Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn quận gò vấp, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHẮC LAN CHI

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHẮC LAN CHI

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Khắc Lan Chi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO..................................................................... 6
1.1. Khái niệm và các đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do ....... 6
1.2. Nội dung thi hành các hình phạt không tước tự do .................................. 12
1.3 Các nguyên tắc thi hành các hình phạt không tước tự do ......................... 26
Chương 2:THỰC TRẠNG THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG
TƯỚC TỰ DOTRÊN ĐỊA BÀN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH. .................................................................................................... 36
2.1 Khái quát thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn
quận Gò Vấp.................................................................................................... 36
2.2 Một số hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng các hình phạt không tước
tự do ................................................................................................................. 47

2.3 Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập................................................. 56
Chương 3:GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, TĂNG CƯỜNG
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG
TƯỚCTỰ DO ................................................................................................ 64
3.1 Định hướng, quan điểm về tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động thi
hành các hình phạt không tước tự do .............................................................. 64
3.2. Giải pháp .................................................................................................. 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu thống kê số bị cáo áp dụng hình phạt không tước tự do trên
địa bàn quận Gò Vấp trong thời gian 06 năm (từ năm 2012 đến năm 2017).37
Bảng 2.2: Số liệu thống kê số người chấp hành hình phạt áp dụng hình phạt
không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp trong thời gian 06 năm (từ năm
2012 đến năm 2017). ....................................................................................... 39


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành các hình phạt không tước tự do là một phần của hoạt động thi
hành án hình sự ở nước ta. Đó là hệ thống các hoạt động của các cơ quan, tổ
chức được giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án về các loại hình phạt nói trên theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Hình sự 1999, các hình phạt
chính không tước tự do bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ
và trục xuất. Trong các hình phạt này, hình phạt tiền do cơ quan thi hành án
dân sự thi hành theo cơ chế riêng, hình phạt trục xuất vừa được quy định là
hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính

không tước tự do còn lại là cảnh cáo và cải tạo không giam giữ. Các hình phạt
chính không tước tự do có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc
phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ
chính sách nhân đạo của luật hình sự. Việc tăng cường hiệu quả của các hình
phạt không tước tự do là một trong những vấn đề đang được đặt ra trong quá
trình sửa đổi Bộ luật Hình sự nhằm tiếp tục tăng cường chính sách nhân đạo,
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội.
Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế áp
dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt không tước tự do đối với người
phạm tội. Cụ thể: áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính không chỉ đối với
tội ít nghiêm trọng như trước đây, mà còn được áp dụng ngay cả đối với tội
nghiêm trọng, thậm chí là với một số tội rất nghiêm trọng; sửa đổi hình phạt
cải tạo không giam giữ theo hướng tăng cường tính cưỡng chế, nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục của loại hình phạt này; khẳng định nguyên tắc không
áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý.
Để đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính không tước tự do trong
pháp luật hình sự Việt Nam cần đưa ra các yêu cầu, các tiêu chuẩn cụ
1


thể trong quá trình lập pháp, quá trình quyết định hình phạt và quá trình chấp
hành hình phạt.Tuy nhiên, hệ thống các văn bản quy định về hình phạt không
tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; nội
dung chưa được quy định cụ thể; các điều kiện áp dụng hình phạt còn quy
định chung chung; ranh giới giữa các hình phạt không tước tự do còn khó xác
định; thực tiễn áp dụng và thi hành nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết...
Việc tăng cường áp dụng các hình phạt không tước tự do thể hiện rõ nét
nhất chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của
luật hình sự, tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hoàn lương mà
không phải cách ly khỏi xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà

nước trong việc giam giữ người phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục
trong cộng đồng, góp phần hiệu quả vào công cuộc phòng, chống tội phạm và
các vi phạm pháp luật khác....
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa các quy định của pháp
luật về thi hành các hình phạt không tước tự do, đồng thời đánh giá việc thi
hành các hình phạt không tước tự do trong thực tiễn để đưa ra các giải pháp
hoàn thiện về mặt luật pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt không
tước tự do không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng,
mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết.
Đây cũng là lý do luận chứng cho việc tôi quyết định chọn đề tài “Thi
hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn Quận Gò Vấp, thành phố
Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thi hành án hình sự nói chung, trong đó có thi hành các hình phạt không
tước tự do đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, được
để cập trong nhiều bài viết, nghiên cứuvà được thể hiện trên các báo trung
ương và địa phương chuyên ngành pháp luật như: Sách “Pháp luật thi hành
2


án Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp 2006, PGS.TS.
Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng; Giáo trình “Luật thi hành
án hình sự” Nxb Khoa học xã hội 2013, của GS.TS. Võ Khánh Vinh và TS.
Cao Thị Oanh; Luận văn Thạc sĩ Luật học“Thi hành các hình phạt không
tước tự do trên địa bàn tỉnh Hà Giang” củaHoàng Việt Trung; Luận văn Thạc
sĩ Luật “Các hình phạt không tước tự do trong Luật Việt Nam” của Lê Khánh
Hưng, Luận văn Thạc sĩ Luật học“Thi hành các hình phạt cải tạo không giam
giữ, án treo từ thực tiễn tỉnh Cà Mau”của Nguyễn Thị Hiền…
Các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu rất bổ ích và giá trị được
sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết

quả của các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm
thực tiễn và vốn hiểu biết của mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý
luận và quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do từ
thực tiễn quận Gò Vấp, đưa ra một số đề xuất về giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác thi hành các hình phạt không tước tự dotại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực
tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo
không giam giữ, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số nội dung chung về thi hành các hình phạt không tước tự
do.
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về thi hành các hình phạt
không tước tự do và thực tiễn áp dụng các quy định đó.

3


- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện, hiệu quả thi hành
các hình phạt không tước tự do.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học pháp lý hình sự, các quy định của
pháp luật về thi hành các hình phạt chính không tước tự do, thực tiễn thi hành
các hình phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Lý luận chung về thi hành các hình phạt không tước tự do;
- Nghiên cứu về các hình phạt không tước tự do trên các phương diện lập

pháp và thực tiễn áp dụng để từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn tại Quận Gò Vấp.
- Do nội dung đề tài rất rộng và phạm vi nghiên cứu còn hạn chế nên
luận văn chỉ nghiên cứu các hình phạt không tước tự do là hình phạt chính;
không nghiên cứu các hình phạt không tước quyền tự do là hình phạt bổ sung,
biện pháp tư pháp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về cải cách tư pháp; những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà
khoa học luật hình sự.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
luật học so sánh, phương pháp thống kê…

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống, phân tích những vấn đề quan điểm, lý luận về thi hành các
hình phạt không tước tự do; đánh giá công tác thi hành các hình phạt không
tước tự do trong thực tiễn.
Trình bày thực trạng áp dụng và thi hành các hình phạt không tước tự do
trên địa bàn quận Gò Vấp từ năm 2012 đến năm 2017; kết quả đạt được, hạn
chế và các nguyên nhân. Từ đó, đưa ra một số đề xuất, những giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi
hành án hình sự của Việt Nam, nâng cao hiệu quả công tác thi hành các hình
phạt không tước tự do tại địa phương.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương với cơ cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành các hình phạt không tước tự
do.
Chương 2: Thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa
bàn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
thi hành các hình phạt không tước tự do.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT
KHÔNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Khái niệm và các đặc điểm thi hành các hình phạt không tước
tự do
1.1.1. Khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do
Điều 106 Hiến pháp 2013 nước ta khẳng định: “Bản án, quyết định của
Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơquan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành”[22]. Yêu cầu mang tính nguyên tắc hiến định này đã khẳng định hiệu
lực thi hành của các phán quyết của Toà án khi có hiệu lực pháp luật, đồng
thời khẳng định ý nghĩa quan trọng của công tác thi hành án nói chung và thi
hành án hình sự nói riêng.
Thi hành án hình sự là một dạng hoạt động của Nhà nước, nhằm thực
hiện quyền lực Nhà nước, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện đưa
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án ra thi hành trên
thực tế. Đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn
trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà

nước là Tòa án, và là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Bên cạnh đó, thi hành án
hình sự còn nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết án để họ không phạm tội mới
và trở thành người có ích cho xã hội, nhằm mục đích phòng ngừa riêng; giáo
dục ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nói
chung, động viên, khuyến khích sự tham gia của xã hội và công dân vào cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thi hành án hình sự được tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ
do pháp luật quy định. Toàn bộ quá trình thi hành các bản án, quyết định và
6


các quan hệ liên quan đến việc thi hành được quy định cụ thể, rõ ràng. Đây là
giai đoạn cuối cùng trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp
luật và cũng là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, trong
đó buộc người bị xử phạt phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã quyết định.
Bản án, quyết định của Toà án có được thi hành nghiêm chỉnh hay không là
tuỳ thuộc chủ yếu vào giai đoạn này. Nếu mục đích của thi hành án không đạt
được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng
trở nên vô nghĩa. Hoạt động tố tụng trên chỉ có ý nghĩa trên thực tế khi các
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành một
cách nghiêm túc, kịp thời và có hiệu quả. Một bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì
trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường.
Tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng thi
hành án hình sự vẫn là một hoạt động có tính đặc thù và có mục đích trực tiếp
riêng biệt. Nếu tất cả các hoạt động tố tụng dừng lại ở việc phán quyết của
Tòa án, thì thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ khi phán quyết có hiệu
lực thi hành và nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết đó. Nhiệm vụ
của giai đoạn này là không chỉ trừng trị người có tội mà còn giáo dục, cải tạo

họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra cũng nhằm tới mục đích
giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta. Căn cứ và nội dung của thi hành án chính là các nội
dung cụ thể trong các phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là
điểm thể hiện rõ nhất tính tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của thi hành
án [12,tr. 13]. Nội dung thi hành án hình sự rất rộng, bao gồm chế độ, thủ tục,
tổ chức thi hành án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa
– xã hội và thực hiện chế độ chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ
7


xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như
việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành, tổ chức lực
lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thi hành án, quản lý nhà nước trong
lĩnh vực thi hành án, quy định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án,
nghĩa vụ của các cơ quan khác…
Thi hành án hình sự còn là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành
để thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, mang tính bắt buộc chấp hành
đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm liên quan đến việc thi hành án. Các
cơ quan, tổ chức, công dân trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ
chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành
trong thi hành án phản ánh một thực tế nó không phải là hoạt động tố tụng
thuần túy. Trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án tác động trực tiếp
tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện
pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết
định của Tòa án, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do
họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Thi hành các hình phạt không tước tự do:

Từ định nghĩa khoa học về hình phạt trong luật hình sự có thể nói: Hình
phạt không tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất về hình sự
của Nhà nước do Toà án quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật đối với
người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội
mà không buộc họ phải cách ly ra khỏi môi trường xã hội bình thường.
Các dấu hiệu cơ bản của hình phạt không tước tự do
- Người bị kết án không bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường.
- Tính chất cưỡng chế của hình phạt không tước tự do thấp hơn hình phạt
tù.
8


- Việc thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện bởi nhiều
cơ quan, tổ chức khác nhau.
- Điều kiện áp dụng và các hậu quả pháp lý phát sinh từ các hình phạt
không tước tự do được quy định khá chặt chẽ.
- Việc thi hành các hình phạt không tước tự do phát huy cao độ vai trò
của cộng đồng trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội.[14]
Các hình phạt nói chung và các hình phạt chính không tước tự do nói
riêng có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách
nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ chính sách
nhân đạo của Luật Hình sự. Khi áp dụng hình phạt không tước tự do đối với
người phạm tội sẽ hạn chế được những tác động tiêu cực của hình phạt lên
người phạm tội cũng như gia đình của người phạm tội, tạo điều kiện người
phạm tội được tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt.
Hoạt động thi hành án hình sự đối với các hình phạt không tước tự do
bên cạnh những đặc điểm chung còn có những đặc thù riêng biệt. Sự khác biệt
này xuất phát từ đặc thù của từng loại hình phạt và mục đích, đối tượng áp
dụng. Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội, họ được cải tạo, giáo dục,
hoạt động như các công dân bình thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu

sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi họ làm
việc hoặc sinh sống.
Hiện nay còn có các quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án
hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng. Có quan
điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử [5]. Có
người cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn của
quá trình tố tụng và do vậy, được điều chỉnh bằng các quy phạm của luật tố
tụng hình sự. Song cũng có ý kiến cho rằng, thi hành các hình phạt không
tước tự do là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những nét đặc
9


thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành các
hình phạt không tước tự do như là luật hình sự kéo dài.
Việc xác định thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn
tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa
quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự nói chung và thi hành
các hình phạt không tước tự do nói riêng. Xác định đúng bản chất thi hành các
hình phạt không tước tự do có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc
biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm bảo
đảm thi hành các hình phạt không tước tự do đạt hiệu quả cao.
Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi hành
các hình phạt không tước tự do như sau: Thi hành các hình phạt không tước tự
do là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật buộc người chấp hành các hình phạt không tước tự do phải tuân thủ,
chấp hành các hình phạt mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới, cũng như phòng ngừa tội phạm chung
cho toàn xã hội.

1.1.2. Đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, các hình phạt
chính không tước tự do bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ
và trục xuất. Hình phạt tiền do cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo cơ
chế riêng.
Việc thi hành án phạt chính không tước tự do còn có những đặc trưng
riêng biệt như sau:
- Người bị kết án này không bị cách li khỏi xã hội. Họ được cải tạo, giáo
dục tại môi trường sống bình thường với cộng đồng. Đây là đặc điểm quan
10


trọng để phân biệt hình phạt chính không tước tự do và hình phạt chính tước
tự do. Một số người bị kết án sau khi chấp hành án xong gặp khó khăn trong
việc tái hòa nhập cộng đồng dẫn đến tình trạng quay trở lại con đường tái
phạm, tái phạm nguy hiểm…Nên đối với một số tội phạm mà mức độ và hành
vi nguy hiểm là ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra, xét
xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi thì không cần thiết phải áp dụng các
hình phạt tước tự do, thay vào đó có thể áp dụng các hình phạt chính không
tước quyền tự do mà vẫn đạt được mục đích của hình phạt.
- Với những mức độ nghiêm khắc khác nhau của từng loại hình phạt
không tước tự do, người phạm tội không bị tước quyền tự do được sống, lao
động, học tập, làm việc trong môi trường lành mạnh là cơ quan, tổ chức và địa
phương mà trước khi phạm tội người đó vẫn sống và công tác. Tuy nhiên,
chính đặc trưng này cũng cho thấy để việc thi hành án phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đạt được hiệu quả thì đòi hỏi quy định về nội dung từng hình
phạt và biện pháp này cũng như cơ chế thi hành chúng phải phù hợp với mục
tiêu đặt ra, tránh mang tính hình thức.
- Nếu việc thi hành hình phạt chính tước tự do được giao cho một cơ
quan chuyên trách thực hiện thì việc thi hành hình phạt chính không tước tự

do được giao cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị kết án cư trú,
làm việc kết hợp với gia đình tham gia vào việc cải tạo, giáo dục người phạm
tội như: chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị
kết án cư trú hoặc làm việc, cơ quan thi hành án dân sự…
Ngoài các nét đặc trưng chung nêu trên, việc thi hành từng hình phạt
khác nhau cũng có những nét đặc trưng xuất phát từ bản chất nội dung của
từng hình phạt đó.
Tóm lại, thi hành các hình phạt không tước tự do tuy có quan hệ chặt chẽ
với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc
11


thù, và có mục đích riêng biệt nên Tòa án phải xem xét các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội… trước khi ra quyết
định hình phạt. Đối với các hình phạt không tước tự do thì các quyền và lợi
ích của người phạm tội ít bị xâm hại hơn so với các hình phạt tước tự do. Với
những hình phạt này, Nhà nước đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong việc
xử lý tội phạm, bảo đảm vấn đề tái hòa nhập cộng đồng, tác động tích cực đến
nhận thức của người phạm tội, giúp họ nhận ra được lỗi lầm của mình để tích
cực cải tạo, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.
1.2. Nội dung thi hành các hình phạt không tước tự do
1.2.1. Thi hành hình phạt cảnh cáo
Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Toà án tuyên án
đối với người bị kết án. Cảnh cáo là loại hình phạt nhẹ nhất trong các hình
phạt chính, không có khả năng đưa lại những hạn chế pháp lý liên quan trực
tiếp đến các quyền và lợi ích thiết thân về thể chất và tài sản… của người bị
kết án. Tuy vậy, với tư cách là khiển trách công khai của Nhà nước đối với
người phạm tội, cảnh cáo gây ra cho họ những tổn hại nhất định về mặt tinh
thần. Người bị hình phạt cảnh cáo đã phải chịu sự lên án của Nhà nước về
hành vi phạm tội của mình.

Người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng
chưa đến mức miễn hình phạt [21] là hai điều kiện cần và đủ để Tòa án áp
dụng hình phạt cảnh cáo đối với người phạm tội. Ngoài hai điều kiện trên,
luật không quy định thêm điều kiện nào khác nhưng khi áp dụng hình phạt
cảnh cáo với người phạm tội, Toà án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trước khi tuyên án. Các tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

12


Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, Toà án đã xét
xử sơ thẩm phải gửi bản án cho người bị phạt cảnh cáo, cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Ủy
ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội nơi người bị phạt cảnh cáo cư trú hoặc
làm việc, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trụ sở.
Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án
hình sự cấp quân khu có trách nhiệm theo dõi, thống kê, báo cáo theo quy
định. (Điều 71 Luật thi hành án hình sự năm 2010) [25]
Mặc dù hình phạt cảnh cáo là một hình phạt chính nhưng nó vẫn thể hiện
tính nhân đạo cao vì cảnh cáo là một hình phạt không tước tự do, song khái
niệm "hình phạt cảnh cáo" cũng chưa được Bộ luật hình sự làm rõ. Điều 34
Bộ luật hình sự năm 2015 chỉ nêu ra những điều kiện để người phạm tội được
áp dụng hình phạt cảnh cáo, đó là: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức
miễn hình phạt”[21]. Trong thực tiễn khi áp dụng hình phạt, các cơ quan và
người áp dụng pháp luật vẫn còn khó khăn trong việc xác định chính xác các
khái niệm "hình phạt cảnh cáo", "miễn trách nhiệm hình sự", "miễn hình

phạt", "miễn chấp hành hình phạt"; v.v...
Thi hành hình phạt cảnh cáo cần sự tham gia rộng rãi của quần chúng
nhân dân, của các cơ quan, tổ chức và nhất là gia đình người được áp dụng
hình phạt cảnh cáo để giám sát, giáo dục họ. Việc vận dụng đúng đắn sức
mạnh tổng hợp của chính quyền địa phương, tổ chức, quần chúng, gia đình
nhằm xóa bỏ những điều kiện, khả năng tiếp tục tái vi phạm pháp luật hoặc
phạm tội, làm cho người phạm tội chủ động tích cực cải tạo trở thành người
lao động lương thiện và có ích cho xã hội. Trong nội dung cải tạo, giáo dục và
giám sát người phạm tội, cơ quan, tổ chức,gia đình cần phải có những biện
13


pháp tích cực tác động làm cho người phạm tội thấy được hành vi phạm tội
của mình trước đó, hậu quả tác hại mà mình đã gây ra cho gia đình và cho xã
hội, thấy được chính sách khoan hồng, độ lượng của Đảng và Nhà nước, sự
quan tâm của gia đình, cơ quan tổ chức đối với họ, để họ ý thức được trách
nhiệm của mình, quên đi quá khứ sai lầm, phấn đấu lao động và làm việc để
trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội.
Do đặc thù của hình phạt cảnh cáo là biện pháp công khai lên án của Nhà
nước đối với người phạm tội nên cơ chế thi hành án phạt này không giống với
cơ chế thi hành các án phạt khác. Nếu như việc thi hành tất cả các bản án hình
sự khác đều chỉ được thực hiện sau khi bản án có hiệu lực pháp luật theo
những thủ tục riêng thì án phạt cảnh cáo lại được thi hành ngay tại phiên tòa
do Tòa án tuyên. Ngay sau khi tòa tuyên án công khai cũng có nghĩa là họ đã
chấp hành xong hình phạt cảnh cáo, hay nói cách khác là hình phạt cảnh cáo
không có tổ chức thi hành.Do đó, các tổ chức xã hội, đơn vị công tác nơi
người đó làm việc, hay Ủy ban nhân dân xã, phường nơi người đó sinh sống
khó có thể nắm được tình trạng của người bị kết án và dẫn đến hệ quả là
không thể theo dõi, giúp đỡ, cải tạo người bị kết án trở thành công dân có ích
cho xã hội.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định mới (Điều 364) về
thi hành hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa, mặc dù sau đó
bản án, quyết định vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị [19]. Người bị phạt
cảnh cáo sau một năm, nếu không phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án
tích theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 71 Bộ luật hình sự 2015.
1.2.2. Thi hành hình phạt tiền
Phạt tiền là hình phạt tước đi những quyền lợi vật chất của người bị kết
án một khoản tiền nhất định để bổ sung công quỹ Nhà nước, tác động lên tình
trạng tài sản của họ và qua đó tác động đến ý thức của người phạm tội, hạn
14


chế các điều kiện về tài sản mà người phạm tội có thể sử dụng điều kiện đó để
tiếp tục phạm tội.
Tại khoản 1, Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “Phạt tiền
được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và
một số tội phạmkhác do Bộ luật này quy định.” [20]
Cũng Tại khoản 1, 4 Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định sửa
đổi, bổ sung “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường
hợp sau đây: Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ
luật này quy định; Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm
khác do Bộ luật này quy định”,“Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại
phạm tội được quy định tại Điều 77 của Bộ luật này”[21] mở rộng thêm các
trường hợp áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính. Khi quyết định hình
phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm,
đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của
giá cả (khoản 3, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015) để có thể đưa ra một mức
tiền phạt hợp lí vừa có tính răn đe, thức tỉnh người phạm tội, vừa có thể đảm

bảo cho hình phạt có tính khả thi.
Luật thi hành án hình sự năm 2010 không có một quy định cụ thể nào về
việc thi hành hình phạt tiền nhưng tại một số quy định khác như: Điều 267 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 ghi nhận: “quyết định đưa bản án phạt tiền
hoặc tịch thu tài sản ra thi hành phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp,
chấp hành viên, người bị kết án và chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người
bị kết án cư trú”. Theo quy định tại khoản 5 Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 quy định: “Cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch
thu tài sản và quyết định dân sự trong vụ án hình sự. Chính quyền xã,
15


phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên
trong việc thi hành án. Nếu cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành
án thì cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác có nhiệm vụ phối
hợp”[18]; khoản 2 Điều 36 Luật thi hành án dân sự 2014 quy định “Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi
hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án,
quyết định hình phạt tiền”[24]; khoản 2 Điều 445 Bộ luật tố tụng hình sự
2015 quy định: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra
quyết định thi hành hình phạt tiền đối với pháp nhân. Trình tự, thủ tục thi
hành hình phạt tiền được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân
sự” [19] … đều cho thấy Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tổ chức
thi hành các nội dung của bản án, quyết định dân sự, hình sự, hành chính... có
hiệu lực pháp luật liên quan đến tiền, tài sản và xử lý vật chứng theo Luật thi
hành án dân sự.
Hình phạt tiền sẽ được thi hành theo trình tự thủ tục của Luật thi hành án
dân sự. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi
hành đối với phần bản án, quyết định về hình phạt tiền (không phân biệt là
hình phạt chính hay hình phạt bổ sung) và phân công chấp hành viên tổ chức

thi hành Quyết định thi hành án đó. Chấp hành viên tống đạt quyết định thi
hành án cho người bị kết án, thông báo thời gian tự nguyện thi hành án. Phối
hợp với các cơ quan, tổ chức đặc biệt Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hànhxác
minh điều kiện thi hành án của người bị kết án. Vận động, thuyết phục người
bị kết án tự nguyện thi hành án nếu xác minh có điều kiện để thi hành án,
trường hợp người bị kết án không tự nguyện thi hành thì chấp hành viên phối
hợp với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, các cơ quan, tổ chức, Ủy ban nhân
dân cấp xã để tiến hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết để đảm
bảo bản án được thi hành. Trường hợp xác minh cho thấy người bị kết án
16


không có điều kiện thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự sẽ ra quyết định
về việc thi hành án chưa có điệu kiện thi hành, gửi quyết định về Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết. Tùy theo từng trường hợp, người bị kết
án sẽ được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án theo quy định.[24]
Áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ
các yếu tố sau: Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức
tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá
một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định (Điều 99 Bộ luật hình sự
năm 2015)
Thu nhập của người chưa thành niên quy định tại điều này được hiểu là
thu nhập thực tế từ hợp đồng lao động hoặc từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
và có thể là thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên. Tài sản riêng
của người chưa thành niên là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đó có
được do thừa kế, tặng cho...
Về miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt là những trường hợp
người phải thi hành các khoản tiền này theo bản án, quyết định của Toà án,
nhưng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định được Toà án có thẩm quyền

quyết định miễn hoặc giảm khoản tiền mà họ phải thi hành (khoản 5 Điều 62,
khoản 3 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 2015)
1.2.3. Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 lần đầu tiên đã ghi
nhận hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính.
Điều 31, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định
như sau:
“1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật
17


này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ
ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm
giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ
một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó
thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát,
giáo dục người đó.
3. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về
cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để
sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc
khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.”[20]
Bộ luật Hình sự năm 2015 có những thay đổi và bổ sung tiếp tụcghi nhận
hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính. Điều 36
Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối

với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này
quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét
thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị
kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào
thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ,
tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối
18


hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát,
giáo dục người đó.
3. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số
nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần
thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được
thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn
việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực
hiện nghĩa vụ quân sự.
4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm
hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực
hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo
không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày
và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có
thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh
hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ
quy định tại Luật thi hành án hình sự.”[21]
Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình
phạt của Bộ luật hình sự. Xét về bản chất đây là loại hình phạt không tước tự
do, không buộc người phạm tội cách ly khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như
xã hội nói chung. Nội dung chính của hình phạt là thể hiện ở chỗ người bị kết
án không bị tước quyền tự do thân thể, không bị cách ly khỏi môi trường sống
bình thường nhưng họ phải chịu sự giám sát, giáo dục, quản lý chặt chẽ của
cơ quan tổ chức nơi họ làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi họ cư trú.
19


Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng, đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng và khi các điều
kiện khác cho thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải cách
ly ra khỏi xã hội. Thời hạn cải tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm.
Nghĩa vụ mà người bị kết án phải thực hiện là nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm
định kỳ và có thể nộp 5% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước.
Hình phạt cải tạo không giam giữ mang bản chất nhân đạo cao, khả năng
cải tạo và giáo dục người phạm tội cao. Khi áp dụng hình phạt Tòa án phải
căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Để đảm bảo quyền lợi cho
người bị kết án cũng như sự công bằng của pháp luật, Bộ luật hình sự quy
định thời gian tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử được
trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày
tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải
tạo không giam giữ trong Bộ luật hình sự và Nghị định số 60/2000/NĐ-CP
ngày 30/10/2000 của Chính phủ về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ,
cụ thể là: Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật của Nhà nước, phải tích cực tham gia lao động, học tập, thực

hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, quy ước của thôn, làng ấp, bản, cụm dân cư
nơi mình cư trú; làm cam kết và thực hiện nghiêm chỉnh cam kết đó trước cơ
quan, tổ chức giám sát, giáo dục [8].
Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự năm
2015 mở rộng theo chiều hướng tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của người
chấp hành án, phù hợp định hướng cải cách tư pháp và xu thế chung hiện nay.
Tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của người phải chấp hành án đối với
đối tượng không có việc làm hoặc bị mất việc trong thời gian chấp hành hình
phạt thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong
20


×