Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết ngồi của nguyễn bình phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 79 trang )

Lời Cảm Ơn
Hoàn thành khoá luận này, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô
giáo khoa Khoa học xã hội – Trường Đại học Quảng Bình, những người đã
truyền đạt kiến thức trong suốt bốn năm học qua.Với vốn kiến thức được
tiếp thu trong thời học tập không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu
mà còn là hành trang quý giá để tôi bước vào đời vững vàng và tự tin.
Đặc biệt, bằng sự kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo
Th.S. Lương Hồng Văn - người đã trực tiếp hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ tận
tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện
khoá luận.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè đã luôn sát
cánh, ủng hộ, động viêc và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực
hiện khóa luận tốt nghiệp.
Quảng Bình, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Lê Thị Mỹ Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp “Dấu ấn hậu hiện đại
trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương” là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi không sao chép của ai cả, dưới sự hướng dẫn của Th.S.
Lương Hồng Văn. Nội dung của đề tài nghiên cứu có tham khảo và sử
dụng tài liệu của các tác giả, tôi đã trích đầy đủ trong mục tài liệu tham
khảo của khóa luận. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung khoa
học của công trình nghiên cứu này.
Tác giả khóa luận

Lê Thị Mỹ Huyền



MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 3
2.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ............................... 3
2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu
thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương ................................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 8
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8
5. Đóng góp của khóa luận .................................................................................... 8
6. Cấu trúc của khóa luận ...................................................................................... 8
B. PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ........................................................................ 9
1.1. Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại .................................................................. 9
1.1.1. Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại ............................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại ............................................ 12
1.2. Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng trong văn học Việt Nam .................. 15
1.2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau 1986 trong việc tiếp nhận chủ nghĩa hậu
hiện đại. ............................................................................................................... 16
1.2.2. Ảnh hưởng chủ nghĩa hậu hiện đại trong đời sống văn chương Việt Nam
đương đại ............................................................................................................. 17
1.3. Hành trình sáng tạo của Nguyễn Bình Phương ............................................ 20
1.3.1. Nguyễn Bình Phương – một quan niệm mới về văn chương.................... 20
1.3.2. Những đóng góp của Nguyễn Bình Phương trong tiến trình tiểu thuyết
đương đại ............................................................................................................. 24
CHƯƠNG 2: TIỂU THUYẾT “NGỒI” CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

NHÌN TỪ TÂM THỨC HẬU HIỆN ĐẠI VỀ CUỘC SỐNG, CON NGƯỜI ... 28
2.1. Tâm thức hậu hiện đại về thế giới phồn tạp, bất an ..................................... 28
2.2. Tâm thức hậu hiện đại về thế giới bất định .................................................. 32
2.3. Tâm thức hậu hiện đại về sự khủng hoảng niềm tin và cái chết .................. 35
2.4. Con người bản năng – ám ảnh ..................................................................... 37


2.5. Con người tha hóa ........................................................................................ 41
2.6. Con người vô bản sắc ................................................................................... 45
CHƯƠNG 3: DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT “NGỒI”
NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN ........................................................... 48
3.1. Kết cấu.......................................................................................................... 48
3.1.1. Kết cấu phân mảnh .................................................................................... 49
3.1.2. Kết cấu song hành ..................................................................................... 52
3.1.3. Dung hợp thể loại ...................................................................................... 54
3.2. Thủ pháp xây dựng nhân vật ........................................................................ 57
3.2.1. Thủ pháp “mờ hoá” hay “tẩy trắng” nhân vật ........................................... 57
3.2.2. Thủ pháp trừu tượng hóa nhân vật ............................................................ 60
3.3. Giọng điệu .................................................................................................... 63
3.3.1. Giọng giễu nhại ......................................................................................... 63
3.3.2. Giọng điệu vô âm sắc (Giọng “trắng”) ..................................................... 65
C. KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 73


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hậu hiện đại đã trở thành hiện tượng mang tính toàn cầu, được bàn luận, tranh
cãi rất nhiều và có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học. Với
văn học, chủ nghĩa hậu hiện đại đã mở ra nhiều khả năng mới cho sự sáng tạo, đem lại

những hiệu quả rất to lớn trong việc mang đến cho đông đảo quần chúng độc giả trên
toàn thế giới món ăn tinh thần hết sức gần gũi mà không hề bị nhàm chán.
Trong bối cảnh hội nhập thế giới trên nhiều mặt đặc biệt trên lĩnh vực văn hoá,
văn học Việt Nam đã và đang chuyển động để hoà nhập với không khí chung này như
một sự vận động tất yếu của sự phát triển. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho văn học
Việt Nam có nhu cầu trong việc học hỏi, tìm tòi, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân
loại trong đó có chủ nghĩa hậu hiện đại. Cho đến nay, chủ nghĩa hậu hiện đại không
còn là một khái niệm xa lạ trong văn học nước ta. Dẫu có nhiều cách lý giải khác nhau,
nhưng nó đã được nhìn nhận như một khuynh hướng văn học với những nét đặc thù
riêng. Vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, yếu tố hậu hiện đại đã để lại
dấu ấn trong tiểu thuyết Việt Nam. Như trong bài viết Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu
thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI của Thái Phan Vàng Anh đã khẳng định lại: “Trong
quá trình vận động và phát triển, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã dung nạp vào bản
thân nó những yếu tố hậu hiện đại: giải – khu biệt hoá và phi trung tâm hoá; tính chất
hỗn loạn và bất ổn của trật tự đời sống; sự xáo trộn giữa hư và thực, giữa cái siêu
nhiên, huyền bí và đời thường; những kiểu cấu trúc mới, mảnh vỡ, liên văn bản, gián
cách, trò chơi ngôn ngữ, trò chơi cấu trúc, bút pháp nhại, nghịch dị, huyền ảo,… Các
yếu tố cơ bản của hậu hiện đại đã được các nhà văn Việt Nam tiếp biến ở nhiều mức
độ, ở từng phong cách” [19,263].
Ở góc độ nghiên cứu văn học, có thể thấy rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là một yếu
tố mang lại hương sắc mới, sự cách tân mới mẻ trên các phương diện cả nội dung lẫn
hình thức nghệ thuật.
Nguyễn Bình Phương là một nhà văn được xếp vào nhóm khuynh hướng hậu
hiện đại. Tên tuổi của ông được biến đến cuối những năm 90, những tiểu thuyết bắt
đầu từ Vào cõi (1991), Bả giời (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng
(1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kỳ thuỷ (2005), đặc biệt tiểu thuyết Ngồi (2006)

1



đã thể hiện một lối viết riêng biệt, khác lạ từ cách tiếp cận nhân vật, xây dựng không
gian, thời gian và ngôn từ cho đến cách nhìn nhận hiện thực xã hội của tác giả.
Lối tư duy thơ và logic của cảm xúc đã chi phối đến thể loại tiểu thuyết tạo nên
một cõi thương biến, linh ảo. Nó vừa biểu hiện ở thì hiện tại với cuộc đời trần trụi, vừa
nhập nhằng ở thì quá khứ với một lịch sử xa xôi từ thời khởi thuỷ hay ám ảnh những
giấc mơ, suy tưởng. Thế giới ấy không phải ai cũng dễ dàng thâm nhập vào được. Cây
bút Nguyễn Bình Phương đã khai phá tầng sâu nhất ở mỗi con người như mê lộ của ý
thức với những khó khăn chằng chịt để tìm thấy điểm đầu và kết thúc để tìm cho mình
một “lối đi riêng”. Đúng như tác giả tâm niệm: “Tiểu thuyết cần có những bước mạo
hiểm” [38]. Con đường mà Nguyễn Bình Phương lựa chọn quả là mạo hiểm nhưng
đầy sức vẫy gọi đối với người tiếp nhận, khám phá các tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương, người viết thấy có một lối viết riêng biệt và thực sự mới mẽ từ cách nhìn
nhận, tiếp cận hiện thực, sử dụng ngôn ngữ sáng tạo, cốt truyện cho đến việc sử dụng
thủ pháp liên văn bản có tính hiện thực cao. Với cách viết riêng lạ này tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương có thể xem là “sự tích hợp phong phú nhiều trạng thái tư duy
nghệ thuật của tiểu thuyết hiện đại và đương đại. Thế giới từ đó đúc kết tạo nên một
kiểu tư duy độc đáo Nguyễn Bình Phương” [19,402].
Ngồi là một trong những tác phẩm mới của Nguyễn Bình Phương , được xuất bản
năm 2006 cũng như các tác phẩm khác Ngồi được đánh giá cao ngay từ lúc mới ra đời,
đây là tác phẩm độc đáo, mới lạ cùng với các tiểu thuyết trước, đã đóng góp lớn cho
thành tựu của văn học Việt Nam đương đại. Cuốn tiểu thuyết này đã nhận thấy cái
nhìn độc đáo là hiện thực linh ảo, hiện thực huyền ảo. Đó không chỉ là một hiện thực
đan xen hai cõi âm dương mà còn là một thế giới bao quát tất cả những vật giới, linh
giới, hiện tượng … luôn luôn đi tìm bản thể của mình với cái nhìn vượt lên trên tính tự
tôn của loài người.
Ngồi được xem là tác phẩm “có những khám phá bên trong con người, tìm hiểu
những thức cảm nội tại của nhân vật” [21], là cuốn tiểu thuyết mang đậm dấu ấn hậu
hiện đại từ phương diện nội dung và cả phương thức nghệ thuật trong tác phẩm. Bằng
kết cấu phân mảnh và dung hợp về thể loại đã mang lại cho tác phẩm cái nhìn mới cho
người đọc tiếp cận tác phẩm thông qua hệ thống nhân vật tác giả đã khai thác triệt để

từ đó ta có cái nhìn mới về con người và xã hội trong cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên sự
quan tâm của bạn đọc và giới phê bình với tác phẩm Ngồi chỉ dừng lại ở các bài báo và
2


tạp chí chưa có sự nghiên cứu một cách quy mô, hệ thống về Nguyễn Bình Phương
cũng như dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết của ông. Trong khi đó lại là một trong
những yếu tố quan trọng tạo nên cái hay, cái đặc sắc của thơ Việt giai đoạn đổi mới.
Chính vì vậy người viết đã chọn đề tài “Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết
Ngồi của Nguyễn Bình Phương” với mong muốn lý giải một tư duy nghệ thuật, khám
phá và lí giải các phương diện làm nên giá trị trong các tác phẩm của ông. Qua việc
thực hiện đề tài này người viết mong muốn góp một phần sức lực của mình vào việc
xác định một hướng giải mã mới, phù hợp với xu thế nghiên cứu văn học hậu hiện đại,
là một phương thức tiếp cận tác phẩm đầy tiềm năng và thích ứng với mọi văn bản
nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Nguyễn Bình Phương là một tác giả trẻ, có một phong cách độc đáo, kỹ thuật viết
mới. Nguyễn Bình Phương là một cây bút tài năng, ông viết đều tay trên nhiều thể
loại: Thơ (Khách của trần gian (1986), Lam chướng (1992), Xa thân (1997),… truyện
ngắn Đi (1999) và tiểu thuyết. Trong lĩnh vực nào ông cũng đạt một số thành công
nhất định, đặc biệt hơn hết là thể loại tiểu thuyết với các tác phẩm như: Vào cõi
(1991), Bả giời (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ
suy tàn (2000), Thoạt kỳ thuỷ (2005), Ngồi (2006), Mình và Họ (2014). Tác phẩm của
Nguyễn Bình Phương xuất hiện đều gây xôn xao trong dư luận bởi sự khác lạ, mới mẽ
về cấu trúc và bởi sự khó hiểu trong hình thức diễn đạt.
Viết công trình này người viết đã xem xét hầu hết các bài viết quan trọng về tác
giả Nguyễn Bình Phương trong các luận văn, bài báo, tạp chí và các bài nghiên cứu,…
Tổng thuật các công trình nghiên cứu như sau:
Tiêu biểu nhất phải kể đến tập hợp các bài nghiên cứu có tính chuyên sâu của

Thuỵ Khê về từng tác phẩm của Nguyễn Bình Phương như: “Khuynh hướng hiện thực
huyền ảo trong tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già; Tính chất hiện thực linh ảo âm
dương trong tiểu thuyết Người đi vắng; Yếu tố tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí nhớ
suy tàn, Thoạt kỳ thuỷ trong vùng đất Cậm cam hoang vu của Nguyễn Bình
Phương”[23]…Thuỵ Khê đã nhận thấy cái nhìn hiện thực độc đáo ở Nguyễn Bình
Phương là cái nhìn linh ảo, hiện thực huyền ảo. Đó chỉ là một hiện thực đan cài hai cõi
âm – dương mà còn là một thế giới bao quát tất cả những vật giới, linh giới, hiện
3


tượng,… riết ráo đi tìm bản thể của mình với cái nhìn vượt lên trên tính tự tôn của loài
người. Mặt khác, các công trình này đã phần nào phát hiện được sự xoá nhoà ranh giới
thể loại trong sáng tác Nguyễn Bình Phương: “Những yếu tố vừa tạo kịch vừa phi
kịch, vừa thơ, vừa phi thơ là những mấu chốt của cấu trúc của tiểu thuyết”.
Trong bài viết Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương của tác giả Phùng Gia
Thế (2004) đã khẳng định: “Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ám ảnh bởi sự khủng
hoảng niềm tin ở con người, của nhà văn vào con người và cuộc đời, những đỗ vỡ của
những trật tự xã hội và gia đình, sự khắc khoải ngưng đọng của đời sống, sự đánh mất
bản ngã, phương hướng, sự băng hoại đạo đức, đau đớn bơ vơ, tình trạng bất an của
con người” cũng trong bài viết này tác giả cũng đã nhận định rằng: “Nhân vật Nguyễn
Bình Phương hiện thân cho nỗi đau đớn đến cùng cực của thân phận Người. Họ
thường là đám đông ô hợp, trong đó có nhiều người điên, quái dị, đơn độc, bản năng,
bệnh hoạn, méo mó tự thân. Họ luôn lặn gụp miên man giữa hai bờ thực - ảo, vật lộn
đau đớn kiếp con người” [35,37]. Từ bài viết của tác giả Phùng Gia Thế cho ta thấy
nhà văn Nguyễn Bình Phương tuy trẻ nhưng rất am hiểu về cuộc sống và xã hội đây là
nguồn tư liệu vô giá để nhà văn đưa vào tác phẩm của mình. Đây là những luận điểm
quan trọng chắp thêm ý tưởng cho người viết khi tiến hành làm rõ nội dung và hình
thức nghệ thuật của tác phẩm.
Hoàng Nguyên Vũ trong bài viết Lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương (2010),
cảm nhận ở Nguyễn Bình Phương một lối viết như người mộng du: “Người đọc cảm

giác như đang theo dõi một người mộng du đi trên một sợi dây, và phấp phổng chờ
điểm rơi của người ấy cho đến cuối truyện để rồi nhận những kết thúc bất ngờ và đau
đớn” [36]. Lối viết ấy tất yếu đã tạo nên màn sương nhoè mờ cho sự xuất hiện thế giới
nhân vật. Các nhân vật trong tiểu thuyết hiện lên như những đám đông “được soi bởi
một lối tư duy vô thức”. Trong bài viết này của Hoàng Nguyên Vũ, tác giả đã cung cấp
thêm cho người viết nhận biết được “sự vô ý thức” trong sáng tác của Nguyễn Bình
Phương.
Hay trong bài báo Một số điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương,
Trương Thị Ngọc Hân (2008) đã ghi nhận: “… Bước vào những trang văn của Nguyễn
Bình Phương ta thấy ảo xen thực, thực thấm vào ảo, ảo và thực hoà quyện nhiều khi
không thể phân tách rõ ràng” [24]. Qua bài báo này cho thấy, Nguyễn Bình Phương đã sử
dụng yếu tố kỳ ảo như một cách thức làm nhoè ranh giới của hiện thực song lại cho ta một
4


cảm giác rất thật về cuộc sống, có những điều không phải lúc nào cũng lý giải và sự phi lý
vốn là một mặt không thể thiếu của cuộc sống.
Nhìn chung, các ý kiến đều đánh giá cao sự nỗ lực, sự cách tân trong lối viết của
Nguyễn Bình Phương trong văn học. Bằng một lối tư duy hậu hiện đại, một cách cảm,
một cách nghĩ mới mẽ cho thấy Nguyễn Bình Phương là cây bút đầy triển vọng của
nền văn học Việt Nam đương đại.
Các đề tài nghiên cứu trên là cơ sở và nguồn tư liệu quan trọng để người viết
triển khai các luận điểm về dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn
Bình Phương trên phương diện về con người và cuộc sống cũng như các phương thức
nghệ thuật ở trong tác phẩm.
2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến dấu ấn hậu hiện đại trong
tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương
Tất cả các bài viết của Nguyễn Bình Phương giúp chúng ta có điều kiện thâm
nhập vào động cơ sáng tạo, tư tương nhà văn, quan niệm của nhà văn về thể loại, ít
nhiều đã đề cập tới những yếu tố hậu hiện đại trong tiểu thuyết của nhà văn này (chẳng

hạn như vấn đề cảm quan đời sống và đổi mới kỹ thuật tiểu thuyết theo hướng hậu
hiện đại) trở thành những gợi ý quan trọng trong khi triển khai luận điểm của khóa
luận để có điều kiện đi sâu vào những ảnh hưởng và tiếp thu văn học hậu hiện đại thế
giới trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trên một cấp độ tổng thể.
Bài báo Ngồi của Nguyễn Bình Phương: Tiểu thuyết “hướng nội ” hiếm hoi của
Việt Nam do báo thể thao văn hóa (2013) thực hiện có viết :
“Trong những tiểu thuyết trước, Nguyễn Bình Phương luôn luôn cho chạy song song
hai dòng mạch khác nhau: Những đứa trẻ chết già là cõi âm và cõi dương; đến cõi
người và cõi vật trong Người đi vắng; rồi trí nhớ và sự suy tàn của trí nhớ trong Trí
nhớ suy tàn; người và người điên trong Thoạt kỳ thủy. Tiểu thuyết Ngồi vẫn có hai
mạch chạy song song, nhưng trong cùng một con người: đời sống hiện thực hàng
ngày, và đời sống đang xảy ra trong tư tưởng của Khẩn”[21]. Từ việc khái quát chung
về tác phẩm giúp cho người viết, người đọc có cái nhìn rõ nét hơn về nội dung của tác
phẩm ra sao để người viết tiến hành đi phân tích tác phẩm trên hai phương diện nội dung
và hình thức nghệ thuật. Từ đó, khẳng định một cách chắc chắn dấu ấn hậu hiện đại
trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương.
Trong bài viết Trò chơi kết cấu – một cách tân nghệ thuật trong “Paris 11 tháng
8” của Thuận do TS. Hoàng Thị Huế thực hiện có viết: “Trong xu hướng nới lỏng, mở
5


rộng biên độ cho kết cấu, tính hệ thống, nhất quán của các thủ pháp nghệ thuật đã
nhường chỗ cho sự thăng hoa của tính đa tạp, đằng sau những mẫu tin ngắn ẩn chứa
câu chuyện dài về thân phận con người, nhà văn dẫn dắt người đọc vào một trò chơi
kết cấu thú vị, những liên hệ không thời gian, những mảnh đời, số phận, tin tức thời
sự… không liên tục mà được xáo trộn, ngắt quãng, đứt gãy, như ảnh phản của một
hiện thực đời sống không toàn vẹn, rời rạc, đổ vỡ, rạn nứt… Kết cấu được sử dụng
như một trò chơi trong tổ chức thế giới nghệ thuật của tác phẩm, như một nỗ lực cách
tân thể loại, đóng góp thêm một cách tiếp cận hiện thực và đời sống con người, tạo
nên những sắc thái mới mẽ cho Paris 11 tháng 8” [19, 110]. Đây là một bài viết cung

cấp cho người viết một luận điểm quan trọng về phương diện sử dụng kết cấu trong
một văn bản hậu hiện đại. Quan trọng nhất của bài viết là đã mang lại cho người viết
hiểu được trò chơi kết cấu một yếu tố quan trọng trong việc góp phần bộc lộ tốt chủ đề
và tư tưởng của tác phẩm văn học, triển khai, trình bày một cách hấp dẫn cốt truyện,
cấu trúc một cách hệ thống tính cách, tổ chức hợp lý hệ thống điểm nhìn của tác giả
tạo nên tính toàn vẹn của một tác phẩm văn học. Đồng thời, đây cũng là một luận điểm
mở ra những khám phá mới và tạo được hiệu ứng thẩm mỹ thú vị cho bạn đọc.
Bài báo Nguyễn Bình Phương tạo nét mới cho tiểu thuyết Việt Nam do Báo Thể
Thao Văn Hoá thực hiện có viết: “Bước thể nghiệm làm mới văn chương đương đại
của Nguyễn Bình Phương rất đáng để ghi nhận, đồng thời thể hiện rõ tính nhất quán
trong quan niệm sáng tác của tác giả đó là: “không thích sự giả dối, lên gân, những
cái đa dạng trong văn chương là cần thiết. Đương đại là cái gì khóc liệt nhưng
không nhất thiết phải dùng giọng văn gân guốc, nghiệp ngã. Điều quan trọng là ngửi
hơi văn phải thấy được đó là văn chương của những năm 30, 60 hay 90 chứ không
căn cứ vào sự kiện trong tác phẩm” [39]. Bài báo này đã cung cấp cho người viết
một luận điểm quan trọng trong việc đi tìm hiểu hành trình sáng tạo văn chương của
nhà văn Nguyễn Bình Phương. Từ đó, giúp người viết thể hiện cách nhìn mới mẽ và
sáng tạo của Nguyễn Bình Phương. Một người có quan niệm mới về văn chương thể
hiện ở việc thể hiện quan niệm mới về mối quan hệ giữa văn học - hiện thực cùng với
quan niệm mới về cách viết của ông trong tiến trình phát triển của tiểu thuyết đương
đại ở Việt Nam.
Trong bài viết Dấu ấn hậu hiện đại trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương qua
Những đứa trẻ chết già và Thoạt kỳ thuỷ do Lê Minh Hiền thực hiện có viết: “Những
6


đứa trẻ chết già và Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình Phương có lắp ghép và xáo trộn
các tầng bậc, chiều kích thời gian, không gian. Tư duy mảnh vỡ về thế giới hiện thực
trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương được thể hiện qua cảm quan con người cô
đơn đi tìm bản thể, con người vỡ mộng, thức tỉnh, hoài nghi, hoang mang đan xen giữa

các yếu tố ảo và thực. Vì vậy tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương ít nhiều hàm chứa
nhiều vấn đề của cảm thức hiện đại, bước đầu đưa văn học Việt Nam tiến tới hoà nhập
với văn học thế giới” [19,410]. Từ nhận định của tác giả Lê Minh Hiền đã giúp cho
người viết khai thác vấn đề cảm quan (hay còn gọi là tâm thức) hậu hiện đại được đề
cập đến trong tác phẩm. Đó là những cảm quan về con người, xã hội trong sự cô đơn
đi tìm bản thể riêng, rồi những con người vỡ mộng, hoài nghi về sự khủng hoảng và
cái chết của hiện thực bên trong tác phẩm.
Nguyễn Bình Phương chia sẻ: “Tôi viết về sự giãy dụa của người công chức trong việc
giữ gìn mô hình sống mẫu mực trước những cám dỗ của một xã hội đang phát triển.
Có những cốt lõi mà họ không được vi phạm. Tuy nhiên, họ vẫn đang phải đối mặt với
cái đám lùng nhùng ấy. Tóm lại, tôi muốn phản ánh tình trạng dở dở, ương ương của
công chức đương thời”[21]. Ngồi có cấu trúc của một giấc mơ, nhanh như những gì
xảy ra giữa hai cái chớp mắt. Với bài báo này đã một phần nào cung cấp cho người

viết một luận điểm quan trọng trong việc giải quyết luận điểm tâm thức hậu hiện
đại về đời sống hiện thực được thể hiện trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình
Phương.
Phần lớn những bài viết trên không gọi tên nhưng là những gợi mở, xác minh
khuynh hướng hậu hiện đại trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương. Qua đó
có thể cho thấy “Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình
Phương” là một đề tài còn khá mới mẻ, chưa được nhiều người nghiên cứu khai thác
một cách quy mô, hệ thống. Trong khi đây là một khía cạnh quan trọng làm nên thành
công của văn học Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trên có ý nghĩa gợi mở quan
trọng, có thể xem là hành trang quý báu giúp tôi tham khảo trong quá trình nghiên cứu
đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương.

7



3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết Ngồi trên hai bình diện: tâm thức hậu hiện đai về cuộc sống, con
người và dấu ấn hậu hiện đại nhìn từ phương thức biểu hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Phương pháp liên ngành
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống
- Phương pháp so sánh đối chiếu
Ngoài các phương pháp chủ đạo trên, người viết còn sử dụng một số phương
pháp hỗ trợ như: phương pháp phân tích văn học, thống kê, phân loại, tổng hợp, so
sánh liên ngành…
5. Đóng góp của khóa luận
Thông qua nghiên cứu đề tài này, khóa luận có những đóng góp sau đây:
- Tìm hiểu về dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam và đặc điểm của chủ
nghĩa hậu hiện đại thể hiện trong tiểu thuyết Ngồi
- Khẳng định những thành tựu nghệ thuật, cách thức sáng tác, phong cách sáng
tác và đóng góp quan trọng của ông trong nền văn học Việt Nam đương đại.
- Nghiên cứu dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình
Phương một cách trọn vẹn và đầy đủ cả hai mặt nội dung và hình thức nghệ thuật tác
phẩm.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, phần nội
dung của khóa luận được triển khai như sau:
Chương 1: Chủ nghĩa hậu hiện đại và hành trình sáng tạo của Nguyễn Bình
Phương
Chương 2: Tiểu thuyết “Ngồi” của Nguyễn Bình Phương nhìn từ tâm thức hậu
hiện đại về cuộc sống, con người

Chương 3: Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết “Ngồi” nhìn từ phương thức thể
hiện.

8


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
1.1. Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại
Chủ nghĩa hậu hiện đại là một xu hướng trong nền văn hóa đương đại được đặc
trưng bởi sự chối bỏ sự thật khách quan và siêu tự sự. Chủ nghĩa hậu hiện đại nhấn
mạnh vai trò của ngôn ngữ, những quan hệ quyền lực, động cơ thúc đẩy; đặc biệt nó
tấn công việc sử dụng những sự phân loại rõ ràng như nam với nữ, bình thường với
đồng tính, trắng với đen, đế quốc với thực dân. Chủ nghĩa hậu hiện đại đã ảnh hưởng
tới nhiều lĩnh vực văn hóa, bao gồm cả phê bình văn học, xã hội học, ngôn ngữ học,
kiến trúc, nghệ thuật thị giác, và âm nhạc. Nó là một nội hàm rộng và vẫn đang vận
động, biến đổi không ngừng. Người viết tự giới hạn việc giới thiệu tổng quát những lý
thuyết được biết đến về chủ nghĩa hậu hiện đại, đồng thời cũng thấy được sự phát triển
một chặng đường văn học của thế giới cũng như ở Việt Nam.
1.1.1. Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại
Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) như sự phản biện chủ nghĩa hiện đại
(Moderism), là một trào lưu văn hoá rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực như triết học,
văn hoá, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, chính trị, xã hội, ra đời từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai được phát triển mạnh vào thập niên 1970 ở Tây Âu, xuất phát từ nước
Pháp sau đó được lan rộng sang các nước Italia, Đức, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Thuỵ
Sĩ,… Sau một thời gian tạo nên những tranh luận sôi nổi từ những năm 1990 trở lại
đây thì chủ nghĩa hậu hiện đại đã tự khẳng định mình như một hệ hình tư duy mới, ảnh
hưởng sâu rộng đến các ngành khoa học từ các ngành khoa học tự nhiên đến các ngành
khoa học xã hội rồi đi sâu vào cảm thức văn hoá và lối sống của mỗi con người trong

xã hội. Chính sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa hậu hiện đại vào đời sống của mỗi
con người trong xã hội đã tạo nên một hiện tượng hiếm có, nó đang là “não trạng và
mốt sống của nhân loại”. Trong xã hội toàn cầu hoá thế giới hiện nay, chủ nghĩa hậu
hiện đại là một trong những khuynh hướng văn hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
giao lưu, tương tác tiếp biến văn hoá giữa các quốc gia, các nền văn hoá khác nhau.
Chính sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại với tư cách là sản phẩm văn hoá và tinh
thần chịu sự ảnh hưởng rất lớn đối với điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử của thời đại nó
9


mang lại một diện mạo mới cho thế giới. Những bước phát triển cùng với những khủng
hoảng mang tính chu kỳ của chủ nghĩa tư bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai cho đến
những năm 70 của thế kỷ XX, sự bùng nổ của các hiện tượng văn hoá, nữ quyền luận,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, sự phân cực thế giới chính trị, chiến tranh
lạnh,… hay chính sự nở rộ của các phát kiến khoa học công nghệ, rồi sự hồi sinh của
một số học thuyết triết học phi lý, sự xuất hiện “bước ngoặt ngôn ngữ”… đây là những
điều kiện quan trọng để làm tiền đề cơ sở cho sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Khái niệm “hậu hiện đại” đã manh nha từ năm 1934, theo Hassan thì khái niệm
“chủ nghĩa hậu hiện đại” được nhà phê bình người Tây Ban Nha là Federico de Onis
đưa vào văn bản đầu tiên ở thập niên 30 để chỉ sự ảnh hưởng tương phản với chủ nghĩa
hiện đại. Sau đó đến năm 1942, lý thuyết đó được Duley Fitts sử dụng bởi sử giả
Arnold Toynbee công trình lịch sử đồ sộ A Study of History để chỉ khoảng thời gian từ
1918 đến 1939. Paul Hoover thì cho rằng khái niệm “hậu hiện đại” đã được nhà thơ
Charles Olson sử dụng từ năm 1951, đến năm 1959 được Irving Howe sử dụng trong
tiểu luận Xã hội chúng ta và tiểu thuyết hậu hiện đại. Khái niệm này sau đó đã được sử
dụng phổ biến và thập niên 60 tại New York với sự xuất hiện của hai cuốn phê bình mĩ
thuật kiến trúc The Dearth of Life of Great American Cities của Jane Jacobs xuất bản
năm 1961 và cuốn Complexity and Contradiction in Architecture của Robert Venturi
đã được xuất bản năm 1966. Mặc dù trong hai cuốn sách không nhắc đến khái niệm về
“chủ nghĩa hậu hiện đại”song cả hai tác giả này đều đề nghị giới trí thức hiện đại phải

có tầm nhìn vượt lên trên thời hiện đại. Năm 1972, những khối nhà cao tầng được xây
dựng từ thập niên 1950 tại thành phố St. Louis, ở bang Misssouri bị giật sập kéo theo
sự phá huỷ các cao ốc có kiến trúc tương tự ở các thành phố khác ở Mỹ, Canada và
Châu Âu trong những năm tiếp theo. Do vậy, năm 1972 đã trở thành mốc thời gian của
sự hình thành chủ nghĩa hậu hiện đại như một trào lưu văn hoá. Cũng từ đó, chủ nghĩa
hậu hiện đại lan rộng ra các nước Châu Âu, châu Úc, châu Mĩ Latinh và các quốc gia
châu Á (điển hình là ở Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc).
Khác với trào lưu trường phái văn học khác, chủ nghĩa hậu hiện đại không có tổ
chức, không có tuyên ngôn. Giới nghiên cứu thừa nhận chủ nghĩa hậu hiện đại xuất
hiện sau chủ nghĩa hiện đại, tương đương với thời hậu hiện đại trong văn chương, là sự
kế thừa và phủ nhận chủ nghĩa hiện đại, bao gồm nhiều khuynh hướng sáng tác như:
kịch phi lý, tiểu thuyết mới, hiện thực huyền ảo và trào lưu hậu hiện đại. Hiểu theo
10


nghĩa hẹp thì chủ nghĩa hậu hiện đại dùng để chỉ trào lưu hậu hiện đại, trào lưu văn
học với các tác giả như: Barthelme, Italo Calvino, Umberto Eco,…Song hiểu như thế
nào thì cũng không thể coi đó là khuynh hướng độc tôn. Chủ nghĩa hậu hiện đại là một
thực thể động, một khuynh hướng mở, tồn tại bên cạnh và chuyển lưu một cách tự
nhiên với các khuynh hướng trào lưu khác.
Thuật ngữ về chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời rất sớm và được làm sáng tỏ về nguồn
gốc. Nhưng đến nay vẫn chưa có một cách trọn vẹn và chính xác về khái niệm “chủ
nghĩa hậu hiện đại”. Đây là một hệ thống mở và không ngừng vận hành trong đời sống
xã hội và văn hoá nghệ thuật. Điều này khiến cho các nhà nghiên cứu có một cách nhìn
nhận riêng về khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại.
Chủ nghĩa hậu hiện đại, tự nó đã là một đề tài hết sức phức tạp, do vậy định nghĩa
một cách đầy đủ về nó quả thật là một công việc rất khó.“Chủ nghĩa hậu hiện đại
(Postmodernism) là một thuật ngữ phức tạp, một tập hợp các tư tưởng, chỉ mới nổi lên
như một khu vực nghiên cứu hàn lâm từ giữa thập niên 1980. Chủ nghĩa hậu hiện đại
rất khó định nghĩa, vì nó là một quan niệm xuất hiện trong bộ môn hay khu vực nghiên

cứu bao gồm nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, phim ảnh, văn học, xã hội, truyền thông,
thời trang và công nghệ. Khó định vị nó về thời gian hay lịch sử, vì không thể biết đích
xác chủ nghĩa bắt đầu khi nào” [1,197].
Theo quan niệm của Hà Minh Đức viết trong cuốn Lý luận văn học thì ông cho
rằng: “Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện đưa ra nhiệm vụ đi tìm bản nguyên của con
người và vũ trụ, đi tìm nền tảng của nhận thức và của cả cách thức tri nhận thế giới,
qua đó hồng cắt nghĩa đâu là tự do, hạnh phúc đích thực của con người. Mục đích tối
hậu của nó một mặt thúc đẩy tri thức nhân loại tiến thêm, dùng khoa học, kỹ thuật làm
nền tảng cho hành động, một mặt khách quan hoá cái nhìn về cuộc đời, giải phóng con
người ra khỏi những định chế đã trở nên lỗi thời, kìm hãm bước tiến của nhân loại”
[6,21]. Cái nhìn mới về chủ nghĩa hậu hiện đại cho ta tìm thấy những cảm quan (hay
còn gọi là tâm thức) mới về con người trong cơ chế xã hội hiện nay.
Theo PGS.TS Lê Huy Bắc thì “Chủ nghĩa hậu hiện đại phã vỡ trung tâm tìm đến
cái phi trung tâm, phá bỏ đại tự sự để tìm đến những tiểu tự sự. Nếu đại tự sự thừa
nhận tính tất nhiên và cho mọi thứ có thể lý giải bằng lý tính thì hậu hiện đại phủ nhận
tất nhiên, bởi xem đó là sản phẩm nguỵ tạo do con người làm ra nhằm mục đích trục
lợi nào đó. Vì vậy, tiểu tự sự tôn sùng tính ngẫu nhiên, đã phá sự sắp xếp theo những
11


định hướng chủ đề nhất định…” [2,22]. Quan niệm của ông là xem chủ nghĩa hậu hiện
đại là một sự phá bỏ cấu trúc truyền thống đi đến lối tư duy mới đó là: tư duy hậu hiện
đại. Đây là một khái niệm mà người viết xem đó là kim chỉ nam để người viết đi sâu
phân tích mạch ngầm trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương.
Có thể nói rằng, có nhiều định nghĩa về chủ nghĩa hậu hiện đại, mỗi một định
nghĩa là một cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Tuy nhiên, nói một cách khái quát
có thể hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại đó là sự phá vỡ các khuôn mẫu đã định hình từ
trước, cố gắng kiếm tìm như một thực tại thuần khiết, tiến tới chấp nhận một thực tại
hỗn tạp, đa chiều về một thế giới đa tầng. Tác phẩm hậu hiện đại là sự kết hợp của các
mảng độc lập tạo nên tính đa âm, có sự phân mảnh và liên văn bản. Đây là những kỹ

thuật phổ biến để các nhà văn hậu hiện đại tạo nên lối trần thuật theo một trật tự thông
thường, chuyện kể đứt mạch, đảo chiều, xé mụn một cách khác thường. Với cảm quan
giải trung tâm thì tiểu thuyết hậu hiện đại càng đào sâu thế giới đa kích của cuộc sống
cũng như tâm hồn con người. Để đi sâu và khám phá những đặc điểm cũng như giải
quyết một cách đầy đủ những vấn đề của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết Ngồi
của Nguyễn Bình Phương thì người viết tập trung những lý thuyết của Lê Huy Bắc và
Hà Minh Đức để đi vào phân tích những đặc điểm và sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu
hiện đại trong tiểu thuyết này.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại
Khác với thời kỳ hiện đại và chủ nghĩa hiện đại thì thời kỳ hậu hiện đại và chủ
nghĩa hậu hiện đại hầu như xuất hiện đồng thời. Tuỳ mức độ và phạm vi ảnh hưởng
của chủ nghĩa hậu hiện đại đến từng quốc gia, từng lĩnh vực mà nó có một cách biểu
hiện khái niệm của chủ nghĩa hậu hiện đại khác nhau. Chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn đang
vận động, không đóng khung, gò bó vào bất cứ một hệ thống hay lý thuyết nào cụ thể.
Tuy nhiên, để mường tượng về một số đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại,
người viết tạm khái quát về những công trình nghiên cứu về hậu hiện đại đã được công
bố trong thời gian gần đây như sau:
Cảm quan hậu hiện đại hay còn gọi là tâm thức hậu hiện đại (Postmodern
sensibility): khái niệm này được Lyotard đề xuất và được các nhà triết học hậu hiện
đại khác hưởng ứng. Theo đó, chủ nghĩa hậu hiện đại không chỉ hiển diện trong văn
học nghệ thuật mà còn có ở trong các ngành khoa học khác. Nhưng trước khi trở thành
một “hệ hình tư duy, một phương pháp khoa học,… (điều mà các triết gia hậu hiện đại
12


không hề muốn) hậu hiện đại trước hết hiện diện trước hết với tư cách là một “tâm
thức”, một “thế giới quan” mới đối với hiện thực” [2,35]. Cảm quan hậu hiện đại
được xem như là một cách cảm nhận thế giới đặc biệt, phản ánh tâm thức (cảm quan)
của thời hiện đại, hậu kỹ nghệ. Đó là cảm giác về một thế giới hỗn độn, nơi mà không
có bất kỳ một tiêu chí nào, thể hiện sự khủng hoảng niềm tin đối với những giá trị đã

tồn tại trước đó. Cảm quan hậu hiện đại biểu hiện rõ nhất trong lĩnh vực lý luận phê
bình, đó là lối viết đặc trưng: “lối viết tiểu luận nhiều ẩn dụ”.
Hiện thực thậm phồn (Hyperraelity) khái niệm triết học này đã tác động trực tiếp
đến mĩ học huyền ảo (magic) và nguyên lý mảnh vỡ trong tự sự.“Hiện thực thậm phồn
(còn được dịch là phi đại) được Jean Baudrillard khởi xướng dùng để chỉ những vật
thể giả tạo (simulacra) đối với hiện thực. Khái niệm này gần giống với quan niệm
“logic văn hoá của chủ nghĩa tư bản hậu lỳ” (cultural logic of late capitalism) của
Fredric Jameson, khi mà nhân loại đang chuyển nhanh từ thời đại công nghiệp sang
kỷ nguyên thông tin (information age). Sự can thiệp của công nghệ thông tin vào đời
sống đã thay đổi toàn bộ bộ mặt kinh tế, giáo dục đến văn hoá nhân loại. Nó tạo nên
một kiểu hiện thực xa lạ, kiểu hiện thực đa chiều kích, có thể mở rộng đến bất kỳ nơi
nào trí tưởng tượng của con người vươn đến” [2,39]. Khi mà những sản phẩm tái tạo
không như thật, thậm chí còn đáng tin cậy và có quyền uy với chúng ta hơn cả những
sản phẩm thật thì nó đang tồn tại trong vương quốc của hiện thực thậm phồn.
“Phủ nhận“đại tự sự” (Grand narrative hoặc Metanarrative) được xem như là
nền tảng của triết học hậu hiện đại, tác động đến mọi phạm vi mĩ học hậu hiện đại như
phi trung tâm, giải “tôi”, “đa điểm nhìn” [2,38]. Lyotard khởi xướng đại tự sự trong
cuốn Hoàn cảnh hậu hiện đại, “đại tự sự” là danh từ mà Lyotard dùng để chỉ những
hệ thống ý thức chủ đạo chi phối hoạt động của con người trong những thời đại khác
nhau. Thời hiện đại với nhiều đại tự sự gò ép con người vào khuôn khổ, không cho
phép tư duy độc lập. Theo Lyotard, cần phải đổ những đại tự mà con người đã “chấp”
vào. Ông phủ nhận triệt để những đại tự sự về tri thức xã hội hậu hiện đại. Bất tín đại
tự sự, Lyotard thiên về những tiểu tự sự (Little narrative) trong đó con người tự tư duy,
tự phản ứng theo cách riêng của mình chứ không gò vào với những quy ước, định đề
có sẵn. Tuy nhiên, đánh đổ đại tự sự của Lyotard lại bị phê phán rằng đó chính là một
đại tự sự, đó cũng là “tính nhị nguyên” của ngôn ngữ, khó giải triệt, trừ khi “bất lập
văn tự”.
13



Liên văn bản (Intertexuality) là thuật ngữ được nhà lý luận của chủ nghĩa hậu
hiện đại do Julia Kristeva đưa ra vào năm 1967, trong tiểu luận Bakhtin, từ đối thoại
và tiểu thuyết.“Mỗi văn bản đều như là tấm vải mới được dệt bằng những trích dẫn
cũ” [1,35]. Và quá trình đọc của tác giả, văn bản và độc giả là “một trường thống
nhất, vô tận cho trò chơi của sự viết” [2,34]. Trong thế giới của văn bản, các văn bản
riêng lẻ có sự tương tác, dẫn dựa lẫn nhau bỡi lẽ tất cả đều là bộ phận của “văn bản
chung” và đồng thời diễn ra sự triệt tiêu giá trị văn bản riêng lẻ. M. Folcault nhận xét
về liên văn bản như sau: “Biên giới của một cuốn sách không bao giờ thực sự rõ ràng:
vượt ra ngoài nhan đề, dòng chữ đầu tiên và dấu chấm cuối cùng, vượt ra ngoài cấu
trúc nội tại và hình thức mang tính tự sự của nó, nó bị bắt quả tang là đang hoà lẫn
vào một hệ thống quy chiếu đến các cuốn sách khác, các văn bản khác, các câu văn
khác, nó chỉ là một cái gút trong mạng lưới lớn. Cuốn sách không phải là vật thể
chúng ta cầm trên tay, sự thống nhất của nó thường biến dạng và rất tương đối”
[2,36]. Vận dụng liên văn bản là một trong những thủ pháp cơ bản của văn bản văn
chương hậu hiện đại. Liên văn bản góp phần tạo nên sự đứt gãy trong mạch tự sự, sự
đảo lộn trật tự thời gian, sự nhoè mờ về ngôi thứ,… và khơi sâu không gian văn hoá,
nới rộng chiều không – thời gian,… của tác phẩm.
Tính nhục thể (Cororality) đây là khái niệm của chủ nghĩa hậu cấu trúc và chủ
nghĩa hậu hiện đại. Nó là hệ quả của tính dục hoá ý thức lý luận và mỹ học phương
Tây và là cơ sở cho việc giải nhân cách hoá chủ đề. Việc đưa ra nguyên tắc nhục thể
kéo theo nó ba khuynh hướng (đúng hơn, nó chỉ đóng vai trò tăng cường thêm ba
khuynh hướng đã bộc lộ từ lâu).“Thứ nhất, hoà tan tính tự trị và uy tín của chủ thể
vào các hành vi nhục cảm, tức là vào các trạng thái ý thức nằm ngoài quyền năng của
ý chí và lý tính. Thứ hai, việc nhấn mạnh các chấn động nhục cảm làm tăng sự chú ý
đến khía cạnh bệnh hoạn của nó. Và cuối cùng tính dục như sự thể hiện tập trung và
rõ ràng nhất của nhục cảm được gần như tất cả các nhà lý luận hậu cấu trúc đặt lên
hàng đầu, lấn át tất cả những hình thức biểu hiện tình cảm còn lại. Về nguyên tắc,
điều này có thể lý giải sự quan tâm của văn học tới vấn đề tình dục. Mặc dù đây là
khái niệm chưa được ấn định về mặt thuật ngữ và đang được các nhà lý luận định
danh một cách khác nhau nhưng người viết đề cấp đến bởi vì nó là một trong những

biểu hiện giải nhân cách hoá của chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó liên quan đến vấn đề
quan trọng của văn chương hậu hiện đại chủ nghĩa: vấn đề tính dục” [1,20]. Đây là
14


đặc điểm quan trọng giúp người viết tiến hành khai thác vấn đề bên trong của tiểu
thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương thể hiện ở tâm thức hậu hiện đại về con người
với bản năng tự nhiên.
Phân mảnh (Fragment) trong một văn bản hậu hiện đại, nhà văn chú ý nhiều đến
tính chất phân mảnh, không cấu trúc, không trung tâm. “Họ phá vỡ văn bản thành
những khoảng trống, những nhan đề, những con số hay biểu tượng, chen lẫn những kí
hiệu, hình vẽ, kiểu chữ một cách lộn xộn, không liên gì đến câu chuyện đang kể”
[1,21]. Để đọc và hiểu được những văn bản tưởng chừng rời rạc không liên quan này,
người đọc phải có một thái độ chủ động trong tiếp nhận và phát huy tối đa khả năng
sáng tạo, tưởng tượng của mình cùng tác giả. Việc phân mảnh đã phá vỡ tính trật tự
của văn bản, tạo nên sự phong phú, độc đáo cho văn chương hậu hiện đại. Đây là đặc
điểm hết sức quan trong để người viết khai thác và làm rõ phần kết cấu của tiểu thuyết
Ngồi của Nguyễn Bình Phương.
Như đã trình bày và khẳng định ở trên thì chủ nghĩa hậu hiện đại không nhóm
họp, không tuyên ngôn, và nó vẫn chưa hoàn tất hành trình của mình. Vì vậy, có
những đặc điểm sẽ mờ đi và có những đặc điểm đậm thêm, cũng có những đặc điểm
mới xuất hiện. Tất cả đều là những nổ lực để dung chứa những “hiện thực thậm
phồn”, diễn đạt cảm quan và mỹ học hậu hiện đại. Không phải tất cả các tác phẩm văn
chương hậu hiện đại đều mang tất cả những đặc tính, đặc điểm đã nêu trên mà để được
xem là một tác phẩm hậu hiện đại thì nó cũng phải mang một số đặc điểm đó.
1.2. Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng trong văn học Việt Nam
Hậu hiện đại là một khuynh hướng nhanh chóng lan tỏa vào mọi lĩnh vực, trong đó
có văn học. Chúng ta có thể hình dung được những đặc trưng phổ quát nhất của chủ
nghĩa hậu hiện đại, tuy nhiên để đưa ra một khái niệm chính xác thì lại rất khó, bởi
chính trong nội tại, hậu hiện đại chối bỏ “đại tự sự”, chối bỏ xây dựng học thuyết, chủ

trương đề cao cái tự nhiên.
Tìm hiểu về một số vấn đề lý thuyết về văn học hậu hiện đại phương Tây, chúng
tôi muốn tiếp cận tới một lý thuyết không quá mới trên thế giới, nhưng còn nhiều bỡ
ngỡ ở Việt Nam, để từ đó tìm ra những đặc trưng cơ bản và tự định hình cho mình
những ý niệm cơ bản nhất về hiện tượng văn học độc đáo này.

15


1.2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau 1986 trong việc tiếp nhận chủ nghĩa hậu
hiện đại.
Cuộc sống luôn vận động và biến đổi không ngừng. Sau năm 1975, bước ra khỏi
những năm tháng chiến tranh gian khổ, cả dân tộc Việt Nam bước vào guồng quay mới
của cuộc sống thời bình. Bước vào cuộc sống mới, tư duy của con người cũng thay
đổi. Cách sống, cách nghĩ không còn đơn giản và bình dị như trước đây. Cuộc đời vì
thế trở nên muôn màu muôn vẻ hơn.
Đặc biệt quá trình toàn cầu hoá đã dẫn đến sự bùng nổ thông tin đây cũng chính
là tiền đề quan trọng cho sự xuất hiện các yếu tố hậu hiện đại trong văn hoá - văn học
Việt Nam. Các trào lưu triết mỹ phương Tây, trong đó có chủ nghĩa hậu hiện đại ồ ạt
xâm nhập vào nước ta một cách nhanh chóng và dễ dàng thông qua hệ thống thông tin.
Mở cửa với tất cả cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn học – đó là
yêu cầu vừa là thực tiễn của nền văn học được dân chủ hoá. Văn chương hậu hiện đại
thế giới được dịch và giới thiệu vào Việt Nam đã tác động tích cực khi đã làm thay đổi
phần nào thị hiếu thẩm mỹ của người đọc, khiến nhà văn buộc phải bắt kịp kinh
nghiệm thẫm mỹ của thời đại mà lúc bấy giờ được coi là tân tiến nhất để đáp ứng được
nhu cầu của những độc giả ngày càng khó tính và có trình độ văn hoá cao. Góp phần
tạo tiền đề cho sự đổi mới văn học là các nhà lý luận phê bình, nhà nghiên cứu. Họ là
những người đã có công trong việc tiếp biến “mã hóa” để các trào lưu vào Việt Nam
một cách rộng rãi. Khi mà luồng văn hóa, văn học phương Tây du nhập vào, họ luôn là
người mở ra những chiều hướng cho văn học phát triển. Họ phải tìm những lối nghiên

cứu mới, họ phải là những nhà chuyên môn, chuyên nghiệp chứ không phải là những
người làm công tác tư tưởng, một ca sĩ trong dàn đồng ca. Trong cuộc hành trình đó,
họ đã trang bị cho mình, tìm cho mình một lối đi. Sẽ là không quá khi nói rằng nếu
thiếu đi sự nghiêm túc của các nhà nghiên cứu thì nền văn học sẽ không phát triển
được. Ở Việt Nam, đội ngũ phê bình, lí luận, dịch thuật còn khiêm tốn, tuy nhiên
không vì thế mà làm mất đi tính hiệu quả trong văn chương nghệ thuật. Các lí thuyết
hậu hiện đại thường xuyên được giới thiệu, có thể kể đến các tác giả như Phương Lựu,
Nguyễn Văn Dân, Đỗ Đức Hiểu, Trương Đăng Dung, Đỗ Lai Thúy…đó là những cây
bút phê bình lý luận, dịch thuật sắc sảo, đưa ra ý kiến tạo tiền đề cho sự đổi mới. Họ đã
tìm tòi những con đường đi mới, thoát khỏi những lối mà người trước đã đi. Dấu hiệu
này cho thấy nghiên cứu văn học Việt Nam đang có những dịch chuyển tích cực. Văn
16


chương hậu hiện đại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển hơn nữa, hội nhập với nền văn
chương thế giới.
1.2.2. Ảnh hưởng chủ nghĩa hậu hiện đại trong đời sống văn chương Việt
Nam đương đại
Cái “hậu hiện đại” nổi bật nhất trong đây chính là “cảm quan hậu hiện đại”.
Thời đại lịch sử - xã hội cụ thể hiển nhiên sẽ làm nảy sinh trong nó những kiểu tâm
trạng xã hội tương ứng. Vậy, cái gì là “cảm quan hậu hiện đại”? Có thể nói vắn tắt, đó
là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện trạng thái tinh thần của thời đại: nhận
thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, tính áp đặt của cái chính thống, của các phát
ngôn lớn, sự đảo lộn trong các thang bảng giá trị đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc
loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và tình trạng bất an của con người... Đấy là
tinh thần chung nhất. Còn sự thể hiện chúng trong văn chương lại khá đa dạng, phức
tạp. Có thể lấy một ít ví dụ trong văn xuôi ở ta gần đây. Chẳng hạn, ở truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp đó là những câu chuyện về sự vô nghĩa của cuộc đời, sự bê tha
nhếch nhác của con người, sự bơ vơ lạc loài của cái đẹp. Ở Phạm Thị Hoài, là câu
chuyện về một thế giới vô hồn rất ít sự gần gũi mang tính người, về những cuộc chia

tay. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ám ảnh bởi sự khủng hoảng niềm tin của con
người, của nhà văn vào con người và cuộc đời, sự đổ vỡ của những trật tự đời sống xã
hội và gia đình, sự ngắc ngoải ngưng đọng của đời sống, sự đánh mất bản ngã, phương
hướng, sự băng hoại đạo đức, sự đau đớn bơ vơ, tình trạng bất an của con người. Tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà thể hiện cái nhìn về một đời sống hỗn loạn, đổ vỡ. Văn chương
Tạ Duy Anh là nỗi khắc khoải đi tìm bản ngã, tìm một giá trị thật sự nhân bản trên cái
đời sống đổ nát, điêu tàn, là sự loay hoay lý giải, hoá giải những nỗi đoạ đầy con
người từ tiền kiếp. Nhìn đời sống như những mảnh vỡ, tiểu thuyết Hồ Anh Thái thể
hiện tinh tế những nỗi hoang mang về con người...
Nhà văn hậu hiện đại, phải chăng đang tuyên dương cho một thứ chủ nghĩa hư
vô? Không phải vậy. Tôi cho rằng trách nhiệm công dân của họ vẫn rất cao, song họ
cảm thấy rất rõ “sự bất lực” của mình. Văn chương hậu hiện đại hình như còn có xu
hướng khước từ những sứ mệnh cao cả mà lịch sử từng đặt lên vai nó. Nhà văn, không
dám đứng giữa trận đồ bát quái của cuộc đời để tuyên ngôn nữa. Viết, với họ giờ như
một nghiệp chướng, hay chỉ là một cuộc chơi ngôn từ thôi. Chưa bao giờ như lúc này,
văn chương nói nhiều đến thế về giới hạn của văn chương. Nó oằn mình đau đớn. Nó
17


mong manh, nhỏ bé. Như kiếp hoa dại. Nếu thuật ngữ “cảm quan hậu hiện đại” được
xác nhận thì tôi gọi đây là biểu hiện của kiểu cảm quan đặc thù ấy.
Để chuyên chở, thể hiện thái độ hậu hiện đại, phải có những hình thức nghệ thuật
đặc thù. Tôi chỉ nói ở phương diện chung nhất: hình thức của cái nhìn – hình thức thế
giới quan như một dấu hiệu quan trọng của tư duy hậu hiện đại. Đó là những chuyển
động trong mô hình truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp như một nguyên tắc cấu trúc để
thể hiện câu chuyện tâm thức thời đại: sự đa dạng và dịch chuyển liên tục của các điểm
nhìn nghệ thuật; không có nhân vật trung tâm, lý tưởng; sự vặn gẫy vai nhân vật và vai
tính cách trong hình tượng; vô số các hình tượng nhại; nhiều kết thúc; có thể “tháo
dỡ” được; sự chuyển dịch, pha trộn làm đứt gẫy những giới hạn thể loại truyền thống;
một cuộc “chơi” thể loại, kiểu truyện ngắn - tư liệu, truyện ngắn - nhật ký, truyện

ngắn - dòng chảy ý thức, truyện ngắn - chân dung.
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương luôn luôn có nhiều tuyến chạy ngược - xuôi
theo lối kết cấu song hành xoắn vặn, dung chứa ngồn ngộn những hỗn tạp, khốc liệt,
đau đớn của cuộc đời, nhiều khi nó bơ vơ chẳng gặp nhau như kiếp người chẳng thể
gặp nhau; nhiều tuyến truyện, nhiều nhân vật bị cố ý bỏ quên; rồi lối kể nhảy cóc; sự
sáng tạo các điểm nhìn dị biệt; sự dung hợp nhiều thủ pháp hội hoạ, âm nhạc và điện
ảnh; sự làm nhoà cái tinh tuyển và cái bình dân trong ngôn ngữ tiểu thuyết bởi những
thanh âm trong trẻo và cả những tạp âm; sự “vênh lệch”, phi lý trong đối thoại; hiện
tượng “dìm” nhân vật trong bể ngôn từ, như nhân vật bị chìm lỉm đi, vô tăm tích giữa
cuộc đời. Đọc Nguyễn Việt Hà, thấy tác giả hầu như rất hạn chế việc phân tích nhân
vật bằng tài hiểu tâm lý của mình. Điểm nhìn và ngôi kể liên tục được dịch chuyển,
thay đổi.
Các nhân vật chính ở đây dường như đều có khả năng thế chỗ nhà văn trong việc
kể chuyện. Mỗi cá nhân như một “nguyên tử” được đặt ở vô số các giao điểm. Nó tự
kể chuyện mình, kể về cái nhìn của mình với người khác. Hiện thực là những diện mạo
khác nhau tuỳ vào cách người ta suy cảm về nó. Một sự kiện lại có thể được nhìn từ
nhiều phía, với những thời điểm trần thuật không trùng nhau. Rồi lối truyện của nhiều
chuyện, văn bản của nhiều văn bản, tính phân mảnh của chủ thể, trần thuật phi trung
tâm, cố ý lộ rõ sự can thiệp của tác giả vào câu chuyện, biến tiểu thuyết thành một trò
chơi ngôn từ, một sự thăm dò, thử nghiệm của nghệ thuật... Rồi chất hài hước, nghịch
dị và nhại được sử dụng như một nguyên tắc tổ chức tác phẩm. Nó không chỉ là thủ
18


pháp, mà trở thành hình thức của cái nhìn. Chống lại sự đơn điệu, nhại trong tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà, cái hài, cái nghịch dị trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái... vừa “lột
tả” được một phần bản chất có thật của đối tượng, vừa dung hợp được cái bác học của
suy tư, cái suồng sã của văn hoá bình dân, sức mạnh vô địch của trào tiếu dân gian. Và
với lối tự nhại, văn chương chẳng những là sự hoài nghi về các trật tự đời sống mà còn
là sự nghi ngờ chính những khả năng, sứ mệnh mà người ta thường đặt ra cho nó.

Tôi cho rằng, có nhiều hướng cách tân văn học mà “hậu hiện đại” chỉ là một. Ở
ta, đường hướng này lại không tách bạch. Nó vừa là sự tiếp thu văn học nước ngoài,
vừa là sự khơi dậy những ngọn nguồn, những “mẫu” có từ truyền thống. Thậm chí, nó
đi cùng với quá trình hiện đại hoá hình thức - một quá trình ít nhiều bị đứt mạch bởi
giai đoạn “văn học sử thi”. Không nên dè dặt với cái mới, với cả cái mới chưa hay.
Tôi cho rằng việc phát triển văn chương theo khuynh hướng hậu hiện đại là một xu
hướng cần được cổ vũ. Đấy không phải là sự sao chép, cóp nhặt, lai ghép tuỳ tiện, mà
là sự thay đổi của hệ hình tư duy, và trên hết, là đòi hỏi tất yếu của lịch sử - xã hội và
bản thân văn học. Có thể gọi được chăng, đây là khuynh hướng phát triển văn chương
theo hướng hoà nhập với tiến trình văn học thế giới, bên cạnh các khuynh hướng tìm
tòi thử nghiệm khác của nền văn học Việt Nam sau 1986 nhiều màu vẻ. Đối với văn
xuôi thì như trên, còn trong địa hạt thơ, theo nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn, đã có
một “thái độ hậu hiện đại” ngay từ Bùi Giáng khi “nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình
bằng thứ ngôn ngữ như đùa giỡn: vừa chân thành vừa bày tỏ tình cảm của mình, lại
vừa như muốn châm biếm chính cách bày tỏ ấy”[39] .
Quá trình hiện đại hóa thơ Việt với trọng tâm là đổi mới tư duy dẫn đến đổi mới
cái nhìn đời sống, trong ứng xử và trong quan niệm nghệ thuật. Hành trình sáng tạo
với những tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Quang Thiều, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu
Hồng Minh, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, nhóm thơ Mở miệng… đã bắt đầu mang
những yếu tố của hậu hiện đại. Điểm chung tư duy hậu hiện đại của các tác giả này là
ý thức chống lại truyền thống duy cảm trong thơ bằng cách gia tăng chất suy tư, đậm
chất lí tính. Sáng tác của các nhà thơ trẻ đã góp phần đưa thơ ca Việt Nam đương đại
chuyển mình trên một hệ hình tư duy mới của văn chương hậu hiện đại. Trong thơ,
cảm thức hậu hiện đại khó xác nhận hơn trong văn bản hình tượng, song lại thể hiện
đậm nét qua thái độ của nhà thơ với thơ và cách hành ngôn thơ. Theo người viết,
người làm thơ theo khuynh hướng hậu hiện đại ở nước ta quan tâm nhiều đến việc làm
19


mới chữ, mới âm, đến tính chất diễn trò của ngôn từ. Bởi đây không phải là đối tượng

nghiên cứu của khoá luận nên người viết chỉ đề cập đến hậu hiện đại trong thơ ca như
một thành tố của dòng chảy văn học Việt Nam đương đại mà thôi.
1.3. Hành trình sáng tạo của Nguyễn Bình Phương
1.3.1. Nguyễn Bình Phương – một quan niệm mới về văn chương
Đi vào tác phẩm của Nguyễn Bình Phương ta nhận thấy một lối viết rất riêng
biệt, mới mẻ từ cách nhìn hiện thực, tiếp cận nhân vật, sáng tạo cốt truyện, xây dựng
không gian thời gian cho đến sử dụng ngôn từ…
Nguyễn Bình Phương thường hướng ngòi bút vào những mảnh vỡ hiện thực,
những “tiểu tự sự” của cuộc sống hiện đại. Nếu như đích đến của các cây bút trước
1975 là những “đại tự sự”, những sự kiện lịch sử, chính trị lớn lao bao quát toàn bộ
đời sống con người thì đích đến của ngòi bút Nguyễn Bình Phương lại là hiện thực
phân mảnh, hiện thực bị xé lẻ, phân tách (và vì thế nhiều khi ta không biết bắt đầu tóm
tắt tác phẩm của anh từ đâu), Nguyễn Bình Phương không vuốt ve hiện thực, cũng
không ảo tưởng về nó. Ngòi bút của anh không ưa những “đại tự sự”. Trong tác phẩm
của anh ta thấy không còn tồn tại những bức tranh hiện thực lớn lao, những hình tượng
kỳ vĩ. Tác phẩm của anh có khi chỉ đơn giản là giấc mơ của một kẻ điên loạn, hình ảnh
của một con cú trôi dọc triền sông (Thoạt kỳ thuỷ), lễ gọi hồn người chết ("Chị em
Nhiêu, Quỳnh nọ Quỳnh kia và con mèo tam thể"), những kẻ đi tìm kho báu (Những
đứa trẻ chết già), sự suy tàn của trí nhớ (Trí nhớ suy tàn). Rất nhiều hiện thực đời sống
được đan chéo, gài lồng, móc nối trong một dung lượng câu chữ hạn hẹp (Thoạt kỳ
thuỷ: 167 trang, Trí nhớ suy tàn: 133 trang, Những đứa trẻ chết già: 311 trang). Ở "Chị
em Nhiêu, Quỳnh nọ Quỳnh kia và con mèo tam thể", ngòi bút Nguyễn Bình Phương
đã xoá sạch những "đại tự sự". Câu chuyện gọi hồn là tiêu điểm của tác phẩm. Tác
phẩm mở đầu và kết thúc lửng lơ, mờ ảo, hư hoặc (mặc dù có sự xuất hiện của nhân
vật, có lai lịch, có những cái chết, có công an điều tra...). Tác phẩm khiến người đọc
suy ngẫm và thảng thốt mãi vì không thể phân định đâu là thực đâu là hư, đâu là
nguyên nhân của hàng loạt cái chết trong tác phẩm. Trong Trí nhớ suy tàn, tác giả lại
xây dựng cho mỗi nhân vật một mảng hiện thực riêng biệt. Mỗi nhân vật tự đóng
khung trong thế giới của mình. Có tới trên 20 nhân vật được khắc hoạ trong tác phẩm
nhưng hình như họ không có liên hệ với nhau. Ta như bước vào thể giới không hình

người (mặc dù có đám đông), bước vào những trang văn không nhân vật (mặc dù có
20


trên 20 cái tên được nhắc đến). Tác giả tái hiện thực tại thông qua cái nhìn của Huyền.
Nhưng cái nhìn của cô mờ nhạt, xa xôi, nhoè nhoẹt, vì cô đã đánh mất mọi ý niệm về
đời sống, thời gian, không gian, tình yêu, tình dục. Cuối cùng cô đã tự mình cởi trói
thoát khỏi sự ràng buộc, chỉ có một ám ảnh vẫn theo đuổi “Trí nhớ đang suy tàn ghê
gớm”. Bước vào thế giới của Những đứa trẻ chết già ta thấy hiện thực chỉ còn là
những biến cố xung quanh một cái làng nhỏ bé - làng Linh Nham. Ở đó các nhân vật
mê mải, quay cuồng trong cuộc hành trình đi tìm kho báu. Khi họ ngộ ra nhiều điều
cũng là lúc họ hoang mang tột cùng trước thế giới đổ nát, hoang tàn. Tất cả các mối
quan hệ không tìm thấy sự móc nối: Tiến quắt chết; Hương đớn đau thắt ruột; Ông
Trình chới với hoảng loạn; Quý cụt ra đi; Loan day dứt; ông Liêm bàng hoàng; còn
Hải thì im lìm, câm lặng.
Đan xen hiện thực và ảo huyền, khai thác điểm nhìn con người từ góc nhìn vô
thức, các nhà tiểu thuyết ngắn, trong đó có Nguyễn Bình Phương, đã góp phần thay
đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong nền văn học đương đại Việt Nam. Con
người được nhìn nhận không phải như những điển hình (cách nhìn con người phổ biến
trong văn học thời kỳ 1945-1975), không phải ở những gì biểu hiện ra bề ngoài mà cả
trong những thầm kín, bí mật, riêng tư. Tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, ở góc độ
này, không thể không nói là có sự ảnh hưởng thuyết Phân tâm học của S.Freud. Phân
tâm học khẳng định vai trò độc lập của vô thức, phủ nhận phần ý thức tuyệt đối của
con người trong triết học truyền thống, từ Platon đến Descartes. Theo S. Freud, cái vô
thức mới chính là bộ mặt của con người, là một cái tôi đích thực, chi phối mọi hoạt
động của con người. Với vô thức, ước muốn làm chủ bản thân của con người chỉ là ảo
vọng. Khơi sâu vào phần vô thức chìm khuất trong mỗi con người, nhân vật của
Nguyễn Bình Phương có thể chưa thực sự gần gũi với bạn đọc nhưng sức ám ảnh của
nó cũng chính là sức hấp dẫn, giá trị của tiểu thuyết.
Thoạt kỳ thủy thực sự là cuộc “giao lưu trong vô thức” (Đoàn Cầm Thi).

Với Thoạt kỳ thủy, Nguyễn Bình Phương đã đẩy cuộc thăm dò vô thức đi xa nhất trong
số các nhà văn đương đại (ý của Đoàn Cầm Thi).
Sau Thoạt kỳ thủy, năm 2006 tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Bình Phương
được xuất bản, tác phẩm Ngồi. Ngoài cấu trúc, cốt truyện, ngôn từ… với rất nhiều mới
lạ, Ngồi gây ấn tượng nhất ở sự đan xen ảo và thực, đến nỗi khó phân biệt đâu là thực,
đâu là ảo. Bút pháp huyền ảo thể hiện ngay từ đầu tác phẩm với khung cảnh huyễn
21


×