
hoạt động văn hóa tư tưởng, đồng thời cũng là một loại hình nghệ thuật. Vì thế khi
chúng ta đánh giá tầm cỡ một nhà văn thì phải căn cứ vào các tiêu chuẩn đánh giá
sau:
-Tư tưởng lớn, tâm hồn lớn.
-Tài năng lớn (tài năng nghệ thuật).
- Có đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử văn
học dân tộc.
Ba tiêu chuẩn cũng là ba phương diện của giá trị một sự nghiệp văn học. Ba
phương diện không hoàn toàn đồng nhất, nhưng không thể tách rời. Xét tương
quan giữa ba phương diện ấy thì tư tưởng nhà văn, nếu hiểu là tư tưởng nghệ thuật,
thì phải coi là có ý nghĩa quyết định, có tác dụng chi phối tất cả. Bởi vì khi nghiên
cứu một nhà văn, xét đến cùng là chúng ta nghiên cứu tư tưởng của nhà văn đó và
tầm cỡ của nhà văn xét đến cùng thì cũng phụ thuộc vào tầm cỡ tư tưởng của họ.
Như vậy, chúng ta căn cứ vào đâu và làm như thế nào để xác định được tư tưởng
nghệ thuật của nhà văn. Đó là vấn đề mà người viết muốn thể hiện trong bài viết
này.
Vậy tư tưởng nhà văn là gì? Đó là thứ tư tưởng có tính tổng hợp cao rút ra
từ toàn bộ tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đó là một tư tưởng bao trùm cả sự
nghiệp sáng tác của nhà văn, chi phối về căn bản toàn bộ thế giới nghệ thuật của
nhà văn đó. Nó tạo ra sự nghiệp ấy, cho thế giới nghệ thuật thống nhất, tính hệ
thống, hay nói đúng hơn đó là tính chỉnh thể. Đây là chỗ gặp gỡ của nhiều nhà
nghiên cứu phê bình văn học trên thế giới.
Còn theo nhà nghiên cứu, phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh thì ông
dùng khái niệm tư tưởng nghệ thuật cơ bản để gọi tên cho thứ tư tưởng tổng hợp
này của nhà văn. Ông cho rằng tư tưởng nghệ thuật là một hình thái nhận thức đặc
thù của người nghệ sĩ: nhận thức bằng “toàn bộ con người tinh thần với tất cả nọi
dung phong phú và tính tổng thể toàn vẹn của nó”. Hình thức này này đòi hỏi nghệ


sĩ phải huy động toàn bộ mọi năng lực tinh thần của mình mà nội dung chính là
bao gồm lí trí và tình cảm, cảm xúc kết hợp hài hòa với nhau giống như xương cốt
và máu thịt, như thể xác với linh hồn con người. Và tư tưởng nghệ thuật cần được
hiểu như một hình thái tinh thần rất cụ thể, nó nảy sinh do sự cọ xát, va chạm một
cách rất cụ thể giữa trí tuệ và tâm hồn người sáng tác với hiện thực khách quan. Và
nó, ngay từ khi mới ra đời đã thể hiện ở một hình tượng, dù chỉ là một thứ hình
tượng phác họa còn thô sơ và chưa thật sáng sủa, rõ nét trong tâm linh nhà văn. Và
tư tưởng nghệ thuật nhà văn phải có sự cọ sát rất cụ thể giữa chủ thể và khách thể.
Nếu không tiếp xúc, không lăn lộn thực tế, không có kinh nghiệm sống, người cầm


bút không thể có được tư tưởng nghẹ thuật đúng nghĩa của nó, không sáng tạo
được hình tượng văn học có giá trị nghệ thuật thật sự. Như vậy, tư tưởng nghệ
thuật phải bao gồm hai mặt thống nhất đó là giữa chủ thể và khách thể nhưng xét
đến cùng chủ thể đóng vai trò quyết định.
Có thể xem tư tưởng nghệ thuật là một trong những cái đích cuối cùng cơ
bản nhất của của việc tìm hiểu một nhà văn. Và tư tưởng nghệ thuật không thể có
sự tách rời giữa nội dung và hình thức văn học, giữa tư tưởng và tài năng nghệ sĩ.
Đồng thời không thể có được một thứ tư tưởng nghệ thuật chung chung siêu cá thể
bởi vì “tư tưởng nghệ thuật phải là riêng của mỗi nhà văn. Nó là chỗ phân biệt cơ
bản giữa nhà văn này và nhà văn khác”.
Để khảo sát và tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn chúng ta căn cứ vào
“hình tượng nghệ thuật” bởi khi đã nói tư tưởng nghệ thuật thì chỉ có một cách
biểu hiện duy nhất là hình tượng nghệ thuật. “Hình tượng nghệ thuật là căn cứ duy
nhất để nhà nghiên cứu có thể tóm bắt được tư tưởng nghệ thuật của ông ta”
(Nguyễn Đăng Mạnh). Có nhiều mối quan hệ khăng khít giữa tư tưởng nghệ thuật
với toàn bộ đời sống tinh thần của người cầm bút nên nghiên cứu nghệ thuật của
một nhà văn nên không thể bỏ qua mọi biểu hiện tư tưởng và tâm lí của nhà văn đó
ngoài hoạt động sáng tác, ngoài tư cách nghệ sĩ… Đời sống tinh thần của con
người ta nói chung là một hiện tượng hết sức phong phú, tinh vi, phức tạp và đầy

bí ẩn. Chính vì thế mà ta thu thập các tư liệu về nhà văn là một công việc hết sức
cần thiết. Chẳng hạn chúng ta biết được Xuân Diệu là con của vợ lẽ, từ nhỏ phải xa
mẹ nên ông là một người rất nhạy cảm và rất dễ động lòng; Nam Cao ít nói, có tính
“nhát người” nhưng uống rượu thì “đếch sợ cả Gorki”; Nguyên Hồng thì sinh hoạt
quá dễ dãi thậm chí lam lũ và đặc biệt ông rất dễ khóc; Vũ Trọng Phụng là con
người hết sức hiếu thảo và có tính sòng phẳng trong quan hệ bạn bè; Nguyễn Tuân
thì chỉ thích nói ghét người này người khác mà ít thấy nói yêu ai, quý ai; Xuân
Quỳnh có một cuộc đời bất hạnh từ nhỏ, chị vừa theo đuổi một tình yêu lí tưởng và
khao khát hạnh phúc thiết thực đời thường…Tất cả những chi tiết tiểu sử và những
thói tật tưởng như vụn vặt ấy nhưng thật ra rất bổ ích và thú vị để chúng ta phán
đoán về tư tưởng, tâm lí hay cá tính các nhà văn.
Tóm lại, căn cứ thật sự đáng tin cậy đối với mọi phán đoán về tư tưởng nghệ
thuật của nhà văn vẫn chỉ có thể là những hình tượng nghệ thuật của nhà văn đó.
Còn tất cả những tư liệu khác dù thú vị đến đâu thì chỉ để tham khảo thêm từ chính
các hình tượng trong các tác phẩm của nhà văn. Hình tượng nghệ thuật bao giờ
cũng được sáng tạo trong khuôn khổ một tác phẩm được viết theo một thể loại nào
đó. Hình tượng có thể khảo sát ở nhiều cấp độ và bình diện khác nhau nhưng dù
cấp nào, bình diện nào cũng chỉ có thể đánh giá đúng giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa tư
tưởng của nó. Theo ý kiến của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì ông cho rằng trong
thế giới nghệ thuật thường có một số hình tượng tâm huyết nhất, cứ trở đi trở lại


nhiều lần như một “ám ảnh” đối với nhà văn. “Những hình tượng như thế càng có
tính phổ biến bao nhiêu, càng có ý nghĩa tư tưởng sâu sắc và cơ bản bấy nhiêu”.
Khi tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật cơ bản của một nhà văn có đòi hỏi phải
một trình độ khái quát, tổng hợp, hệ thống hóa cao. Nếu khái quát không đầy đủ,
không triệt để, sẽ dẫn đến những kết luận không chính xác. Và một yêu cầu đặt ra
cho việc tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật nhà văn là chúng ta phải kiểm tra lại độ
chính xác của những kết luận của mình về tư tưởng, nghệ thuật của nhà văn
bằng nhà văn cũng như mọi hoàn cảnh riêng chung như gia đình, xã hội, thời đại…

có liên quan xa gần đến tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Có ba cách kiểm tra
sau: nhiều cuộc khảo sát, dựa vào nhiều căn cứ khác nhau ở trong văn chương và
ngoài văn chương, ở đặc điểm con người.
-Một là bắt đầu từ sự khảo khảo sát chính những quan hệ nội tại của thế giới
nghệ thuật nhà văn. Bởi vì thế giới nghệ thuật của nhà văn là một chỉnh thể, và đã
là chỉnh thể thì thì phải có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc nội tại của nó.
-Hai là đối chiếu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn với những biểu hiện tư
tưởng ngoài sáng tác của ông ta. Con người là một hiện tượng rất phong phú và
phức tạp. Đối với nhà văn, con người trong tác phẩm và con người ở ngoài đời
không đồng nhất. Không đồng nhất không có nghĩa là không thống nhất. Vì vậy, sự
đối chiếu tư tưởng nhà văn trong nghệ thuật và con người trong đời sống của nhà
văn vẫn rất có ý nghĩa. Ở đây chúng ta không nên lấy những tư tưởng biểu hiện ở
ngoài đời làm chuẩn vì đó là những căn cứ để soi sáng thêm và kiểm nghiệm thêm
độ chính xác của những kết luận vào thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ.
-Ba là đối chiếu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn với giả thuyết về nguồn
gốc phát sinh tư tưởng ấy. Giả thuyết này xây dựng trên quan niệm ý thức của con
người phản ánh tồn tại xã hội của nó, phản ánh điều kiện tồn tại khách quan của
nó. Những điều kiện, hiện tượng này gọi là hoàn cảnh ra đời của một nhà văn, một
hồn thơ. Đối với sự ra đời của một nhà văn, ta nên phân biệt hai loại hoàn cảnh
khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau: Đó là hoàn cảnh lớn và hoàn cảnh
nhỏ.
.Hoàn cảnh lớn: là hoàn cảnh tác động đến cả một xã hội, cả một dân tộc,
thậm chí cả nhân loại trong một thời kì lịch sử nhất định. Hoàn cảnh lớn quyết định
tàm cỡ tư tưởng của nhà văn. Khi phân tích hoàn cảnh lớn phải quan tâm đến hoàn
cảnh nhân văn, trình độ nhân văn của xã hội, của thời đại và những vấn đề có ý
nghĩa nhân văn mà nó đặt ra trước người cầm bút. Khi tìm hiểu hoàn cảnh lớn tác
động tới tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, chúng ta cần chú ý đến một vấn đề đặc
biệt quan trọng đó là bầu không khí tâm lí xã hội cụ thể trong đó nhà văn hít thở.
Vì nội dung cơ bản nhất của tư tưởng nghệ thuật thuộc phạm trù tâm lí như những
tình cảm, cảm xúc, những ước mơ, những khát vọng,… Nhà văn suy tư, cảm nghĩ

và sáng tạo trong bầu không khí tâm lí xã hội ấy và bị nó chi phối trực tiếp.


.Nhưng khi giải thích tư tưởng nghệ thuật chúng ta không chỉ căn cứ vào
hoàn cảnh lớn mà còn phải căn cứ vào hoàn cảnh nhỏ của nhà văn. Hoàn cảnh nhỏ
có quan hệ trực tiếp đến đời sống cá nhân nhà văn, bao gồm hoàn cảnh xã hội,
hoàn cảnh gia đình, quan hệ bè bạn, môi trường văn hóa, phong tục,… “Nếu hoàn
cảnh lớn tác động đến chiều hướng chung và tầm cỡ chung của tư tưởng nghệ
thuật nhà văn, thì hoàn cảnh nhỏ đem đến cho tư tưởng ấy nội dung và hình hài cụ
thể”.
Như vậy để khảo sát và tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn chúng ta
căn cứ vào “hình tượng nghệ thuật” và đòi hỏi phải một trình độ khái quát, tổng
hợp, hệ thống hóa cao. Bên cạnh đó chúng ta phải kiểm tra lại độ chính xác của
những kết luận của mình về tư tưởng, nghệ thuật của nhà văn.
Câu2: Dẫn chứng về việc tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân (1910- 1987) là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái
đẹp. Ông đã tạo cho mình một thế giới nghệ thuật hết sức độc đáo.
Trước cách mạng tháng Tám, trong thế giới nghệ thuật của ông, có một nhân
vật luôn luôn hiện diện ở trung tâm của hầu hết các tác phẩm của nhà văn chủ yếu
được thể hiện trong tập truyện ngắn “Vang bóng một thời”. Nhân vật này thường
xưng “tôi”, nhưng nhiều khi cung sắm những vai khác nhau: nhà nho bất đắc chí,
đào nương, kép hát, văn sĩ, họa sĩ, bồi tàu, tướng cướp,…Nhưng dù dưới hình thức
nào cũng đều tự khẳng định bằng thái độ ngông nghênh, khinh bạc. Chỗ dựa để
nhân vật này có thể đặt mình lên trên thiên hạ là tài hoa hơn đời và cái gọi là “thiên
lương” trong sạch, không chịu hoà mình vào môi trường tầm thường, phàm tục chỉ
biết thờ phụng cường quyền phi nghĩa và đồng tiền. Con người này suốt đời săn
tìm cái đẹp, không phải ở hiện tại mà và tương lai, mà ở quá khứ “vang bóng một
thời”, với những phong tục xưa, những thú chơi tao nhã, những giá trị nghệ thuật
cổ điển: nhắm rượu, uống trà, chơi lan, chơi cúc, đánh thơ, hát ả đào, chơi cờ

tướng, chơi chữ đẹp, thú giang hồ lãng tử,…Các nhân vật này được thể hiện qua
một số tác phẩm mà tác giả đã thành công một cách rực rỡ. Những chiếc ấm đất,
Chén trà trong sương sớm, Hương cuội. Qua các tác phẩm trên Nguyễn Tuân ta
biết thêm được cái thú uống trà của các cụ ta ngày xưa đó không phải là một cử chỉ
ăn uống tầm thường mà là một hành vi đặc biệt, có lễ nghi và nhịp điệu rõ ràng. Và
ở đây, Nguyễn Tuân có cảm tình với những người như cụ Sáu, ông Đốc học, sư cụ
chùa Đồi Mai, cả “người ăn mày cổ quái” biết thưởng thức một chén trà trong
sương sớm. Ông ca tụng cụ Kép làng Mọc “ nguyện đem cái quãng đời xế chiều
của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý”. “Mùa xuân cùng vài người bạn
tri âm, tri kỉ ngồi thưởng hoa, uống rượu, ngâm thơ”. Còn ở Đánh thơ và Thả thơ,
Nguyễn Tuân diễn tả cảnh đánh bạc cũng được ham mê ráo riết, nhưng phủ ngoài
một vẻ tao nhã, văn chương. Và nhất là ở “Đánh thơ”, những nhân vật được trình


bày với những lời ăn tiếng nói riêng, với những suy xét theo hồi ấy. Sau cái chết
sau cùng của đôi vợ chồng ông phó sứ Lăng và cô Mộng Liên, tác giả cho chúng ta
thấy một sự thương cảm đôi vợ chồng lãng tử giang hồ này. Ngoài ra cũng trong
“Vang bóng một thời” có hai truyện phải chú ý là “Chém treo ngành” và “Chữ
người tử tù”. “ Chém treo ngành” nói về cái tài của tên đao phủ Bát Lê, chém đầu
những người bị án trảm một cách gọn ghẽ, không đến hai nhát. Ngòi bút của
Nguyễn Tuân tưởng như khách quan lạnh lùng, thật ra ý nhà văn để chỗ khác. Ông
nói đến một “ quan Công sứ” một quan Đổng lí quân vụ và mười hai tên tử tù của
“ loạn đảng Bãi Sậy”, nhưng người đọc tinh ý thấy Nguyễn Tuân đang nói đến
những vụ hành hình những người yêu nước đầu thế kỉ XX. Nỗi đau buồn của nhà
văn bộc lộ ở đoạn ông tả Bát Lê tập chém chuối: “Mỗi buổi chiều mặt trời lặn,
mấy con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Nhưng
thân chuối cao vút và tàu lá chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu
mấy tiếng thưa thớt rồi bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa ngâu, vườn chuối dầm
dề một khúc nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu”. Về lòng căm phẫn của mình
thì ông không che giấu nữa trong đoạn kết thúc truyện : “ Lúc quan Công sứ ra về,

khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn dính vào da cổ người chết quỳ, sân pháp
trường sắp giải tán bỗng nổi lên một trận gió gió lốc xoáy rất mạnh. Thường
những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn lốc cuốn gãy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh
đến thế thôi. Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi lên xoay vòng quanh đám tử thi và
đuổi theo các quan đang ra về. cái mũ trắng ở trên đầu quan Công sứ bị cơn lốc
dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lốc lộn mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan thủ
hiến và thì thào …bấy giờ vào khoảng giữa giờ thân”.
Còn trong “Chữ người tử tù” thì bất cứ ai cũng biết tác giả nói đến ông Huấn
Cao không ai khác là Cao Bá Quát, khi cầm đầu cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương, đang
giữ chức giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây). Nhà văn không chú ý mấy đến bài viết
chữ của ông Huấn mà ở đây ông đề cao phẩm cách hiếm có của ông Huấn Cao,
bằng cách tả lòng trọng nghĩa liên tài của viên quản đốc đề lao: “Trong hoàn cảnh
đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, thì tính cách dịu dàng, biết
trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một âm thanh trong trẻo chen vào
giữa một bản nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, cũng như qua những ý nghĩa thầm
lặng của viên ngục quan ấy: “Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết quý trọng
người có tài hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn
Cao, ta muốn ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng”. Và đặc biệt qua lời
khuyên của ông Huấn đối với viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy
quản nên thay đổi chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng
trẻo với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành
của đời con người…Tôi bảo thực đấy: thầy nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy
thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ, ở đây khó giữ
được thiên lương cho lành vững, và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương


thiện đi”. Chính những câu văn đó đã chứng tỏ “thiên lương” của nhà văn, lòng
yêu nước khát khao theo đuổi một lý tưởng cao cả của nhà văn.
Nguyễn Tuân đã làm sống lại cái không khí cổ xưa đó cũng một phần hoàn
cảnh gia đình của Nguyễn Tuân có một đặc điểm. Gia đình cụ tú Nguyễn An Lan,

thân sinh Nguyễn Tuân, là cả một môi trường “Vang bóng một thời”. Từ nhỏ nhà
văn sống trong không khí của môi trường ấy với những tiệc rượu, tiệc trà đầy nghi
lễ của một lớp người dường như còn sót lại của thời đại trước. Cụ Tú Lan cũng là
người đã truyền cho người con trai cả của mình dòng máu “ngông” của một nhà
nho bất đắc chí…Ta có thể hiểu được tư tưởng nghệ thuật Nguyễn Tuân là nhờ đã
đặt nó trong quan hệ với môi trường rất riêng của nhà văn.
Như vậy tư tưởng nghệ thuật cơ bản của Nguyễn Tuân trước cách mạng
tháng Tám có thể khẳng định là một tinh thần yêu nước thiết tha bộc lộ ở thái
độ bất hòa, bất mãn với xã hội thực dân, ở chỗ ngợi ca vẻ đẹp tinh vi độc đáo và
đầy tự hào của những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Cuộc cách mạng tháng Tám đã làm thức dậy trong lòng Nguyễn Tuân niềm
tin yêu đối với cuộc sống, đối với con người, “một tiếng chó sủa khách, một câu ru
con láng giềng, những tiếng coong coong xe ngựa đài tải trong sương chiều. đời
sống thật là muôn vẻ…Nguyễn thấy cái gì cũng thú vị cả, miễn là nó ở chung
quanh mình, nó ở trong cuộc đời mà ta nhìn được, nghe được, sờ mó được”. Điều
này được thể hiện cụ thể ở một số tác phẩm sau cách mạng như tùy bút Đường vui,
Tình chiến dịch, Sông Đà hay tập bút kíHà Nội ta đánh Mĩ giỏi…
Tùy bút “Đường vui” là bài ca của một con người mang tâm trạng háo hức,
tươi vui, tin tưởng đi vào cuộc kháng chiến. chất nghệ sĩ, chất lãng mạn, “chất
công dân” trong con người ông đã tạo nên những trang viết thật hồn nhiên, thật xúc
động. “Bạn ơi ta leo dốc cho chắc bước cho đều bước , ta xuống dốc cho ròn cho
dẻo. Rừng mai, rừng trúc, chậm lại mà thấm lấy phong quang của cảnh sắc quê
hương. Chỗ nào là núi đất rừng nứa, ta nhanh bước lên muỗi vắt nhiều lắm đấy.
Suối trong mời ta và giặt phơi luôn quần áo trên những tảng đá của tranh thủy
mặc Tàu. Rồi vừa đi vừa phơi luôn quần áo trên lưng mình trên đầu mình, ta hãy
dành một phút mà mặc niệm người thợ giặt cũ”.
“Tình chiến dịch” là sự tiếp nối âm hưởng sôi động của cuộc kháng chiến
được bắt đầu từ tùy bút “Đường vui”. Tuy ông không trực tiếp tham gia vào cá trận
đánh, nhưng ông theo sát bộ đội trong các cuộc hành quân, cũng sống ở chiến khu,
cũng vào đồn địch, cũng làm công tác dân vận..Nguyễn Tuân thật sự tâm huyết và

có sự đồng cảm với nhân dân và bộ đội trong cuộc kháng chiếng chống thực dân
Pháp đầy gian khổ. Ngòi bút của Nguyễn Tuân đầy trách nhiệm và tình người.
Nguyễn Tuân là người say đi, say khám phá và sáng tạo. Gần như không có
nơi nào trên đất nước là ông chưa từng đặt chân đến. Nhiệt tình cách mạng, tình
cảm tha thiết đối với quê hương, đất nước cùng với sự hiểu biết phong phú về cảnh
sắc và con người đã giúp Nguyễn Tuân viết nên những thiên tùy bút thật đặc sắc,


có sức lay động lòng người. “Sông Đà” là kết quả của cuộc đấu tranh tư tưởng và
chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây
Bắc dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã hiện lên rực rỡ với muôn sắc màu. Viết về
cái đẹp vốn là sở trường và niềm say mê của ông. Vì thế mà con sông Đà hiện lên
thật nên thơ và gợi cảm dưới ngòi bút của ông: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Con sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện bằng những đoạn văn giàu nhạc điệu và
rất trữ tình: “ Cảnh ven sông ở đây lặng như tờ. Hình như từ đời Lí , đời Trần, đời
Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương
ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ tranh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm
sương đêm… bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Và có rất
nhiều những trang văn giàu âm điệu, giàu màu sắc khi tác giả nói về vẻ đẹp của
con người sông Đà. Nhưng cái tạo nên một phong cách mới, một sự thay đổi về
chất trong con người Nguyễn Tuân chính là cái vẻ đẹp thiên nhiên đó đã được gắn
kết với vẻ đẹp trong tâm hồn con người. Nguyễn Tuân “đi tìm cái thứ vàng của
màu sắc sông núi Tây Bắc”, nhưng quan trọng hơn là ông muốn đi tìm “cái túi
vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người này đang nhiệt tình gắn
bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và vững bền”.
“Sông Đà” mang đậm cảm hứng lãng mạn cách mạng, nó đánh dấu sự kế
thừa và phát triển của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, nó khẳng định độ chín

muồi của ngòi bút Nguyễn Tuân sau cách mạng.
Trong những ngày Hà Nội đánh Mĩ, ông cũng có ngay tập ký “Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi” nói về ý chí và lòng dũng cảm của bộ đội, nhân dân thủ đô, đồng
thời vạch trần âm mưu và những thủ đoạn đê tiện, bỉ ổi của bọn giặc Mĩ. Phải là
người hiểu thấu và yêu Hà Nội tha thiết, Nguyễn Tuân có được những trang viết về
người Hà Nội đánh Mĩ. Người Hà Nội mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu song
vẫn giữ được nét tài hoa, tài tử của mình. Trong bom rơi, đạn nổ, phong thái của
người Hà Nội vẫn ung dung tự tại, đầy lạc quan, tin tưởng vào sự tất thắng của
chính nghĩa. Bài ký này không chỉ đóng góp đáng kể của Nguyễn Tuân về nội dung
tư tưởng mà còn ở giá trị nghệ thuật. Nó là sự phản ánh nhiệt tình yêu nước, lòng
căm thù giặc của tác giả và sức mạnh của thể ký trong việc diễn tả dung lượng lớn
lao của dân tộc.
Qua việc tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật Nguyễn Tuân ta có thể thấy rằng
những sáng tác trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân luôn thể hiện là một
nghệ sĩ tài tử, ngông nghênh, kiêu bạc với cuộc đời. Bất mãn với xã hội, một mặt
ông đi tìm những vẻ đẹp thuần túy trong thiên nhiên, xã hội, mặt khác quay lưng
với thực tại, trở về với quá khứ, với những vẻ đẹp “ vang bóng một thời”, hay tiêu
phí cuộc đời trong bê tha trụy lạc…Tất cả những phản ứng đó đều mang ý nghĩa


tiêu cực nhưng trong đó cũng chứa đựng hạt nhân tích cực, đó là sự bất hợp tác của
Nguyễn Tuân đối với chế độ thực dân nửa phong kiến. Cách mạng tháng Tám đã
mở ra một chân trời mới cho sáng tạo nghệ thuật. Nguyễn Tuân nhanh chóng hòa
mình cùng với nhân dân, với dân tộc, lúc bấy giờ cái tôi cá nhân của Nguyễn Tuân
đã hòa vào cùng một nhịp với cái của dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb giáo
dục.
2. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách,

Nxb văn học, 2006.
3. Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu Nguyễn Tuân về tác giả và tác phẩm,
Nxb giáo dục, 2001.



×