Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG THIÊN AN

TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG THIÊN AN

TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG



HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN ............... 5
1.1 Những vấn đề lý luận về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ..................5
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ..........14
1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự một số nước trên Thế giới về tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ...........................................................................32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI HỦY
HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH ĐỒNG NAI ........................................................................................... 39
2.1 Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản......................................................................................................................... 39
2.2.Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản tại tỉnh Đồng Nai ............................................................................. 41
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ
HỎNG TÀI SẢN TRONG XÉT XỬ ..................................................................... 63
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản ...................................................................................................63
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
trong xét xử ...............................................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TP.HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Hình sự sơ thẩm (Thuộc thẩm quyền cấp tỉnh)
Bảng 2.2. Hình sự phúc thẩm
Bảng 2.3. Hình sự sơ thẩm (Thuộc thẩm quyền cấp huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách pháp luật phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhằm cụ thể hóa
và tổ chức thực hiện tốt chủ trương trên, trong thời gian ngắn, Bộ Chính trị đã ban
hành hai Nghị quyết 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam định hướng đến 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược
cải cách tư pháp, mục tiêu chung là nhằm hướng đến việc củng cố và hoàn thiện hệ
thống pháp luật tiến tới xây dựng thành công mô hình nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Thực tế chúng ta đã và đang triển khai nhiều biện pháp cấp bách, tích cực
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nằm trong nhóm các tội xâm
phạm quyền sở hữu, là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này không chỉ
phương hại trực tiếp đến tài sản của cá nhân, tổ chức mà còn trực tiếp xâm phạm
đến trật tự an toàn xã hội. Hậu quả của các hành vi xâm phạm sở hữu này gây ra vô
cùng to lớn, gây bức xúc trong nhân dân. Trong khi công tác xây dựng pháp luật
hình sự, đấu tranh phòng, chống tội phạm có nhiều chuyển biến tích cực, thì tình
hình tội phạm đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ở nước ta hiện nay
vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, đa dạng, thậm chí xác định xử lý
khó khăn.Vì thế chúng ta cần phải nghiên cứu những vấn đề liên quan đến loại tội
phạm này diễn biến trên thực tế, từ đó xây dựng được chính sách hình sự phù hợp,
hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về cơ bản và lâu
dài. Đó là công cụ sắc bén của Nhà nước để bảo vệ an ninh trật tự xã hội, các quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân, chống các hành vi xâm phạm quyền sở hữu, giáo
dục mọi người ý thức tôn trọng và tuân theo pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa.
1


Do đó, việc nghiên cứu loại tội phạm này là điều cần thiết và hết sức cấp
bách hiện nay và đó là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứu về “ Tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”
làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản - tội phạm nằm trong
nhóm các tội xâm phạm sở hữu, là nghiên cứu về những hành vi có tính nguy hiểm
cho xã hội và diễn biến phức tạp. Nội dung này đã được một số nhà nghiên cứu luật
học đề cập trong các sách chuyên khảo, luận văn và khóa luận tốt nghiệp.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu
liên quan đến đề tài luận văn, đó là:
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam , Đại học luật Hà Nội (2011), Nhà xuất
bản Công an nhân dân; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm xâm
phạm sở hữu) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội (2002), Giáo trình sau đại học về luật hình sự Việt Nam phần các tội
phạm của GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (2014), Nhà xuất bản khoa học xã hội,
Hà nội…
Tuy nhiên, hiện nay công trình nghiên cứu chuyên sâu đầy đủ riêng đối với
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản vẫn chưa nhiều. Nhất là vẫn chưa có
công trình nghiên cứu về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản từ thực tiễn
khoanh vùng một địa phương cụ thể. Do đó luận văn này sẽ đóng góp phần nào về
việc nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn đối với các hành vi cụ thể quy định
trong Bộ luật hình sự đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên thực
tiễn địa bàn tỉnh Đồng Nai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trong
xét xử.
2


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là :
- Nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam, cụ thể là làm rõ về khái niệm,
dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản;
- Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản và nghiên cứu thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ở hai cấp
xét xử (Tòa án nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Nai);
- Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trong xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trên cơ sở Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ
sung ngày 19/6/2009, Bộ luật hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật có liên
quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu khái niệm, dấu hiệu pháp lý và hình phạt
đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật
hình sự năm 1999 và tại Điều 178 Bộ luật hình sự 2015 từ thực tiễn xét xử của tỉnh
Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một số phương pháp cụ thể như:
Phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết
định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cấp Tòa án. Phương pháp so sánh
pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm tìm ra những
3



điểm mới trong quá trình nghiên cứu. Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng
về chính sách hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu theo
pháp luật hình sự Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối
với việc nâng cao hiệu quả khi áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện
hành xử lý đối với các hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Đồng thời qua đó tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp
luật đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng, hoàn thiện quy
định của pháp luật hình sự nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo cho cán bộ làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học luật hình sự, cho các cán bộ thực tiễn đang
công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án và các sinh viên chuyên ngành luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lập pháp hình sự Việt Nam về tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn thi hành tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong xét xử

4



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI
HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
1.1 Những vấn đề lý luận về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1.1.1 Khái niệm
Tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản là một trong các tội xâm phạm sở
hữu, vì vậy khái niệm tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản phải thỏa mãn khái
niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các các dấu hiệu
đặc thù nói riêng.
Khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ
quan, tổ chức và của công dân.
Như vậy khái niệm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi có
lỗi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự thiệt hại này phải phản ánh đầy đủ nhất
bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và cụ thể hành vi này là hành
vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.
Hành vi hủy hoại tài sản là hành vi làm mất hoàn toàn giá trị sử dụng của tài
sản không thể khôi phục lại được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn. Hành
vi làm hư hỏng tài sản là hành vi làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản và giá
trị sử dụng bị giảm đó có thể khôi phục được (có thể khôi phục lại như cũ, nhưng có
thể chỉ khôi phục lại được một phần).
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xâm hại quan hệ sở hữu và sự
thiệt hại này phải phản ánh được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt
hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ trong các tội xâm phạm sở hữu chủ yếu là quan hệ tài sản, ngoài
ra còn có các quan hệ khác như trật tự an ninh, an toàn xã hội, tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm hoặc những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ

5


nghĩa, nhưng quan hệ về tài sản là quan hệ chủ yếu và là đặc trưng của các tội xâm
phạm sở hữu nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng.
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất
chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này được coi là dấu hiệu nội dung quyết
định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật
hình sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì nó có tính nguy hiểm cho xã
hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại
không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là
nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay
không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại,
được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội
càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại
là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được
biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để
đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó
phản ánh một hành vi là nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo
cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Bộ luật hình sự qui định
Tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản do nó đã xâm hại đến sở hữu của nhà nước,
tập thể, cá nhân là quan hệ xã hội được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Khi thực
hiện hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của người khác, không những tội
phạm xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự phát triển của các hoạt động sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm hại đến trật tự an toàn xã hội.
Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá
trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Đây là tội phạm gồm

hai hành vi độc lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà làm luật quy định chung trong
cùng một điều luật. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội
6


hủy hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư hỏng tài sản. Nếu người phạm tội có cả hai
hành vi hủy hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản thì phải định tội là hủy hoại và tội cố ý
làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Tóm lại, từ phân tích căn cứ tội phạm ta có thể đưa ra khái niệm “ tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có
năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm đến
tài sản của người khác (bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng) có giá trị do Bộ luật hình sự
quy định”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xâm hại quan hệ sở hữu. Đối
tượng của tội phạm này là tài sản.
Tài sản theo quy định của pháp luật dân sự bao gồm: vật có thực, tiền, giấy
tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản.
Tuy nhiên khi xác định tài sản là đối tượng tác động của tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản cần lưu ý:
- Một số loại tài sản là các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh
quốc gia lại không phải là đối tượng tác động của tội này;
- Vật khi không còn là tài sản vì đã bị chủ tài sản hủy bỏ cũng sẽ không còn
là đối tượng tác động của tội phạm này;
- Tiền luôn có thể là đối tượng tác động của tội phạm này;
- Giấy tờ trị giá được bằng tiền có thể là phương tiện phạm tội giúp người
phạm tội có thể xâm phạm sở hữu. Trong một số trường hợp giấy tờ này có thể là
đối tượng tác động của tội phạm này;
- Quyền về tài sản không thể là đối tượng của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư

hỏng tài sản. Nhưng những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản như hóa đơn lãnh hàng
v.v.. có thể là đối tượng tác động của tội phạm này trong một số trường hợp nhất
định.

7


Tài sản được pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng bảo vệ, về
nguyên tắc phải là tài sản hợp pháp. Tuy nhiên những hành vi xâm phạm tài sản
khác, dù tài sản đó là bất hợp pháp, vẫn bị coi là trái pháp luật có thể cấu thành tội
phạm và xử lý về mặt hình sự. Điều này hoàn toàn cần thiết nhằm đảm bảo trật tự
chung của xã hội.
Như vậy, khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng
tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến
quan hệ sở hữu, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là
tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
mà gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nếu hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản nhằm mục đích xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con
người thì hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trở thành thủ đoạn của
hành vi giết người hoặc cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là tội có cấu thành tội phạm vật
chất. Về mặt khách quan, cấu thành tội phạm tội này có ba dấu hiệu:
- Hành vi khách quan của tội này là hành vi hủy hoại tài sản hoặc hành vi
làm hư hỏng tài sản.

Hủy hoại tài sản là hành vi làm mất hoàn toàn giá trị sử dụng của tài sản
không thể khôi phục lại được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn.
Hành vi làm hư hỏng tài sản là hành vi làm giảm giá trị sử dụng của tài sản
và giá trị ban đầu của tài sản có thể khôi phục lại được (có thể khôi phục lại như cũ,
nhưng có thể chỉ khôi phục lại được một phần).
8


Hành vi hủy hoại hoặc hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác có
thể được thực hiện bằng bất kỳ phương pháp nào, có thể là hành động như đập phá,
đốt v.v. hoặc không hành động. Hành vi hủy hoại có thể được thực hiện bằng
phương pháp và với phương tiện hoặc công cụ phạm tội khác nhau. Người phạm tội
có thể đập phá tài sản bằng tay không hoặc có công cụ phạm tội. Họ có thể hủy hoại
tài sản bằng thuốc nổ hoặc thuốc độc, bằng hóa chất hoặc bằng cách đốt cháy. Hình
thức hành vi phạm tội (hành động hay không hành động) cũng như phương pháp,
phương tiện hay công cụ phạm tội không có ý nghĩa về mặt định tội mà chỉ có thể
có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt. Cụ thể, một số phương pháp hay
phương tiện phạm tội được quy định là tình tiết định khung tăng nặng của tội này.
Như vậy, hai hành vi nói trên được thực hiện dưới dạnh hành động hoặc
không hành động với lỗi cố ý.
Khi xác định hành vi khách quan của tội phạm này cần chú ý: do tính chất
đặc biệt nên một số loại tài sản (công trình quan trọng về an ninh quốc gia, tài
nguyên rừng v.v.) không được coi là đối tượng của hành vi hủy hoại hoặc làm hư
hỏng trong nhóm tội xâm phạm sở hữu. Hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng các loại
tài sản này cấu thành tội tương ứng trong các chương khác của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định thì sự phân biệt rạch ròi hành vi
hủy hoại với hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản không phải trong trường hợp nào
cũng được xác định khác nhau hoàn toàn. Sự khác biệt giữa hủy hoại và cố ý làm hư
hỏng tài sản chủ yếu căn cứ vào hậu quả của hành vi gây ra đối với tài sản, nếu tài
sản bị hư hỏng hoàn toàn không có khả năng khôi phục thì coi là hủy hoại, nếu tài

sản không bị mất hẳn giá trị sử dụng và có khả năng khôi phục lại toàn bộ hoặc một
phần giá trị sử dụng thì coi là cố ý làm hư hỏng tài sản.
Đây là tội phạm gồm hai hành vi độc lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà
làm luật quy định chung trong cùng một điều luật. Do đó, tùy từng trường hợp cụ
thể mà xác định người phạm tội hủy hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư hỏng tài sản.
Nếu người phạm tội có cả hai hành vi hủy hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản thì phải

9


định tội là hủy hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
- Hậu quả của tội phạm:
Cấu thành tội phạm tội này đòi hỏi có hậu quả là tài sản bị hủy hoại hoặc bị
làm hư hỏng. Tội phạm được coi là hoàn thành khi hậu quả này đã xảy ra. Khác với
tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, dấu hiệu hậu quả ở tội này không đòi hỏi
phải là thiệt hại nghiêm trọng. Điều luật đòi hỏi mức độ thiệt hại của hậu quả của tội
phạm trong trường hợp bình thường phải từ 2.000.000 đồng trở lên. Trong các
trường hợp khác, hậu quả của tội phạm không đòi hỏi phải ở mức độ như vậy. Đó là
các trường hợp:
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản của người khác mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội này và chưa được xóa án tích.
Trong những trường hợp này thì hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản có giá trị lớn hay nhỏ đều có thể thỏa mãn dấu hiệu hậu quả của tội phạm này.
Tuy nhiên, nếu giá trị tài sản bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng quá nhỏ và do vậy dẫn
đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể thì hành vi hủy hoại hoặc
làm hư hỏng tài sản không bị coi là tội phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ Luật hình sự năm

1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009). Chúng ta cần phải phân biệt trường hợp này với
trường hợp phạm tội chưa đạt là trường hợp vì nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội nên hành vi chưa gây ra thiệt hại hoặc mới chỉ gây ra thiệt hại
không đáng kể.
Hậu quả của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là giá trị hoặc
giá trị sử dụng của tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng. Giá trị hoặc giá trị sử dụng của
tài sản là thiệt hại do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng gây ra chứ không phải
giá trị hoặc giá trị sử dụng ban đầu của tài sản khi chưa bị hủy hoại hoại hoặc làm
hư hỏng.
10


Hậu quả nghiêm trọng do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
gây ra là những thiệt hại về thể chất, tinh thần, nếu là thiệt hại về vật chất thì những
thiệt hại này không phải là thiệt hại về tài sản do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng trực tiếp gây ra. Như vậy, đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nếu chưa có hậu quả xảy ra thì chưa cấu thành tội
phạm và tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm
tội. Theo quy định tại khoản 1 điều 143 BLHS 1999 thì thiệt hại phải có trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mới bị xem là cấu thành tội
phạm này.
Như vậy, hậu quả của tội phạm này gây ra chủ yếu là thiệt hại về tài sản,
thiệt hại về tài sản là thước đo để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội.
- Quan hệ nhân quả:
Quan hệ nhân quả là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản. Người có hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt
hại tài sản bị hụy hoại hoặc bị hư hỏng nếu giữa thiệt hại này và hành vi của họ có

quan hệ nhân quả với nhau, nghĩa là thiệt hại đó do chính hành vi của họ gây ra.
Việc xác định quan hệ nhân quả là cần thiết nhằm tránh trường hợp sai lầm khi buộc
người không gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hậu quả là dấu
hiệu bắt buộc nếu chưa có hậu quả xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm
này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội.
1.1.2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể thường, là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật hình sự quy định.
Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chủ thể của tội phạm
cũng tương tự như đối với các tội xâm phạm sở hữu, đó là: những người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu
11


trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 143 BLHS năm
1999 với khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (khoản 1 Điều 143) và từ 02
năm đến 07 năm (khoản 2 Điều 143) thì độ tuổi người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này vì hai khoản này
chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, nhưng phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 3, và khoản 4 của điều luật vì hai
khoản này là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999) nhằm đảm bảo tính minh bạch, nhân đạo trong
xử lý đối với đối tượng này theo tinh thần của Hiếp pháp năm 2013 và Công ước
của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em.
Người phạm tội từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm này theo quy định tại khoản 1 Điều 12 BLHS năm 1999.
Theo quy định của Bộ luật hình sự, thì chủ thể của tội phạm này là những
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có năng lực trách nhiệm hình sự.
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tiêu chuẩn ( dấu hiệu)
để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh (tiêu
chuẩn y học) và tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). Cả hai
dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và
ngược lại. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có
năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: bệnh tâm thần
kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời.
Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải
được Hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).
người phạm tội biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có khả năng gây ra
hậu quả là hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản nhưng vẫn thực hiện vì mong muốn
12


tài sản bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng hoặc vì đã có ý thức chấp nhận thiệt hại đó
xảy ra để đạt được mục đích khác của mình.
Đối với tội phạm này, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là
người có lỗi cố ý. Lỗi ở đây là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý. Tính có lỗi là thuộc
tính cơ bản của tội phạm này, là cơ sở để buộc một người phải chịu trách nhiệm
hình sự về hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của mình và hậu quả của hành
vi đó gây ra.
Cố ý phạm tội là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; hoặc
người phạm tội nhận thức rõ hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Bộ luật hình sự quy

định rõ hai hình thức lỗi cố ý phạm tội, tuy không nói rõ đó là lỗi cố ý trực tiếp và
cố ý gián tiếp, nhưng với nội dung quy định như trên chúng ta cũng hiểu được đó là
hai hình thức lỗi : cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài
sản của người khác. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào
khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người
phạm tội có mục đích khác, còn việc hủy hoại tài sản hoặc làm hư hỏng tài sản chỉ
là phương pháp để đạt được mục đích khác thì không phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về các tội tương ứng.
Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Người phạm tội có thể
có động cơ khác nhau như thù tức, bất mãn, để che giấu tội phạm v.v.. Việc định tội
không đòi hỏi phải xác định động cơ cụ thể. Hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng dù
do động cơ nào thúc đẩy cũng đều cấu thành tội phạm. Việc xác định động cơ nhất
định có ý nghĩa trong việc xác định khung hình phạt.

13


1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 2015
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985
- Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân non
trẻ mới được thành lập phải đối mặt với nhiều khó khăn, để kịp thời điều chỉnh các
quan hệ xã hội, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó có
những văn bản pháp luật hình sự quy định về các tội xâm phạm sở hữu công cộng
và tội xâm phạm sở hữu công dân. Bên cạnh những văn bản này, một số văn bản
pháp luật của chế độ cũ cũng tạm thời được áp dụng. Tuy nhiên, do yêu cầu tình
hình thực tiễn nên việc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm tuy được Nhà

nước quan tâm trong giai đoạn này song các chính sách hình sự của Nhà nước chủ
yếu tập trung đối với các loại tội phạm xâm hại về an ninh chính trị và các loại tội
đặc biệt nghiêm trọng khác như: giết người, cướp của, hiếp dâm…, đề cao vai trò
của chế độ sở hữu tài sản trong đó đặc biệt coi trọng đến sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Một số văn bản pháp luật hình sự quy định đối với hành vi hủy hoại tài sản
như:
- Sắc lệnh số 06-SL (15/1/1946) quy định các hành vi trộm cắp, phá hủy, dây
điện thoại, điện tín;
- Sắc lệnh số 26-SL (25/2/1946) quy định những hành vi phá hủy một phần
hay toàn thể các cầu cống, kênh hay sông đào, vận hà, nông giang thuộc công ích,
đường xe lửa và các kiến trúc thuộc về xe lửa, cùng các đường giao thông công hay
tư, đường bộ hay đường thủy, đê đập, các công sở hay kho tàng hoặc các nhà máy
điện, máy nước, trộm cắp các dây thép, cột điện, đặt ở những nơi nói trên những cơ
giới, khí cụ có thể dùng để giết người, đốt phá hay tác liệt;
- Sắc lệnh số 68-SL (18/6/1949) quy định những hành vi đào đất, trồng cây,
cắm cọc, làm nhà, cho súc vật dẫm phá gần đê, đập, kênh và cầu cống phụ thuộc,
trong một địa phận bảo vệ, do Bộ Giao thông công chính ấn định; hoặc làm hư
hỏng, bằng một cách nào khác, các công trình thủy nông mà gây thiệt hại cho nhân
dân nhiều tỉnh..v.v. Pháp luật giai đoạn này phần lớn quy định đối với các hành vi
14


xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, chủ yếu quy định về các tội phá hủy công sản
nhằm trừng trị những hành vi phá hoại tài sản công cộng;
- Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá hoại
tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc thực hiện
chính sách, kế hoạch nhà nước.v.v.
Trong giai đoạn này, không có văn bản nào quy định riêng về tội hủy hoại
hoặc làm hư hỏng tài sản mà chỉ được đề cập trong các văn bản quy định về một
nhóm tội cần tập trung trấn áp để bảo vệ chính quyền, công sản và một số đối tượng

đặc biệt nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Tuy nhiên, trong tình hình
cấp bách, các văn bản pháp luật nói chung cũng như văn bản pháp luật hình sự nói
riêng mới ban hành không thể đủ điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng. Vì thế,
ngày 10/10/1945, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL tạm thời giữ lại các luật
lệ cũ không mâu thuẫn với chế độ mới, không trái với nguyên tắc độc lập của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự
của Nhà nước ta trong thời gian này đã đáp ứng được yêu cầu giữ vững chính quyền
nhân dân, chuẩn bị cho cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân ta sau này. Tuy
nhiên, việc quy định tội phạm và hình phạt trong nhiều văn bản pháp luật hình sự đã
dẫn đến việc khó khăn trong áp dụng thống nhất pháp luật.
- Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước (1954 -1975): sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp
định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm
thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Tình hình đó đã hình thành ở nước ta
hai miền Nam – Bắc bị chia cắt có chế độ chính trị và xã hội khác nhau. Ở miền Bắc
lúc này đang tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo thành hậu phương
vững mạnh cho miền Nam tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ
nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Pháp luật hình sự giai
đoạn này thực hiện nhiệm vụ lịch sử được đặt ra cho cả hai miền Bắc Nam. Nhà
nước đã tiếp tục ban hành một số văn bản pháp luật hình sự, một mặt chấm dứt áp
dụng luật lệ của chế độ cũ, mặt khác hoàn thiện các quy định về tội phạm và hình
15


phạt để có cơ sở xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu của Nhà ước và sở
hữu của công dân. Chưa có văn bản pháp luật hình sự nào ghi nhận khái niệm tội
phạm và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong thời kỳ này. Pháp luật
hình sự thời kỳ này chủ yếu theo sát tình hình thực tế để phục vụ kịp thời các yêu
cầu về chính trị. Ngày 30/6/1955, Thông tư số 19-VHH của Bộ Tư pháp đã khẳng
định việc hoàn toàn xóa bỏ mọi luật lệ của chế độ cũ. Ngày 15/6/1956, Sắc lệnh số

267-SL ban hành đã quy định hàng loạt hành vi phạm tội bị trừng trị để bảo vệ sự
nghiệp xây dựng kinh tế và văn hoá, chống lại những âm mưu, hành động phá hoại,
làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước, tập thể và công dân. Các Pháp lệnh ban hành
vào năm 1967 và 1970 quy định một hệ thống các tội phạm với đầy đủ tên gọi và
các dấu hiệu cấu thành tội phạm, trong đó có quy định về hành vi hủy hoại hoặc làm
hư hỏng tài sản. Điều này trước tiên thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp hình
sự của nước ta. Mặt khác, nó thể hiện sự quyết tâm của Nhà nước ta trong việc trấn
áp kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo vệ cơ sở vật chất và kỹ thuật, bảo vệ
nền kinh tế kế hoạch hoá, chống mọi âm mưu và hành động phạm tội.
- Pháp lệnh số 149-LCT do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày
21/10/1970 về việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa đã quy định
về tội phạm xâm phạm sở hữu, trong đó ghi nhận Tội cố ý huỷ hoại hoặc làm hư
hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 6).
Điều 6. Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Kẻ nào cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị
phạt tù từ 2 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Đốt cháy hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá
trị đặc biệt;
c) Gây thiệt hại cho an ninh hay là quốc phòng;
d) Gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của nhân dân hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng khác.
16


đ) Để che giấu tội phạm khác;
Thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.[34,tr.1]

- Pháp lệnh số 150-LCT do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày
21/10/1970 về việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân cũng quy định
nhiều hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu công dân, trong đó có Điều 5 quy định về
Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân. Theo đó quy định
về tội danh hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của công dân tương đối cụ thể và
chặt chẽ.
Điều 5. Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân.
1. Kẻ nào cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân thì bị
phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Đốt cháy hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Có lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng khác;
d) Để che giấu tội phạm khác;
Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm
đến 20 năm.[35,tr.1]
Như vậy, về cơ bản hai tội trên đều có hành vi phạm tội giống nhau đó là
hành vi cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản. Với hành vi có cùng tính chất
nhưng lại tác động lên đối tượng là hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản xã hội
chủ nghĩa và tài sản của công dân nên được quy định thành hai tội phạm khác nhau
trong hai pháp lệnh.
Mặt khác, do tính chất nền kinh tế lúc này là tập trung, bao cấp đối với toàn
xã hội, tài sản của Nhà nước được bảo vệ đặc biệt nên chính sách xử lý đối với tội
17


cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa nghiêm khắc hơn ở tội cố
ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của công dân, ở tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư

hỏng tài sản của công dân có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù trong khi ở tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa có mức hình phạt cao nhất
và nghiêm khắc nhất là tử hình.
Nhìn chung, pháp luật hình sự của nước ta trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc đã có những bước tiến rất rõ nét xét về kỹ thuật lập pháp. Chúng
ta có thể thấy, hàng loạt các khái niệm như lỗi, các giai đoạn thực hiện tội phạm,
đồng phạm...được quy định, các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, xâm
phạm tài sản công dân cũng được quy định cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ.
Pháp luật hình sự ở miền Nam: dù chiến tranh diễn ra ác liệt, Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam cũng đã ban hành một số văn bản quy
phạm pháp luật hình sự tuy nhiên do chiến tranh khốc liệt nên hoạt động xây dựng
pháp luật hình sự rất hạn chế.
- Giai đoạn từ sau khi thống nhất đất nước đến trước khi ban hành bộ luật
hình sự 1985 : đặc điểm của pháp luật hình sự trong thời kỳ này có đặc thù riêng do
nước ta về mặt Nhà nước thì vẫn chưa thống nhất, tạm thời tồn tại hai Nhà nước ở
hai miền Bắc, Nam, mỗi Nhà nước có pháp luật riêng. Ở miền Bắc, các văn bản
pháp luật hình sự đã ban hành trước đó vẫn tiếp tục được áp dụng. Ở miền Nam,
Nhà nước đã kịp thời ban hành một số văn bản pháp luật hình sự phục vụ việc thực
hiện nhiệm vụ cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và các tội phạm khác, bảo vệ
vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngày 15/3/1976, Nhà nước
Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự, trong
đó có ban hành Sắc luật số 03/SL-76, quy định về các tội xâm phạm sở hữu nói
chung và tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản nói riêng.
Điều 4: Sắc luật số 03-SL/76, quy định "Tội xâm phạm đến tài sản công
cộng" trong đó có quy định "Tài sản công cộng bao gồm tài sản của Nhà nước và
của Hợp tác xã, của các tổ chức xã hội và của tập thể nhân dân. Tài sản công cộng
là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm”.[10,Tr.1]
18



Tuy nhiên, so với các Pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật vì muốn bảo
đảm yêu cầu ngắn gọn cho nên chỉ nêu tội danh không miêu tả dấu hiệu của tội
phạm. Về cơ bản nội dung của nó thống nhất với hai Pháp lệnh trừng trị đối với các
tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân ban hành năm
1970. Ngày 2/7/1976, Quốc hội chính thức đổi tên nước ta thành nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật được áp dụng chung cho cả nước. Nhà nước mới
tiếp tục ban hành một số văn bản nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật hình sự của
nước ta.
Nhìn chung, pháp luật hình sự của nước ta trong các giai đoạn này luôn bám
sát, phục vụ kịp thời các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. Sự ra đời của những văn bản
pháp luật hình sự là bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta, là tiền đề
cho việc pháp điển hoá pháp luật hình sự chuẩn bị cho sự cho sự ra đời Bộ luật hình
sự 1985.
1.2.2. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VII đã thông qua toàn văn
Bộ luật hình sự, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1986 (gọi là Bộ luật hình sự năm 1985).
Bộ luật hình sự 1985 ra đời dựa trên sự kế thừa và phát triển những thành tựu của
pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám. Đây là
bước ngoặt rất quan trọng trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta. Đây là BLHS
Việt Nam đầu tiên và cũng là Bộ luật đầu tiên của chúng ta được ban hành. Khi
BLHS này có hiệu lực thi hành thì cũng là lúc sự nghiệp đổi mới bắt đầu. Sự thay
đổi các mặt của đời sống xã hội, trong đó đổi mới về kinh tế giữ vai trò quan trọng
không chỉ là cơ sở mà còn là đòi hỏi cấp bách đối với sự thay đổi của pháp luật nói
chung cũng như của luật hình sự nói riêng. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là nguồn
duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt được xây dựng trên cơ sở kinh tế
xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn của tình hình tội phạm của
thời kì đó. BLHS năm 1985 gồm có hai phần: “phần chung” và “phần các tội
phạm”. Trong phần chung của Bộ luật hình sự lần đầu tiên khái niệm tội phạm và

19



phân loại tội phạm được ghi nhận với hai loại tội phạm là ít nghiêm trọng và
nghiêm trọng.
Hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản được ghi nhận trong Chương XII
về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa tại Điều 138 (Tội hủy hoại tài sản xã
hội chủ nghĩa) và Chương XIV về các tội xâm phạm sở hữu của công dân tại Điều
160 (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân).
Về cơ bản hai tội "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa"
và tội "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng của công dân" vẫn tiếp tục được quy định
với nội dung như hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và được thay đổi phù hợp với tình
hình diễn biến mới của tội phạm.[17]
Tội cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa có tính chất gần giống như tội
hủy hoại tài sản xã hội chủ nghĩa, khác nhau ở mức độ làm mất giá trị sử dụng của
tài sản. Ở tội hủy hoại hành vi khách quan là hành vi hủy hoại, hành vi này làm giá
trị sử dụng của tài sản bị mất ở mức độ không có hoặc khó có điều kiện khôi phục
lại được, hậu quả là thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa bị hủy hoại; còn ở tội cố ý làm
hư hỏng thì hành vi khách quan là hành vi làm hư hỏng, hành vi này làm giá trị sử
dụng của tài sản bị mất ở mức độ còn điều kiện khôi phục lại được, hậu quả là thiệt
hại tài sản xã hội chủ nghĩa bị hư hỏng. Do đó, hai tội này được quy định cùng
trong một điều luật (Điều 138 BLHS năm 1985) và có cùng những khung hình phạt
giống nhau. Tương tự tội cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân và tội hủy hoại tài
sản của công dân cũng được quy định trong cùng một điều luật với những khung
hình phạt giống nhau (Điều 160 BLHS năm 1985).
Cả hai tội quy định tại Điều 138 và Điều 160 BLHS năm 1985 đều là tội có
cấu thành vật chất, là những hành vi cố ý làm mất giá trị sử dụng của tài sản. Sự
khác nhau của hai điều luật này đó là đối tượng tác động của hành vi phạm tội là hai
loại tài sản khác nhau, đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân.
Qua quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự 1985 cùng với sự
thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ kinh tế

quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên về cơ chế quản lý cũng như việc
20


×