Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đánh giá học sinh tiểu học theo TT222016BGDĐT ở trường THTHCS phú sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.68 MB, 24 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

TRƯỜNG TH&THCS PHÚ SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUA
CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC THEO
THÔNG TƯ 22/2016/TT-BGDĐT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ PHÚ SƠN, BỈM SƠN

Người thực hiện: Phạm Thị Hường
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường TH&THCS Phú Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí

BỈM SƠN NĂM 2018


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang
A. MỞ ĐẦU
1
I.Lí do chọn đề tài
1
II.Mục đích nghiên cứu
2
III.Đối tượng nghiên cứu
2


IV.Phương pháp nghiên cứu
2
B. NỘI DUNG
3
I. Cơ sở lí luận
3
II. Thực trạng giáo viên trong việc đánh gái học sinh theo Thông tư 22
4
trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
III. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đánh giá học sinh

5

Tiểu học theo Thông tư 22/2016/BGD-ĐT
1. Quán triệt nhận thức cho đội ngũ CB, G V- C N V trong nhà

6

trường về tầm quan trọng của việc đổi mới đánh giá theo
TT22/2016/ BGD- ĐT.
2. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo việc đổi mới đánh giá HS Tiểu học
theo TT22 và văn bản hợp nhất số 03/2016/ BGD-ĐT ngay từ khi có

8

công văn của PGD & ĐT
3. Nâng cao kĩ năng quan sát, theo dõi, tư vấn cho học sinh Tiểu học

10


về kiến thức, năng lực, phẩm chất.
4. Định hướng giáo viên dùng lời nhận xét mang tính động viên,

11

khích lệ. Lời nhận xét phải cụ thể, dễ hiểu.
5. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, phát huy những ưu điểm

14

trong quá trình dạy học theo mô hình VNEN
6. Nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa giáo viên với phụ huynh học

15

sinh trong quá trình đánh giá, nhận xét học sinh.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với bản thân, đồng

17

nghiệp và nhà trường:
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHI
18
I. Kết luận
18
II. Kiến nghị
18
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Trong quá trình giáo dục, đánh giá nhận xét học sinh được hiểu là quá trình

hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả dạy- học, dựa vào sự phân tích
những thông tin thu được đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất
những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác giáo dục.


Qua cách hiểu trên, đánh giá nhận xét học sinh trong giáo dục không chỉ ghi
nhận thực trạng mà còn đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng giáo dục
theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Trong công tác giáo dục, việc đánh giá
được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau và với những mục đích khác nhau. Song,
nội dung đánh giá xoay quanh đánh giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả
học tập của HS theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục tiểu học
theo từng môn học và hoạt động giáo dục.
Từ năm học 2013-2014 trở về trước, nền giáo dục Việt Nam luôn lấy điểm
số để đánh giá học sinh. Tuy nhiên, qua nhiều thời gian đúc rút kinh nghiệm
chúng ta đã nhận thấy hình thức đánh giá đó khiến học sinh áp lực về điểm số,
nhất là học sinh tiểu học. Kế thừa và phát huy những ưu điểm về đánh giá học sinh
tiểu học đã thực hiện trước đây, đặc biệt là đổi mới đánh giá đã thực hiện trong ba
năm học ở các trường tiểu học triển khai Mô hình trường học mới Việt Nam; học
tập kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã không dùng điểm số, thay vào đó
học sinh nhận được những động viên, phản hồi từ giáo viên về sản phẩm học tập
của các em, về các câu trả lời của các em… và biện pháp để các em vượt qua các
khó khăn trong học tập vì thế Thông tư 30/2014 của Bộ Giáo dục và Đào ban hành
quy định đánh giá học sinh tiểu học ra đời.
Thông tư 30/2014/BGD-ĐT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/10/2014 và chính
thức được áp dụng vào việc đánh giá học sinh các trường Tiểu học trên toàn quốc.
Từ chỗ kiểm tra đánh giá thường xuyên bằng điểm số và chủ yếu hướng vào ghi
nhớ kiến thức trước đây, được thay bằng đánh giá thường xuyên bằng nhận
xét và kiểm tra đánh giá hướng vào năng lực, chú ý nhận xét, tư vấn, phản
biện, mức độ thể hiện năng lực, phẩm chất học sinh. Đặc biệt, cách đánh giá

mới, không xếp loại học tập theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu, không so
sánh học sinh này với học sinh khác, đã khuyến khích được các em tự nỗ lực
vươn lên, góp phần đáng kể giảm áp lực điểm số, căn bệnh thành tích trong giáo
dục.
Là những người làm công tác giáo dục, chúng ta không thể không ghi nhận
những đổi mới của Thông tư 30 trong việc đánh giá học sinh bậc tiểu học một cách
toàn diện hơn và giảm bớt áp lực về ganh đua điểm số. Tuy nhiên, sau hơn 2 năm
thực hiện, Thông tư cũng bộc lộ một số bất cập, nhất là đã tạo ra nhiều áp lực đối
với giáo viên tiểu học trong việc đánh giá, nhận xét học sinh.
Thông tư 22 ra đời và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06 tháng 11 năm 2016
trên cơ sở sửa đổi bổ sung những điều bất cập của thông tư 30, bên cạnh đó sự ra
đời của Thông tư 22 với hi vọng sẽ tạo ra khí thế mới cho giáo viên và học sinh
tiểu học trong quá trình dạy- học. Đến nay, tất cả các trường Tiểu học trên toàn
quốc đã áp dụng vào thực tiễn dạy – học được gần hai năm học, các thầy cô giáo
tiểu học đón nhận Thông tư 22 một cách rất phấn khởi.
Thật vậy, theo lời học giả về giáo dục K. Patricia Cross đã viết: “Công việc
của người thầy ưu tú là kích thích những người có vẻ tầm thường có nỗ lực phi
thường. Vấn đề hóc búa là không phải xác định những người chiến thắng; mà
làm cho những người bình thường trở thành người chiến thắng.” Do vậy,


những lời nhận xét của người thầy thực sự rất quan trọng với học sinh. Cùng một
học sinh đó nhưng với những lời nhận xét trái ngược nhau sẽ cho ra những kết quả
khác nhau sau lời nhận xét đó.
Với cương vị là một nhà quản lí, để góp phần cùng với đội ngũ giáo viên nhà
trường thực hiện tốt mục tiêu của Thông tư 22/2016/BGD-ĐT là quan tâm đến
các môn học, hoạt động giáo dục, sự phát triển về năng lực và phẩm chất của mỗi
học sinh đảm bảo theo tinh thần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục nêu ở Nghị
quyết 29/NQ-TW bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, đồng hành cùng với đội ngũ
giáo viên trong quá trình chỉ đạo, triển khai, thực hiện đánh giá học sinh theo

Thông tư 22/2016/BGD-ĐT. Vì lẽ đó, bản thân tôi đã chọn nội dung “Một số biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư
22/2016/BGD&ĐT của bậc Tiểu học trường Tiểu học và Trung học cơ sơ
(TH&THCS) Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn” làm đề tài nghiên cứu trong năm học 20172018.
II. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng việc đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 22 của
đội ngũ giáo viên bậc Tiểu học trường TH&THCS Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh
Thanh Hóa thời gian qua và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác đánh
giá, nhận xét học sinh tiểu học cho đội ngũ giáo viên bậc tiểu học của trường
TH&THCS Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Sáng kiến nghiên cứu hoạt động đánh giá, nhận xét
học sinh theo Thông tư 22 của đội ngũ giáo viên bậc tiểu học của trường
TH&THCS Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, bản thân đã sử dụng các phương pháp:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tham khảo tài liệu, phân tích, tổng
hợp khái quát hóa các vấn đề tài liệu có liên quan để làm cơ sở lí luận cho sáng
kiến.
2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra bằng phiếu
- Phương pháp trắc nghiệm
3. Phương pháp toán học: sử dụng thống kê để xử lí thông tin, số liệu.
4. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết, đánh giá kết quả của
sáng kiến và những mặt còn hạnh chế, rút kinh nghiệm.
5. Phương pháp thực nghiệm
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1. Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình thu thập, phân tích
và xử lí các thông tin về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh theo mục tiêu môn

học (hoặc hoạt động) nhằm đề xuất các giải pháp để thực hiện mục tiêu của môn
học (hoặc hoạt động) đó.
2. Đánh giá thường xuyên:


Tại điều 6 của Thông tư 22 ghi rõ: Đánh giá thường xuyên là đánh giá trong
quá trình học tập, rèn luyện về kiến thức, kĩ năng, thái độ và một số biểu hiện năng
lực, phẩm chất của học sinh, được thực hiện theo tiến trình nội dung của các môn
học và các hoạt động giáo dục.
Đánh giá thường xuyên cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và học
sinh nhằm hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh theo mục
tiêu giáo dục tiểu học.
Đánh giá thường xuyên về học tập:
- Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ đúng, chưa đúng
và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh khi cần
thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời;
- Học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của bạn, nhóm
bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập để học và làm tốt hơn;
- Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi với giáo viên về các nhận xét, đánh
giá học sinh bằng các hình thức phù hợp và phối hợp với giáo viên động viên, giúp
đỡ học sinh học tập, rèn luyện.
Đánh giá thường xuyên về năng lực, phẩm chất:
- Giáo viên căn cứ vào các biểu hiện về nhận thức, kĩ năng, thái độ của học
sinh ở từng năng lực, phẩm chất để nhận xét, có biện pháp giúp đỡ kịp thời;
- Học sinh được tự nhận xét và được tham gia nhận xét bạn, nhóm bạn về
những biểu hiện của từng năng lực, phẩm chất để hoàn thiện bản thân;
- Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi, phối hợp với giáo viên động viên,
giúp đỡ học sinh rèn luyện và phát triển năng lực, phẩm chất."
3. Đánh giá định kỳ
Điều 10 của Thông tư 22 nêu:

- Đánh giá định kì là đánh giá kết quả giáo dục của học sinh sau một giai
đoạn học tập, rèn luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của
học sinh so với chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định trong chương trình giáo dục phổ
thông cấp tiểu học và sự hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất học sinh.
- Đánh giá định kì về học tập
+ Vào giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II và cuối năm học, giáo viên căn
cứ vào quá trình đánh giá thường xuyên và chuẩn kiến thức, kĩ năng để đánh giá
học sinh đối với từng môn học, hoạt động giáo dục theo các mức sau:
Hoàn thành tốt: thực hiện tốt các yêu cầu học tập của môn học hoặc hoạt động
giáo dục;
Hoàn thành: thực hiện được các yêu cầu học tập của môn học hoặc hoạt động
giáo dục;
Chưa hoàn thành: chưa thực hiện được một số yêu cầu học tập của môn học
hoặc hoạt động giáo dục;
+ Vào cuối học kì I và cuối năm học, đối với các môn học: Tiếng Việt, Toán,
Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Ngoại ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc có bài kiểm tra định
kì;


Đối với lớp 4, lớp 5, có thêm bài kiểm tra định kì môn Tiếng Việt, môn Toán
vào giữa học kì I và giữa học kì II;
+ Đề kiểm tra định kì phù hợp chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát
triển năng lực, gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế theo 4 mức độ (nhận biết;
hiểu, vận dụng thông thường và vận dụng nâng cao).
- Đánh giá định kì về năng lực, phẩm chất
Vào giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II và cuối năm học, giáo viên chủ
nhiệm căn cứ vào các biểu hiện liên quan đến nhận thức, kĩ năng, thái độ trong quá
trình đánh giá thường xuyên về sự hình thành và phát triển từng năng lực, phẩm
chất của mỗi học sinh, tổng hợp theo 3 mức:
Tốt: đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục, biểu hiện rõ và thường xuyên;

Đạt: đáp ứng được yêu cầu giáo dục, biểu hiện nhưng chưa thường xuyên;
Cần cố gắng: chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu giáo dục, biểu hiện chưa rõ.
II. Thực trạng giáo viên trong việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22
trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Với việc sử dụng các phương pháp như: phỏng vấn trực tiếp; khảo sát qua vở
viết của học sinh (6/6 lớp); quan sát giờ dạy (15 giờ/15 lượt GV), xử lí, phân tích
và tổng hợp thông tin, bản thân thu được kết quả như sau:
1. Kết quả khảo sát qua vơ viết, bài kiểm tra của học sinh 6 lớp:
Nội dung khảo sát
Nhận xét, đánh giá
thường xuyên
Nhận xét, đánh giá
định kỳ

Rất tốt

Tốt

Đạt yêu
cầu
SL
%

Cần cố
gắng
SL
%

SL


%

SL

%

1

16,7

1

16,7

2

33,3

2

33,3

1

16,7

2

33,3


2

33,3

1

16,7

2. Nhận định chung qua phân tích số liệu sau khảo sát:
a) Thuận lợi:
Đa số giáo viên và cán bộ quản lí cho rằng về mặt ý tưởng hình thức đánh
giá này có nhiều ưu điểm và tán thành với việc thay đổi cách đánh giá sao cho đánh
giá nhẹ nhàng, giảm bớt áp lực tâm lí cho cả giáo viên và học sinh nhưng vẫn
khuyến khích và định hướng phát triển người học. Cô giáo Bùi Thị Dung, giáo viên
chủ nhiệm lớp 2A tâm sự: Với thông tư 22, chúng tôi rất phẩn khơi bơi sẽ giảm
được áp lực về làm sổ sách cho giáo viên để chúng tôi có thời gian để chuẩn bị bài
giảng và chăm sóc học sinh tốt hơn. Tuy nhiên, tôi cũng có một băn khoăn, đó là
trong ra đề cho khối 5 thì hiệu trương của các trường tiểu học tự ra, theo tôi thì
nên để phòng giáo dục ra để tạo sự công bằng, khách quan và có mặt chung cho
học sinh toàn thị xã.
b) Khó khăn
- Về giáo viên: Trên thực tế, giáo viên nhà trường đã có nhiều cố gắng thực
hiện việc đánh giá bằng hình thức nhận xét song trong quá trình thực hiện chỉ có
66,7% giáo viên thực hiện đầy đủ và đúng yêu cầu đánh giá bằng nhận xét, điều đó


cho thấy giáo viên vẫn còn “tiết kiệm” trong việc đánh giá, nhận xét học sinh bằng
lời nói, đặc biệt là các kĩ thuật thu thập chứng cứ và phần diễn đạt bằng lời khi
nhận xét bằng chữ viết vào vở học sinh vì vậy hiệu quả đánh giá bằng nhận xét
chưa cao. Có lúc, có tiết dạy của giáo viên việc đánh giá, nhận xét học sinh vẫn

còn ít, lời nhận xét bằng chữ viết của giáo viên vẫn chưa giúp phụ huynh phân định
được mức độ hoàn thành bài của con em mình.
Bên cạnh đó, một số ít giáo viên còn e dè trong lời nhận xét dành cho học
sinh chậm, yếu. Trên thực tế, để nhận xét bằng chữ viết cho học sinh đòi giáo viên
phải suy nghĩ ghi "lời phê như thế nào".... chính việc làm này khiến nhiều giáo
viên không kịp ghi vào vở học sinh, mất nhiều thời gian trong một ngày. Một
nhóm giáo viên hạn chế về chữ viết cho rằng việc ghi "lời phê đòi hỏi khi ghi chữ
cần chuẩn mực do đó họ không thể đang dạy mà chấm bài nên phải mang về nhà
chấm ....
Giáo viên nhận xét bài kiểm tra thường xuyên chưa ghi cụ thể những ưu
điểm, hạn chế bài làm của học sinh, vẫn còn tồn tại nhiều lời phê, lời nhận xét của
giáo viên chưa khuyến khích động viên học sinh cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ
được giao.
Ví dụ: Khi nhận xét trong vở chính tả của học sinh, một số giáo viên thường
ghi: “Em viết chưa đúng quy trình”. Học sinh khi đọc lời nhận xét sẽ khó hình
dung được không biết mình sai cụ thể lỗi gì, phải khắc phục thế nào.
Có thể nói, việc đánh giá, nhận xét bằng lời nói trực tiếp được đa số giáo
viên trong trường thực hiện rất tốt. Phần đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên
bằng chữ viết vẫn có một số giáo viên làm chưa thường xuyên hoặc lời nhận xét
chưa thể hiện được hết những vấn đề học sinh cần khắc phục, những điểm các em
cần phát huy.
- Đối với học sinh:
Học sinh còn hạn chế trong hiểu nghĩa từ nên việc nhận xét vở, phiếu học
tập của học sinh với một số từ chuyên môn sẽ khiến các em khó hiểu hơn là điểm
số.
Không chấm điểm thường xuyên thì có một số học sinh sẽ ít có động
lực để phấn đấu trong học tập.
- Đối với phụ huynh học sinh.
Vẫn còn có phụ huynh thích chấm điểm thường xuyên hơn nhận xét; chưa
thật sự ủng hộ và phối hợp với giáo viên để thực hiện tốt thông tư.

Số phụ huynh đi làm ăn xa, việc nhận xét vào vở để bố mẹ xem rất khó
thực hiện được.
III. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đánh giá học sinh
tiểu học theo Thông tư 22/2016/BGD&ĐT
1. Tiếp tục quán triệt nhận thức cho đội ngũ CB, G V- C N V trong nhà
trường về tầm quan trọng của việc đổi mới đánh giá theo TT22/2016/ BGDĐT.
Biện pháp này nhằm làm cho mỗi cán bộ quản lý, giáo viên bậc Tiểu học và
các đồng chí giáo viên đặc thù bậc THCS tham gia giảng dạy các môn Âm nhạc,


Mỹ thuật, Thể dục, Thủ công- Kỹ thuật ở bậc Tiểu học nhận thức đầy đủ về sự cần
thiết và tầm quan trọng của Thông tư 22 đối với hoạt động dạy- học trong sự
nghiệp giáo dục bậc Tiểu học.
Để thực hiện được mục tiêu nói trên, nhà trường tổ chức tập huấn chuyên đề
bậc tiểu học; Hội thảo về Thông tư 22/ BGD&ĐT ngay từ đầu năm học.
Trao đổi, thảo luận, chia sẻ để giáo viên ghi nhớ được các điểm mới của
Thông tư 22 so với Thông tư 30/2014 trước đó.
Nhận thấy được ưu điểm của Thông tư 22 trong quá trình kiểm tra, đánh giá,
nhận xét, xếp loại học sinh.
Với cương vị là người phụ trách chuyên môn, cùng với Ban giám hiệu nhà
trường, tôi đã giúp đội ngũ cán bộ, giáo viên bậc tiểu học và các đồng chí giáo viên
bậc THCS dạy các môn đặc thù ở bậc Tiểu học hiểu rõ hơn về ưu điểm và tầm quan
trọng của việc đổi mới đánh giá theo Thông tư 22. Từ đó giáo viên đã nhận ra:
-Thông tư 22 vẫn giữ nguyên tinh thần nhân văn, thể hiện: Việc giữ nguyên
nội dung Điều 1, Điều 2; Điều 3 thay từ “đánh giá” bằng từ “nhận xét”, Điều 4
sửa đổi tên điều và sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 3 Điều thể hiện rõ hơn tính
nhân văn đó là đánh giá vì sự tiến bộ, vì sự phát triển của học sinh, không so sánh
học sinh này với học sinh khác”.
- Giáo viên thuận lợi hơn khi đánh giá học sinh: Trong quá trình đánh giá
thường xuyên về học tập, việc đánh giá theo 3 mức: Hoàn thành tốt, hoàn thành và

chưa hoàn thành, xét về mặt tâm lý, 3 mức này nhìn nhận cụ thể hơn kết quả phấn
đấu của học sinh. Đồng thời cung cấp cho giáo viên những thông tin phản hồi rất
hữu ích liên quan đến quá trình học tập của học sinh, những lĩnh vực có sự tiến bộ,
lĩnh vực học tập nào còn khó khăn; giúp học sinh nhận ra mình thiếu hụt những gì
so với chuẩn kiến thức, kỹ năng để cả giáo viên và học sinh cùng điều chỉnh hoạt
động dạy và học.
Đánh giá sự hình thành và lực, phẩm chất của học sinh: Thông tư 22 viết gọn
lại thành 2 nhóm:
a) Năng lực: tự phục vụ, tự quản; hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề;
b) Phẩm chất: chăm học, chăm làm; tự tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ luật;
đoàn kết, yêu thương.”
Điều này giúp giáo viên dễ dàng hơn trong đánh giá, đồng thời tránh được
những hiểu lầm, sự suy diễn, ấp đặt lối suy nghĩ theo kiểu người lớn. Thông tư 22
cũng quy định thông qua quá trình đánh giá thường xuyên đến giữa và cuối mỗi
học kì, lượng hóa mỗi năng lực, phẩm chất thành ba mức: Tốt, Đạt, Cần cố
gắng (trước đây theo Thông tư 30 chỉ có 2 mức Đạt và Chưa đạt). Việc lượng hóa
này, cho phép giáo viên, cha mẹ học sinh xác định được mức độ hình thành, phát
triển năng lực, phẩm chất của học sinh sau một giai đoạn học tập, rèn luyện. Từ đó
giáo viên có những biện pháp kịp thời giúp đỡ học sinh khắc phục hạn chế, phát
huy những điểm tốt để các em ngày một tiến bộ hơn. Bên cạnh đó, học sinh có
động lực phấn đấu, cha mẹ học sinh dễ dàng nhận ra con mình ở mức nào.
Thật vậy, động cơ học tập bên trong là bản thân tri thức và phương pháp lĩnh
hội tri thức, những mong muốn, khát khao chiếm lĩnh tri thức có vai trò quyết định


đến kết quả học tập của học sinh. Tuy vậy không thể không kể đến động cơ bên
ngoài. Nhất là ở tiểu học, học tốt để đáp ứng mong đợi của cha mẹ, học tốt để được
cô khen, để được bạn bè tôn trọng, yêu mến là suy nghĩ, là động lực để các em học
tốt hơn. Việc đánh giá học sinh theo 3 mức; lớp 4, 5 có thêm bài kiểm tra giữa kì;
việc khuyến khích học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của

bạn, nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập; quy định về khen
thưởng khá rõ ràng giúp học sinh tự nhận ra mình có điểm mạnh gì, thiếu hụt
những gì về kiến thức kĩ năng để cố gắng phấn đấu. Bên cạnh đó, thái độ ân cần
niềm nở, vui mừng khi học sinh hoàn thành nhiệm vụ, những lời khen của cô khi
học sinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập rèn luyện là động lực để các em
ngày càng cố gắng hơn.
Theo đó, đánh giá học sinh xếp làm 3 mức hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa
hoàn thành, cũng như việc khen thưởng theo Thông tư 22 cũng giúp cha mẹ học
sinh nhận rõ hơn con mình đang ở mức nào. Bởi tâm lý chung của cha mẹ học sinh
vẫn còn hết sức quan tâm đến thành quả học tập, rèn luyện của các con sau một
năm học. Nhiều bậc làm cha mẹ tỏ ra băn khoăn, lo lắng và bối rối khi thấy các con
mỗi em được khen một kiểu vào dịp cuối năm”.
- Giáo viên được chủ động trong việc ghi chép sổ sách: Thông tư 22 quy định
hồ sơ đánh giá chỉ bao gồm Học bạ và Bảng tổng hợp kết quả đánh giá giáo dục
của lớp. Mặt khác trong đánh giá thường xuyên, giáo viên được trao quyền tự chủ
theo dõi sự tiến bộ của học sinh, dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ
đúng, chưa đúng và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của
học sinh khi cần thiết. Thay đổi này giúp cho giáo viên thuận lợi hơn khi thực hiện
đánh giá học sinh, có nhiều thời gian hơn để quan tâm đến việc hỗ trợ học sinh
trong quá trình dạy học.
- Giáo viên dễ dàng viết giấy khen, hội khuyến học, các tập thể, cơ quan doanh
nghiệp, dòng họ thuận lợi khi tổ chức khen thưởng: Thông tư 22 quy định khen
thưởng những học sinh hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện và
những học sinh có thành tích vượt trội hay tiến bộ vượt bậc về từng nội dung đánh
giá và khen thưởng đột xuất, học sinh có thành tích đột xuất trong năm học. Quy
định như vậy vừa cụ thể cụ thể hơn vừa giúp cho giáo viên và nhà trường thuận lợi
hơn trong vấn đề khen thưởng học sinh mà vẫn đảm bảo yêu cầu không gây áp lực
cho học sinh, phụ huynh và nhằm hạn chế bệnh thành tích trong giáo dục.
Tóm lại: Quán triệt đến toàn thể đội ngũ cán bộ, giáo viên bậc tiểu học và
giáo viên bậc THCS tham gia giảng dạy ở Tiểu học về vai trò, điểm mới của Thông

tư 2 2 /2016/TT-BGDĐT là việc làm cần thiết để giúp giáo viên bớt vất vả về vấn
đề nhận xét, sổ sách, dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu bài, giúp đỡ học
sinh trực tiếp trong quá trình dạy- học. Thay đổi cách đánh giá học sinh tiểu học
theo Thông tư 22 có nhiều ưu điểm. Bởi quy định đánh giá thường xuyên bằng
nhận xét không chỉ nhằm vào kết quả mà còn động viên, khuyến khích học sinh
phát huy hết khả năng của mình. Ngoài ra, trong quá trình học còn chú trọng đến
việc học sinh tự đánh giá lẫn nhau, cha mẹ học sinh cũng tham gia đánh giá. Với
cách làm này sẽ góp phần làm tăng sự gắn kết giữa gia đình với nhà trường


trong giáo dục học sinh. Đây là sự hoàn thiện quan trọng của ngành giáo dục
trong việc kiểm tra, đánh giá chất lượng học sinh. Việc nhận xét sự tiến bộ, thành
công trong học tập của học sinh sẽ mang lại hứng thú, niềm vui cho các em. Mặt
khác, khi đánh giá bằng nhận xét, giáo viên sẽ gần gũi, sâu sát và hiểu học sinh
hơn. Đặc biệt, chúng ta không thể so sánh em này với em khác vì điều kiện học tập
hay khả năng tiếp thu của các em.
2. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo việc đổi mới đánh giá học sinh bậc Tiểu
học theo TT22 và văn bản hợp nhất số 03/2016/ BGD-ĐT
-Nhà trường xây dựng được kế hoạch tập huấn, hội thảo qua đó chỉ đạo tiếp
tục triển khai thực hiện nội dung Thông tư 22 và văn bản hợp nhất số 03/BGD- ĐT
trong quá trình dạy dạy- học đến toàn thể cán bộ, giáo viên bậc Tiểu học và giáo
viên bậc THCS tham gia dạy ở Tiểu học trong nhà trường.
- Giáo viên biết, hiểu và xây dựng được kế hoạch thực hiện Thông tư 22 đúng
kế hoạch đề ra. Lên kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng vào chương trình Bồi dưỡng
thường xuyên của nhà trường và của cá nhân giáo viên.
- Tuyên truyền đến phụ huynh để biết và hiểu về những điểm khác của Thông
tư 22 so với Thông tư 30 trước đó trong quá trình đánh giá, nhận xét quá trình, kết
quả học tập của con em.
Thời gian tổ chức triển khai:
- Ngày 16/9/2017 Nhà trường tổ chức tập huấn cho 6 GV chủ nhiệm lớp

bậc Tiểu học và 5 giáo viên bộ môn (Tiếng Anh, Âm nhạc, Thể dục, Mĩ Thuật, Thủ
công- Kỹ thuật) bậc THCS tham gia giảng dạy ở Tiểu học về nội dung Thông tư
22.
- Ngày 26/11/2017, Phó Hiệu trưởng phụ trách bậc học tuyên truyền phổ biến
Thông tư 22 đến toàn thể học sinh nhà trường trong tiết chào cờ đầu tuần.
- Ngày 23/9/2017: Đồng chí Phó Hiệu trưởng phụ trách bậc học họp triển
khai công tác tuyên truyền Thông tư 22/2016 đến toàn thể phụ huynh học sinh Bậc
Tiểu học nhà trường thông qua lần họp phụ huynh thứ nhất trong năm học. Từ đó
giúp cho phụ huynh hiểu rõ về cách thay đổi đánh giá học sinh tiểu học mới để
phụ huynh có sự phối kết hợp với giáo viên trong công tác dạy học và giáo dục.
Tác dụng, hiệu quả của biện pháp:
- Nhà trường đã xây dựng được kế hoạch và tổ chức thành công công tác tập
huấn và tuyên truyền về Thông tư 22 đến toàn thể cán bộ, giáo viên, công
nhân viên, phụ huynh, học sinh bậc Tiểu học trong nhà trường.
- Giáo viên nắm vững điểm mới của Thông tư 22 so với Thông tư 30; thống
nhất với kế hoạch nhà trường đã đề ra. 100 % cán bộ, giáo viên tham gia tập huấn
đầy đủ, có chất lượng.
- Phụ huynh thấu hiểu, đồng tình và hưởng ứng về cách đánh giá, nhận xét
học sinh theo Thông tư 22.
- Học sinh nhận ra những điểm mới về quy định đánh giá, nhận xét, xếp loại
học sinh theo thông tư 22.


Như vậy, thông qua việc xây dựng kế hoạch chỉ đạo việc đổi mới đánh
giá theo Thông tư 22/2016/ BGD-ĐT đã từng bước giúp cán bộ, giáo viên, học sinh
và phụ huynh học sinh hiểu rõ hơn về thông tư 22. Qua đó, giúp giáo viên nắm
được nguyên tắc đánh giá là đánh giá sự tiến bộ và vì sự tiến bộ của học sinh, giúp
học sinh phát huy nội lực, tiềm năng của mình, không so sánh học sinh này với học
sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh …Nội dung
đánh giá là đánh giá toàn diện quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của

học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học và hoạt động giáo dục
khác theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học; sự hình thành và phát
triển một số năng lực, phẩm chất của học sinh. Bao gồm đánh giá thường xuyên
trong quá trình học (chỉ nhận xét, không dùng điểm số) và đánh giá định kì giữa
học kỳ I (đối với khối 4-5), cuối học kì I, giữa học kỳ II (đối với khối 4-5) và
cuối năm học (dùng cả điểm số và nhận xét). Coi trọng đánh giá ngay trong quá
trình học tập của học sinh, biết được học sinh đạt kết quả bằng cách nào, vận dụng
kết quả đó như thế nào, giáo viên tư vấn, hướng dẫn giúp đỡ để học sinh hoàn
thành nội dung học tập và có phương pháp học tốt hơn; hướng dẫn học sinh biết tự
đánh giá mình và nhận xét, góp ý bạn, khuyến khích cha mẹ tham gia đánh giá
học sinh. Thông tư 22 là sự điều chỉnh theo hướng dễ hóa cho giáo viên trên tinh
thần của Thông tư 30 trước đó. Chủ trương mới, phù hợp với sự phát triển của trẻ,
rất cần được làm đúng, triệt để hơn, chuẩn bị và thực hành tốt hơn…Giáo viên cần
dựa vào mục tiêu nội dung bài học, đối chiếu sản phẩm đạt được theo cách học
của học sinh với chuẩn kiến thức, kĩ năng; xem xét, cân nhắc các đặc điểm tâm
sinh lí, hoàn cảnh… của học sinh để có nhận xét xác đáng, kịp thời, sao cho khích
lệ được học sinh, làm cho các em hứng thú học tập; đồng thời còn phải tư vấn,
hướng dẫn giúp các em biết được những hạn chế và biết tự mình khắc phục. Giáo
viên được quyền chủ động viết nhận xét vào vở hoặc phiếu học tập, hoặc bài kiểm
tra của học sinh sao cho thuận tiện trong việc phối hợp giáo viên, học sinh và cha
mẹ học sinh cùng đánh giá, rút kinh nghiệm, hướng đến sự tiến bộ của học sinh.
Thông tư 22/2016 quy định, yêu cầu giáo viên cần quan tâm đánh giá tất cả học
sinh, không được “quên” em nào nhưng chỉ cần ghi nhớ những điểm nổi bật hoặc
những điều cần thiết về học sinh để giáo viên theo dõi và có biện pháp cụ thể, riêng
biệt giúp đỡ kịp thời (đối với học sinh chưa hoàn thành, giáo viên giúp học sinh tự
hoàn thành hoặc những học sinh hoàn thành tốt giáo viên giúp hứng thú học tập
hơn).
3. Nâng cao kĩ năng quan sát, theo dõi, tư vấn cho học sinh Tiểu học về
kiến thức, năng lực, phẩm chất.
Vai trò của biện pháp: Giúp đội ngũ giáo viên có thêm kỹ năng quan sát, theo

dõi quá trình hoạt động trong học tập và rèn luyện để từ đó có sự tư vấn, giúp đỡ
học sinh kịp thời về kiến thức cũng như năng lực, phẩm chất.
Để có được kết quả quan sát tốt, trong quá trình dạy - học, giáo viên cần
chọn vị trí thích hợp quan sát thái độ, cử chỉ nét mặt của học sinh để phát hiện em
nào gặp khó khăn, kịp thời có biện pháp giúp đỡ.


Nếu nhiệm vụ học tập là vấn đề khó với đa số học sinh, giáo viên nên hướng
dẫn chung với cả lớp. Để học sinh thuận lợi trong trao đổi, tương tác, việc kê bàn
ghế cần bố trí phù hợp, có thể kê theo nhóm, hoặc kê bàn ghế thành dãy như truyền
thống hoặc kê theo hình chữ U phụ thuộc vào đặc điểm của từng môn học, bài học.
Giáo viên cần thực hiện nghiêm túc cách đánh giá học sinh được chuyển
trọng tâm từ đánh giá "kết thúc", đánh giá "tổng kết" sang đánh giá quá trình, đánh
giá "tiến trình"; chuyển đánh giá "bằng điểm số" sang đánh giá "bằng nhận xét".
Từ chỗ quan sát quá trình học tập của học sinh tốt, giáo viên sẽ nắm bắt được
khả năng tiếp thu bài, hiệu quả sau mỗi bài giảng của từng em. Từ đó giáo viên sẽ
có những gợi ý, tư vấn, giúp đỡ kịp thời cho mỗi học sinh. Việc tư vấn cho học sinh
về kiến thức, kỹ năng hay năng lực, phẩm chất cho học sinh giáo viên có thể gợi ý,
tư vấn, giúp đỡ tại chỗ, ngay trong quá trình học tập hoặc tư vấn, gợi ý, giúp đỡ học
sinh vào giờ ra chơi hay sau mỗi buổi học. Từ đó, chất lượng kiến thức, kỹ năng,
năng lực, phẩm chất của học sinh sẽ được nâng lên.
Quan sát tốt, tư vấn, hỗ trợ học sinh kịp thời còn giúp học sinh điều chỉnh
được hoạt động học tập hoặc hành vi đi theo hướng chuẩn, tránh lệch lạc.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chu vi hình vuông”- Toán lớp 3, trong quá trình học sinh
làm bài tập, giáo viên quan sát thấy có 1 học sinh không làm bài mà cứ nhìn vào cô
giáo thì giáo viên cần nhanh chóng tiến đến bên cạnh em học sinh đó để tìm hiểu lí
do vì sao em chưa làm bài. Sau khi học sinh nêu lên lí do: vì em không nhớ quy tắc
tính chu vi hình vuông, giáo viên sẽ giảng giải, giúp đỡ để em học sinh đó nhớ lại
công thức (muốn tính chu vi hình vuông ta lấy số đo 1 cạnh rồi
nhân với 4) và tiếp tục làm bài.

Hiệu quả của việc quan sát, tư vấn, trợ giúp học sinh kịp thời còn giúp giáo
viên sắp xếp ý để ghi nhận xét vào vở, sản phẩm học sinh một cách khoa học,
chính xác.
Như vậy việc đánh giá quá trình phát triển, đánh giá sự tiến bộ mới là đánh
giá thiết thực và hiệu quả nhất cho sự phát triển của mỗi học sinh. Để làm được
điều này đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên quan sát, theo dõi cá nhân học sinh
trong quá trình học tập để có nhận định, động viên hoặc gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối
với từng việc làm, từng nhiệm vụ của mỗi cá nhân hoặc của cả nhóm học sinh.
Đồng thời giáo viên còn quan sát từng học sinh để kịp thời đưa ra những nhận định
về một số biểu hiện của phẩm chất và năng lực của học sinh. Từ đó, động viên,
khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các tố chất riêng,
sửa chữa khuyết điểm để ngày càng tiến bộ.
4. Định hướng giáo viên dùng lời nhận xét mang tính động viên,
khích lệ. Lời nhận xét phải cụ thể, dễ hiểu.
Biện pháp này giúp nâng cao kỹ năng lựa chọn ngôn từ cho giáo viên khi
nhận xét, đánh giá học sinh và tạo ra mối quan hệ thân thiện giữa Thầy và Trò qua
những lời, những dòng nhận xét của giáo viên.
Trước hết, bản thân tôi đã tham mưu cho nhà trường tổ chức hội thảo chuyên
đề “Lời nhận xét chuẩn mực của Thầy, cô”. Qua buổi hội thảo này, cán bộ giáo


viên được nghe, được chia sẻ những lời nhận xét dành cho học sinh qua một số bài
học, một số tình huống cụ thể trong chương trình các khối lớp.
Bên cạnh đó ban giám hiệu cần kiểm tra lời nhận xét của giáo viên thông
qua dự giờ và qua vở ghi của học sinh từ đó góp ý, rút kinh nghiệm trực tiếp với
từng giáo viên.
Lưu ý: Lời nhận xét của giáo viên phải kịp thời phát hiện những cố gắng,
tiến bộ của học sinh, mang tính chất động viên, khuyến khích, thân thiện, chân
thành; Tránh sử dụng “công thức nhận xét” vì nó sẽ không bao giờ đáp ứng được
điều đó.

Cụ thể: Trong quá trình xét thường xuyên, tôi đã định hướng cho giáo viên
không nên dùng từ “cố gắng” mà thay bằng từ “ tiến bộ” để bao hàm đầy đủ sự
phát triển của các em trong các mặt học tập và các hoạt động liên quan đến
phát triển năng lực các nhân.
Ví dụ: Thay vì nhận xét em A: “Em có nhiều cố gắng hơn trước.” thì
giáo viên nên nhận xét: “ Em có nhiều tiến bộ, cần phát huy!”
Mỗi lời nhận xét phải là thông điệp của người thầy đối với học sinh và phải
đảm bảo được hai yếu tố đó là: Khẳng định trên cơ sở thực tiễn và tư vấn, động
viên các em học sinh. Mỗi lời nhận xét viết ra phải chứa đựng tình cảm của người
thầy. Tức là nếu em A làm tốt bài này, em B chưa làm đúng bài kia thì giáo viên
phải nhận xét ngay và truyền tải được thông tin nhắn nhủ ở trong đó. Ví dụ: “ Em
làm bài rất tốt, cô khen!”, “ Em tính kết quả chưa đúng, cần tính toán cẩn
thận hơn!”, ...
Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh các lớp đầu cấp vốn từ vựng còn ít
và hiểu nghĩa từ còn vụng nên nhận xét phải cụ thể, dễ hiểu để các em nhận biết
được thiếu sót của mình mà khắc phục. Tránh nhận xét chung chung. Ví dụ: “Em
viết còn sai lỗi quy trình”, “ Em viết chữ chưa đẹp”,... Nếu nhận xét như vậy sẽ
khó cho học sinh biết được cụ thể mình sai chỗ nào. Giáo viên phải nhận xét từng
lỗi một, để sửa chữa cho các em từ từ không nhất thiết lúc nào cũng phải nhận xét
bằng lời phê vào vở mà giáo viên có thể kết hợp giữa lời với việc viết mẫu. Ví dụ:
“ Em viết sai chữ d , k giáo viên không nhận xét chỉ cần viết mẫu vào vở rồi yêu
cầu học sinh viết lại các chữ đó.
Qua cách làm trên, kỹ năng dùng từ của giáo viên trong quá trình nhận xét
học sinh được nâng lên rõ rệt. Cụ thể:
Giáo viên đã biết tích hợp trong cách ghi nhận xét từ đó giúp giáo viên tiết
kiệm được thời gian, câu từ ngắn gọn hơn. Khi nhận xét vào vở học sinh giáo viên
đã tích hợp ghi nội dung tồn tại, nhược điểm của học sinh và biện pháp như: “Em
cần luyện các chữ hoa M, N”. Đối với học sinh chưa hoàn thành nhiều kiến thức
thì giáo viên đã nhận xét bằng lời kết hợp lựa chọn ghi vào vở nội dung cơ bản
nhất để giúp các em tiến bộ, bởi nếu ghi nhiều nội dung, các em rất dễ bị rối và

gặp khó khăn khi đọc lời nhận xét của giáo viên.


- Khi đưa ra nhận xét giáo viên đã nêu cụ thể ưu điểm, tồn tại và giải pháp
để giúp học sinh tiến bộ trong học tập. Lời nhận xét của giáo viên đã căn cứ vào:
+ Mục tiêu của bài học
+ Chuẩn kiến thức kỹ năng
+ Sản phẩm ( Kết quả) học sinh làm được.
Ví dụ 1: Trong giờ Tiếng Việt lớp 2 bài “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, Cô
giáo Bùi Thị Dung- GVCN lớp 2A đã có lời nhận xét dành cho 2 học sinh (2 đối
tượng học sinh) như sau:
+ Với em: Đỗ Minh Đức: “ Em đọc đúng, rõ ràng toàn bài, biết ngắt nghỉ
hợp lý. Hiểu nội dung bài đọc.”
+ Với em Trịnh Thị Loan, Giáo viên nhận xét: “ Em đã đọc to hơn.
Nhưng các từ quyển, nguệch ngoạc, em còn phát âm chưa đúng, em nghe
thầy/cô (hoặc bạn) đọc những từ ngữ này rồi em đọc lại nhé!”.
Ví dụ 2: Trong giờ học toán lớp 3B: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
(tiếp theo), cô giáo Đinh Thị Huế đã có nhận xét như sau:
+ Đối với em Lê Thị Kim Anh, cô đã nêu: “Em đã nắm chắc được dạng
toán, Cô khen em!”
+ Đố với em Phạm Thế Minh, cô nêu: “Bước giải thứ 2 em còn nhầm
lẫn với bài toán liên quan đến rút về đơn vị trước, cần đọc kĩ đề bài để làm
đúng bài tập em nhé!”.
- Giáo viên đã biết cách phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt giữa nhận xét bằng
lời và bằng chữ viết vào vở của học sinh. Việc phối hợp việc ghi nhận xét với nhận
xét bằng lời trực tiếp một cách khoa học giúp chỉnh sửa, uốn nắn kịp thời cho học
sinh trong quá trình học tập và rèn luyện. Việc luân phiên giữa hai hình thức này
vừa đảm bảo thẩm mỹ bộ vở vừa giúp giáo viên có thêm thời gian rèn kĩ năng cho
học sinh.
- Giáo viên nâng cao trách nhiệm và lương tâm nhà giáo khi tiến hành đánh

giá và nhận xét học sinh.
Tóm lại: Lời nhận xét phải xuất phát từ cái tâm của người giáo viên, phải có
quá trình theo dõi, tiếp xúc cùng học sinh. Cần nhận xét chân tình, sát sao để giúp
các em học sinh của chúng ta có niềm tin, có nhẫn nại và ý chí để luôn cố gắng tiến
bộ, hoàn thiện bản thân mỗi ngày theo khả năng của chính các em.
Một số ví dụ minh họa:


Những lời nhận xét trực tiếp hay những dòng nhận xét cụ thể, chi tiết vào vơ
học sinh giúp các em tiến bộ rất nhiều.

Những dòng nhận xét chứa đầy cảm xúc của cô giáo Đặng Thị Đạt
đối với một bài văn của học sinh lớp 4A


5. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, phát huy những ưu điểm
của mô hình dạy học VNEN
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học
nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Tổ chức thực hiện
Đối với nhà trường:
- Tổ chức hội thảo chuyên đề nâng cao chất lượng thực hiện Thông tư 22
với ba nội dung:
- Giáo viên đánh giá học sinh, học sinh đánh giá học sinh, phụ huynh đánh
giá học sinh.
- Tổ chức giới thiệu những cách làm hay, những lời nhận xét hay của giáo
viên để giáo viên toàn bậc học học tập.
- Ban giám hiệu hướng dẫn, chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra việc thực
hiện Thông tư 22 của giáo viên. Kịp thời tư vấn, hỗ trợ, giải quyết, tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc của giáo viên khi thực hiện thông tư này (đặc biệt đối với

các đồng chí giáo viên bậc THCS tham gia giảng dạy các môn đặc thù ở Tiểu
học).
Đối với tổ chuyên môn: Tổ tăng cường sinh hoạt chuyên môn bàn về biện
pháp nâng cao chất lượng đánh giá học sinh theo Thông tư 22. Trao đổi, chia sẻ,
lựa chọn, thống nhất những cách làm, lời nhận xét hay, hợp lí; cùng nhau tháo gỡ
những khó khăn gặp phải khi thực hiện Thông tư 22.
Đối với giáo viên:
- Ngay từ đầu năm học, giáo viên tiếp tục tuyên truyền tới phụ huynh học
sinh những điểm mới của Thông tư 22 so với Thông tư 30 trước đó. Từ đó thống
nhất với phụ huynh những nhiệm vụ cơ bản của học sinh ở nhà; hướng dẫn phụ
huynh cách theo dõi, quan sát, nhận xét, giúp đỡ con em mình một cách kịp thời.
Thống nhất hình thức, thời điểm trao đổi thông tin giữa phụ huynh với giáo viên
chủ nhiệm.
- Giáo viên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp thông qua dự giờ, thao
giảng, sinh hoạt chuyên đề về đánh giá học sinh tiểu học.
- Tự học hỏi để tích lũy, làm giàu thêm vốn từ ngữ cho mình.
- Tự rèn luyện để nâng cao kĩ năng quan sát, theo dõi, bao quát học sinh.
Tác dụng, hiệu quả của biện pháp:
- Đội ngũ giáo viên bậc Tiểu học và các đồng chí giáo viên bậc THCS tham
gia giảng dạy các môn đặc thù ở Tiểu học đã lựa chọn được hệ thống các phương
pháp dạy học phù hợp với từng môn học, bài học. Tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học một cách có hiệu quả. Mô hình dạy học thân thiện gần
gũi với thiên nhiên được thầy cô lựa chọn nhiều hơn, tiêu biểu là môn Tự nhiên
xã hội, Mĩ thuật, Thủ công, Đạo đức.
- Giáo viên đã rất thân thiện, gần gũi, sát thực với học sinh; nắm bắt kĩ khả
năng
nhận thức, những ưu điểm nổi bật, hạn chế cơ bản của từng học sinh nên những
nhận xét đưa ra cho từng em rất chính xác, phù hợp. Không những vậy, lời nhận
xét của giáo viên đã mang sắc thái tình cảm tạo động cơ mạnh cho học sinh hứng
thú học tập.



- Giáo viên tổ chức tốt các hoạt động, tạo cơ hội cho tất cả học sinh đều
được tự thể hiện mình, cùng trao đổi, chia sẻ, góp ý, đánh giá, nhận xét kết quả
học tập, rèn luyện của bạn, nhóm bạn.
- Nhờ đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả, học sinh biết cách tự đánh
giá mình, đánh giá bạn, nhóm bạn trong từng hoạt động. Học sinh trở nên mạnh
dạn, tự tin, cởi mở, hăng say phát biểu xây dựng bài; nhiệt tình chia sẻ cùng với
bạn và cô giáo.
- Giáo viên phát huy công tác tổ chức lớp học theo mô hình VNEN, định kì
luân phiên lớp trưởng, lớp phó, các thành viên nhóm trưởng (Chủ tịch Hội đồng
tự quản, Phó chủ tịch Hội đồng tự quản, nhóm trưởng) tạo cơ hội công bằng cho
tất cả học sinh trong lớp, giúp các em phát huy tối đa năng lực của mình; mạnh
dạn, tự tin hơn trong học tập và trong giao tiếp. Từ đó các em rất phấn khỏi, cố
gắng, thi đua cùng nhau tiến bộ.
6. Nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa giáo viên với phụ huynh học sinh
trong quá trình đánh giá, nhận xét học sinh.
Tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường, giáo viên với phụ huynh học sinh
trong quá trình giáo dục nói chung, trong việc đánh giá, nhận xét học sinh nói
riêng sẽ mang lại hiệu quả tối ưu trong quá trình giáo dục.
Việc phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh học sinh sẽ giúp giáo viên có
thêm nguồn thông tin để đánh giá, nhận xét học sinh được chính xác, công tâm
hơn.
Cách tiến hành:
- Khuyến khích giáo viên đến thăm gia đình học sinh. Đây là hình thức
giáo viên nên làm. Trong khi thăm hỏi gia đình, giáo viên chủ nhiệm có thể tìm
hiểu cụ thể hoàn cảnh sống, lao động, học tập và tu dưỡng của học sinh, hiểu
được sự giáo dục của gia đình; cùng gia đình kịp thời giải quyết những vấn đề
nảy sinh trong quá trình giáo dục.
- Tổ chức các cuộc họp toàn thể cha mẹ học sinh của lớp: Cuộc họp toàn

thể cha mẹ học sinh của lớp là biện pháp liên hệ rộng rãi nhất giữa giáo viên chủ
nhiệm với cha mẹ học sinh và được sử dụng một cách phổ biến. Đó là những
cuộc họp được tổ chức theo định kỳ, tùy theo tình hình thực tế của địa phương,
của nhà trường. Cuộc họp cha mẹ học sinh được tổ chức nhiều lần trong một năm
học;
- Sử dụng hiệu quả sổ liên lạc điện tử vnedu. Trong năm học đầu tiên ở
ngôi trường liên cấp TH và THCS Phú Sơn, bậc Tiểu học sử dụng 100% sổ liên
lạc điện tử. Sổ liên lạc giữa nhà trường và gia đình là biện pháp hữu hiệu, là
phương tiện trao đổi thông tin 2 chiều giữa gia đình và nhà trường nhanh, tiết
kiệm. Tuy nhiên giáo viên chủ nhiệm cần tích cực thông báo cho gia đình học
sinh biết kết quả hai mặt giáo dục và các mặt khác của con em qua sổ liên lạc
điện tử hàng ngày, hàng tuần hoặc khi có vấn đề đột xuất liên quan đến học sinh.
- Sử dụng điện thoại để liên hệ khi cần thiết: Trao đổi thư từ, điện thoại với
cha mẹ học sinh cũng là một hình thức phối hợp giữa gia đình và nhà trường.


Hình thức này được sử dụng để thông báo tình hình học tập, tu dưỡng đạo
đức của học sinh giữa giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh trong trường hợp
cần thiết để giáo viên và phụ huynh trao đổi trực tiếp về vấn đề nào đó mang tính
cấp bách.
- Mời cha mẹ học sinh đến trường: Đầu năm học, giáo viên có thể mời cha
mẹ
học sinh đến lớp cùng dự giờ một số tiết học để nắm bắt được việc học của con
em mình nói chung, hiểu được cách đánh giá, cách hướng dẫn học sinh học ở nhà
nói riêng. Trong một vài trường hợp đặc biệt khi học sinh mắc lỗi mà giáo viên đã
nhắn nhiều lần qua mạng vnedu nhưng vẫn tái phạm, giáo viên có thể mời cha mẹ
học sinh đến trường để cùng trao đổi, bàn bạc tìm ra biện pháp tốt nhất trong quá
trình giáo dục các em. Từ đó sẽ có được những nhận xét, đánh giá chính xác nhất
về học sinh.
Khi trò chuyện với cha mẹ học sinh, giáo viên hiểu được tính cách, hứng

thú và khuynh hướng của học sinh, đồng thời giáo viên chủ nhiệm cũng đem lại
cho gia đình những lời khuyên về mặt sư phạm trong việc tổ chức công việc ở
nhà, những hình thức và phương pháp rèn luyện đạo đức cho các em... Qua đó,
tạo ra và củng cố sự tin cậy lẫn nhau giữa hai bên. Nhờ vậy hiệu quả giáo dục học
sinh sẽ được nâng cao.
Tuy nhiên, những thông tin này phải được xử lý một cách cẩn thận và có hệ
thống cùng với các thông tin khác về học sinh trong quá trình giáo dục, tuyệt đối
không được hời hợt, chủ quan định kiến.
Những cuộc gặp gỡ với cha mẹ học sinh cho phép xây dựng mối quan hệ
giữa gia đình - nhà trường ngày một thân thiết hơn; đồng thời ngăn ngừa được
những thiếu sót trong học tập và đạo đức của học sinh. Tuy nhiên không nên lợi
dụng việc mời cha mẹ học sinh đến trường vì những mục đích riêng tư, đồng
thời phải có thái độ đúng mực trong việc tiếp xúc đó.
Nếu làm tốt công tác phối kết hợp này, mọi vấn đề đều được giải quyết
hoặc khắc phục ngay, từ đó chất lượng học tập và rèn luyện của các em sẽ đúng
hướng nhờ đó hiệu quả giáo dục sẽ được nâng lên rõ nét.
Như vậy, sự hình thành và phát triển về năng lực hay phẩm chất của học sinh
không chỉ trong quá trình học tập mà còn ở sự trải nghiệm cuộc sống trong và
ngoài nhà trường. Do đó, tôi đã định hướng cho giáo viên cần phối hợp chặt chẽ
với phụ huynh, lắng nghe và tiếp thu thông tin từ nhiều chiều để đưa ra những
nhận xét sát thực nhất. Đối với những học sinh có bố mẹ làm ăn xa, giáo viên nên
thường xuyện chủ động liên lạc bằng điện thoại hoặc mạng xã hội để thông
báo tình hình học tập của học sinh cho phụ huynh. Thường xuyên hội ý với
các giáo viên bộ môn để thống nhất lời nhận xét cho phù hợp với từng học
sinh. Rèn cho các em tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau để qua đó mình có những
lời nhận xét khách quan và xác thực nhất.
Ngoài việc thực hiện thay đổi cách đánh giá học sinh, mỗi giáo viên phải là
một tuyên truyền viên xuất sắc tuyên truyền tinh thần đổi mới của Thông tư
22/2016/BGD-ĐT đến các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng để nhân dân
trên địa bàn phường Phú Sơn thấy rõ được con đường học mà con mình đang đi

sẽ tạo ra một thế hệ tương lai - những con người mới có kiến thức, năng lực và


phẩm chất đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Để có được thế hệ con
người mới, cha mẹ học sinh phải có trách nhiệm cao hơn với con cái mình,
không đứng ngoài cuộc mà cùng tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập,
rèn luyện của con em mình. Khi tuyên truyền tốt, cộng đồng sẽ tin tưởng và ủng
hộ cách đánh giá mới này.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với bản thân, đồng nghiệp
và nhà trường:
Qua gần hai năm học nghiên cứu, chỉ đạo triển khai đánh giá
theo TT22/2016/BGD-ĐT tôi nhận thấy bản thân cũng thấu hiểu chu đáo về các
điểm mới của Thông tư 22 so với Thông tư 30. Từ đó đã đề xuất ra một số hướng
đi, việc làm cụ thể để phổ biến tới đội ngũ giáo viên trong nhà trường trong qua
trình nhận xét, đánh giá học sinh.
Bên cạnh đó, tôi nhận thấy năng lực của đội ngũ giáo viên trong việc đánh
giá học sinh theo Thông tư 22 rất tốt. Mục tiêu của Thông tư 22 /2016 được thực
hiện, hiệu quả của Thông tư 22 được khẳng định.
Học sinh được nhận xét, đánh giá sát với thực tế hơn, nhờ đó học sinh có
hứng thú hơn trong học tập vì những lời nhận xét, động viên gần gũi với các
em giúp các em nhận ra và khắc phục được những tồn tại, hạn chế trong học tập.
Việc áp dụng khen thưởng học sinh theo Thông tư 22/2016 vẫn tiếp tục kế
thừa Thông tư 30 trong các quy định về khen thưởng (khen thưởng các học sinh
tiến bộ vượt bậc về từng nội dung đánh giá). Song đã quy định rõ ràng hơn về tiêu
chí để khen thưởng học sinh hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn
luyện. Các quy định như vậy sẽ cụ thể hơn, giúp cho giáo viên và nhà trường
thuận lợi trong việc khen thưởng học sinh, đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu không
gây áp lực cho học sinh, cha mẹ học sinh và khắc phục được bệnh thành tích
trong giáo dục.
Đại đa số giáo viên đã có kỹ năng thuần thục trong quá trình đánh giá, nhận

xét, xếp loại học sinh một cách chính xác, cập nhật và thân thiện. Đáng kể nhất là
các đồng chí giáo viên bậc THCS đã kịp thời nắm bắt, làm quen và tiếp cận rất
nhanh chóng cách đánh giá, xếp loại học sinh Tiểu học theo TT22 này.
Sau đây là bảng kết quả khảo sát công tác đánh giá, nhận xét học sinh theo
thông tư 22 của đội ngũ giáo viên bậc Tiểu học nhà trường tại thời điểm giữa học
kỳ II năm học 2017-2018:
Nội dung khảo sát
Nhận xét, đánh giá
thường xuyên
Nhận xét, đánh giá
định kỳ

Rất tốt

Tốt

Đạt
yêu cầu
SL
%

Cần cố
gắng
SL
%

SL

%


SL

%

3

50,0

2

33,3

1

16,7

0

0

4

66,7

2

33,3

0


0

0

0

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


I. Kết luận:
Đến nay, học sinh không còn bỡ ngỡ khi mỗi lần giáo viên chấm vở lại
không có điểm. Cứ nhìn vào lời nhận xét, học sinh biết ngay mình cần khắc phục
ở chỗ nào. Đồng thời áp lực điểm số không còn, học sinh không cần phải thấy
tự ti vì điểm mình không cao bằng bạn mà thậm chí có hứng thú học tập hơn sau
mỗi lời động viên của giáo viên.
Phụ huynh học sinh cũng không còn thắc mắc là con mình học giỏi, khá,
trung bình hay yếu. Họ nhìn vào vở con và biết ngay cần phải rèn luyện thêm cho
con vào nội dung nào. Phụ huynh cũng không còn so sánh điểm số của con
mình với bạn để tạo áp lực cho con mà động viên con cố gắng những khuyết
điểm còn mắc phải.
Đội ngũ giáo viên nhà trường đã thực hiện có hiệu quả, chất lượng Thông
tư 22, từ đó tạo nên mối thân thiện giữa Thầy- Trò và cha mẹ học sinh. Chất
lượng học tập của học sinh nhờ đó cũng tiến bộ vượt bậc.
Như vậy, để Thông tư 22/2016/BGD-ĐT thực sự có hiệu quả mỗi một giáo
viên phải thực sự là một tuyên truyền viên năng động, nhiệt tình truyền đạt thông
tư đến học sinh, phụ huynh, thậm chí là đến cả đồng nghiệp để cùng thống nhất
các biện pháp phù hợp đánh giá học sinh một cách đúng đắn và kịp thời. Từ đó
có các hình thức giáo dục thích hợp giúp học sinh tiến bộ góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục trong nhà trường.
Tuy nhiên, việc triển khai, vận dụng Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT là cả

một quá trình dài đòi hỏi sự thay đổi có hệ thống của nền giáo dục. Trong quá
trình thay đổi đó, trách nhệm, nhiệm vụ của mỗi một giáo viên dường như cao cả
hơn mà cũng cần đầu tư thời gian hơn trước rất nhiều. Rất cần một chữ “TÂM”
thật sự đối với những người cầm phấn. Bởi đơn giản rằng, nếu như đó là vì học
sinh, vì thế hệ mầm non của đất nước thì người thầy sẵn sàng mỉm cười và chấp
nhận hi sinh một chút thời gian, một chút công sức. Thông tư 22/2016/BGD-ĐT
như một đốm lửa đã sáng hoàn thiện trong công cuộc thay đổi cách nhìn mới về
nên giáo dục nước nhà. Bản thân tôi thiết nghĩ mỗi một giáo viên cần và phải có
trách nhiệm chính trong công cuộc đổi mới đó.
II. Kiến nghị
1. Đối với Sơ giáo dục và Phòng GD&ĐT:
Tiếp tục tổ chức các buổi hội thảo để đánh giá tổng kết sau hai năm thực
hiện Thông tư 22/2016/ TT-BGDĐT để đánh giá kết quả thực hiện Thông tư 22
đồng thời giới thiệu những tấm gương giáo viên làm tốt, những việc làm cụ thể,
thiết thực hiệu quả việc đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 22 để cán bộ,
giáo viên cấp tiểu học trên toàn tỉnh được học tập.
2. Đối với Nhà trường
Cần có chế độ khen thưởng, biểu dương các thầy cô giáo có nhiều việc làm
mới, sáng tạo, hiệu quả trong công tác nhận xét, đánh giá học sinh Tiểu học theo
TT 22.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng tại trường TH&THCS Phú


Sơn trong năm học 2017-2018 nhằm nâng cao hiệu quả trong việc đánh giá, nhận
xét học sinh Tiểu học theo Thông tư 22/2016/ TT-BGDĐT. Với những kết quả
đạt được, tôi tự thấy có thể vận dụng những biện pháp này để thực hiện đối với
nhà trường trong những năm tiếp theo và có thể thực hiện được ở các trường tiểu
học khác trong thị xã, trong tỉnh. Tuy nhiên, tôi nhận thấy phần trình bày trên còn
có những hạn chế nhất định. Vì vậy, về bản thân mình tôi sẽ cố gắng học hỏi thêm
kinh nghiệm từ các đồng nghiệp ở các trường bạn và tôi cũng rất mong sự góp ý

lãnh đạo cấp trên để cho đề tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG NHÀ TRƯỜNG

Bỉm Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Phạm Thị Hường


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHAO
TT

TÊN TÀI LIỆU

GHI CHÚ

1

Thông tư 22/TT-BGD&ĐT ngày 22 tháng 9
năm 2016 của Bộ GD&ĐT V/v sửa đổi, bổ sung
một số điều của quy định đánh giá học sinh Tiểu
học theo thông tư số 30/2014/TT-BGD-ĐT ngày
28/8/2014 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.

Ngày có hiệu lực:
06/11/2016


2

Văn bản hợp nhất số 03 VBHN-BGDĐT
ngày 28 tháng 9 năm 2016, của Bộ GD&ĐT V/v
Thông tư ban hành quy định đánh giá học sinh
tiểu học.

3

Tài liệu Bồi dưỡng Thường xuyên Modun
TH15: Một số phương pháp dạy học tích cực ở
tiểu học.

4

Giáo trình tâm lí học tiểu học của GS-TS Bùi
Văn Huệ

5

Tác phẩm Tình thầy trò (nguyên tác For the
love of teacher, công ty sách Văn Lang, 2014)

6

Từ điển Tiếng Việt còn được gọi là Từ điển
Hoàng Phê


DANH MỤC

CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Hường
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường TH&THCS Phú Sơn

TT

1

2
3
4

5

6

7
8
9
10

Kết quả
Cấp đánh
đánh
giá xếp loại giá xếp
Tên đề tài SKKN
(Phòng, Sở, loại (A,
Tỉnh...)

B, hoặc
C)
Một số biện pháp giúp học sinh Sở GD&ĐT
lớp 1 khắc phục khó khăn khi Thanh Hóa
C
thực hiện giải bài toán có lời
văn
Một số biện pháp rèn chữ viết Sở GD&ĐT
A
Thanh
Hóa
cho học sinh lớp 1
Đổi mới phương pháp dạy học Phòng
B
GD&ĐT
môn Toán lớp 4
Bỉm Sơn
Bồi dưỡng Tiếng Việt cho học Sở GD&ĐT
A
Thanh
Hóa
sinh thông qua Hoạt động ngoại
khóa
Phương pháp dạy dạng Toán Sở GD&ĐT
C
Thanh
Hóa
tìm thành phần chưa biết trong
phép tính
Phát triển khả năng giao tiếp Sở GD&ĐT

C
Thanh
Hóa
cho Học sinh lớp 1 qua môn
Tiếng Việt
Phòng
Giúp Học sinh lớp 1 làm giàu
B
GD&ĐT
vốn từ qua môn Tiếng Việt
Bỉm Sơn
Sở GD&ĐT
Kinh nghiệm dạy giải toán có
B
Thanh
Hóa
lời văn cho học sinh lớp 1.
Chỉ đạo Khối 2-3 thực hiện tốt Sở GD&ĐT
B
Thanh
Hóa
dạy học theo mô hình VNEN.
Tổ chức trò chơi dân gian cho Phòng
C
GD&ĐT
học sinh trường Tiểu học Ngọc
Bỉm Sơn
Trạo, TX Bỉm Sơn

Năm học

đánh giá xếp
loại
2002-2003

2003-2004
2004-2005
2005-2006

2006-2007

2007-2008

2009-2010
2010-2011
2012-2013
2013-2014


11

12

13

Chỉ đạo nâng cao chất lượng Phòng
HĐGDNGLL ở trường Tiểu GD&ĐT
Bỉm Sơn
học Ngọc Trạo, TX Bỉm Sơn
Trao đổi về biện pháp giáo dục
Phòng

kỹ năng sống cho học sinh tiểu
học thông qua các hoạt động GD&ĐT
Bỉm
ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu
học Ngọc Trạo, TX Bỉm Sơn.
“Một số biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác đánh giá
Phòng
học sinh tiểu học theo Thông tư
22/2016/BGD&ĐT của bậc GD&ĐT
Bỉm
Tiểu học trường Tiểu học và
Trung học cơ sở (TH&THCS)
Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn”

B

2014-2015

B

2016-2017

A

2017-2018




×