Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Biện pháp ngăn chặn tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.71 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ GÁI

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
CÔNG AN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ GÁI

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
CÔNG AN TỈNH ĐẮK LẮK
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ NGUYÊN THANH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu
và kết quả trong luận văn hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa được
công bố trong bất kì công trình nào khác, các trích dẫn trong luận văn đều rõ
nguồn gốc.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN

DƯƠNG THỊ GÁI


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TẠM GIỮ ......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm biện pháp ngăn chặn tạm giữ ......................... 7
1.2. Cơ sở của việc quy định biện pháp ngăn chặn tạm giữ ...................... 15
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG TỪ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CÔNG AN TỈNH ĐẮK
LẮK ................................................................................................................ 28
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp ngăn
chặn tạm giữ .................................................................................................. 28
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện

hành về biện pháp tạm giữ tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh
Đắk Lắk .......................................................................................................... 46
Chương 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN TẠM GIỮ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .. 58
3.1. Một số định hướng cho các giải pháp................................................... 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ
trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam thực tiễn từ Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk .................................................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

BPNC

: Biện pháp ngăn chặn

BPTG

: Biện pháp tạm giữ


CQCSĐT

: Cơ quan Cảnh sát điều tra

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

TTHS

: Tố tụng hình sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng số liệu 2.1. Thống kê tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .... 47
Bảng số liệu 2.2. Thống kê tình hình áp dụng BPNC tạm giữ trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk ........................................................................................................... 50
Bảng số liệu 2.3. Thống kê tình hình tạm giữ trên toàn tỉnh so với tổng số tạm
giữ được giải quyết.......................................................................................... 51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp ngăn chặn (BPNC) nói chung, biện pháp tạm giữ (BPTG)
nói riêng là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS).
Việc áp dụng BPTG không chỉ là hoạt động rất quan trọng trong quá trình
TTHS mà nó còn động chạm trực tiếp đến các quyền và tự do cơ bản của
công dân được quy định trong Hiến pháp, pháp luật. Thực tế cho thấy, việc áp
dụng BPNC, trong đó có BPTG đúng sẽ có tác dụng đảm bảo quá trình TTHS
được khách quan, góp phần phòng, chống tội phạm, giải quyết có hiệu quả
các vụ án hình sự. Ngược lại, việc áp dụng BPTG không đúng để xảy ra sai
sót trong quá trình áp dụng dẫn đến trường hợp vi phạm pháp luật, xâm phạm
các quyền và tự do của công dân, gây khó khăn, phức tạp cho việc giải quyết
vụ án hình sự, dẫn đến hậu quả xấu như để lọt tội phạm, làm oan người vô tội,
ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, trong đó có Cơ quan điều tra (CQĐT).
Qua việc áp dụng BPTG đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi
khoa học luật TTHS phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về
mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng của biện pháp này như: khái niệm, căn
cứ, mục đích, đối tượng, thẩm quyền, ý nghĩa...

Trong thời gian qua, việc áp dụng BPNC nói chung và BPTG nói riêng
đã giải quyết được nhiều vụ án hình sự, góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trong cả nước. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn về
BPTG từ thực tiễn của CQCSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk nhằm đánh giá những
mặt tích cực, hạn chế, xác định những nguyên nhân, tồn tại của chúng, trên cơ
sở đó đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về BPTG,
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong tình hình hiện nay là
yêu cầu có tính cấp thiết.

1


Với lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Biện pháp ngăn chặn tạm giữ theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an tỉnh Đắk Lắk” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cao học luật
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề BPNC trong TTHS cho đến nay được nhiều nhà khoa học và
thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Do vậy, đã có một số công trình nghiên cứu
được công bố về chủ đề này như.
- Nhóm các tài liệu khoa học cơ sở: Giáo trình Luật tố tụng hình sự của
PGS. TS Trần Văn Độ (Nxb Giáo dục Việt Nam, năm 2011), Bình luận khoa
học Bộ luật Tố tụng hình sự của GS.TS Võ Khánh Vinh (Nxb Công an nhân
dân, năm 2006), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 của
PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (Nxb, Chính trị Quốc gia, năm
2009)… ở một chừng mực nhất định cũng đã đề cập đến các BPNC, trong đó
có BPTG.
- Nhóm các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu: Sách chuyên khảo“chế
định các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng Phúc (Nxb Chính
trị Quốc gia, năm 2015); “Quyền tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố

tụng hình sự” (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2005); và cuốn “Bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”
của TS. Trần Quang Tiệp (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009); “Các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn”
của tác giả Nguyễn Duy Thuân (Nxb Công an nhân dân, năm 1999); thạc sĩ
Phạm Thanh Bình và TS. Nguyễn Vạn Nguyên có công trình "Những điều
cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp luật'' (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1993)...

2


Bên cạnh đó, còn có một số bài báo khoa học đề cập riêng đến BPTG
được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Một số vấn đề về biện
pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Cừ; bài “Về
biện pháp tạm giữ trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Vũ Gia Lâm; bài
“Tạm giữ - một biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Mai Bộ; bài “Một số vấn đề về quy định tạm giữ trong Bộ luật tố
tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Điệp; bài “Về biện pháp ngăn chặn
tạm giữ, tạm giam” của tác giả Nguyễn Trọng Phúc…
Các công trình nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về các
BPNC, trong đó có BPTG. Các công trình chỉ đánh giá về mặt lý luận của
BPTG qua các thời kì khác nhau như: khái niệm, căn cứ, đối tượng, thẩm
quyền…cũng như chỉ đánh giá thực trạng chung chung của việc áp dụng
BPNC và BPTG, chưa có một công trình nào nghiên cứu riêng về “Biện pháp
ngăn chặn tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk”. Điều đó cho phép khẳng
định, học viên nghiên cứu đề tài này không trùng với bất cứ công trình nào đã
được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận những quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam về BPTG; đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp
này từ CQCSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk, luận văn hướng tới mục đích góp
phần hoàn thiện hơn hệ thống lý luận liên quan đến BPTG, làm cơ sở cho việc
áp dụng BPTG được đúng đắn, góp phần giải quyết vụ án hình sự được thuận
lợi, đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con
người trong TTHS.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
+ Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BPTG.
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về
BPTG.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng BPTG tại CQCSĐT Công an
tỉnh Đắk Lắk.
+ Xây dựng các giải pháp đảm bảo việc áp dụng đúng quy định của
pháp luật về BPTG.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định
của pháp luật TTHS và thực tiễn áp dụng BPTG.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu BPTG theo pháp luật TTHS
Việt Nam dưới góc độ Luật TTHS, không đề cập đến chế độ giam giữ được
quy định trong Luật Thi hành tạm giam, tạm giữ năm 2015.

- Về không gian, thời gian nghiên cứu: tập trung khảo sát, đánh giá
thực trạng áp dụng BPTG tại CQCSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk, thời gian từ
năm 2013 đến 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, về cải cách tư pháp, bảo
đảm quyền con người trong giai đoạn hiện nay.

4


5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để hoàn thiện luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm
làm rõ những vấn đề lý luận, vấn đề pháp lý của BPTG trong lịch sử lập pháp
và pháp luật TTHS hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: thống kê (có số liệu thống kê về
tình hình áp dụng BPTG).
- Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình hình.
Các phương pháp này làm rõ một phần thực tiễn áp dụng BPTG với
những kết quả và hạn chế của nó, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng của BPTG.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận
về BPNC tạm giữ trong TTHS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Các giải pháp được xây dựng trong luận văn có thể áp dụng: trong
thực tiễn để bảo đảm việc áp dụng BPTG đúng pháp luật, góp phần củng cố,
tăng cường pháp chế XHCN và bảo vệ quyền con người.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu ở
các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cơ cấu thành 3 chương
Chương 1. Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn tạm giữ.

5


Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp ngăn chặn tạm giữ và thực trạng áp dụng từ Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3. Một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định pháp luật về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong tố tụng hình sự
Việt Nam.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ
1.1. Khái niệm và đặc điểm biện pháp ngăn chặn tạm giữ
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giữ
Tạm giữ là một trong những BPNC được quy định trong BLTTHS. Tuy
nhiên, trong cả ba BLTTHS Việt Nam từ BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm
2003 đến BLTTHS năm 2015 đều không có một quy phạm nào quy định khái

niệm pháp lý về BPTG.
Trong khoa học luật TTHS, có một số quan điểm khác nhau về khái
niệm tạm giữ.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam. Tạm giữ được
hiểu như sau “Tạm giữ là một BPNC trong TTHS do người có thẩm quyền áp
dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy
nã bằng cách đưa người đó vào trại tạm giam, nhà tạm giữ trong một thời
hạn do luật định để tiến hành điều tra, quyết định biện pháp giải quyết tiếp
theo” [11, tr.1052].
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tạm giữ là BPNC do cơ quan tiến hành
tố tụng có thẩm quyền quyết định tước tự do thân thể trong thời hạn nhất định
đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang nhằm
bảo đảm cho CQĐT có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để
có cơ sở quyết định khởi tố bị can, tạm giam hoặc trả tự do người bị bắt” [25,
tr. 214].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tạm giữ là BPNC trong TTHS thể hiện
việc người hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định tước tự do với thời gian
ngắn đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trong trường hợp phạm
tội quả tang hoặc người có lệnh truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, xác minh
7


để quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự (khởi tố bị can) đối với họ”
[48, tr. 241-244].
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Tạm giữ là BPNC trong TTHS do người
có thẩm quyền của CQĐT và các cơ quan khác do pháp luật quy định áp
dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể trong thời hạn ngắn đối với người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú,
đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã, nhằm ngăn chặn

tội phạm, hành vi cản trở hoạt động điều tra của người bị tạm giữ, bảo đảm
cho CQĐT có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để trên cơ
sở đó đưa ra các quyết định tố tụng như khởi tố bị can, tạm giam, áp dụng
BPNC khác hoặc trả tự do cho họ” [50, tr.117-118].
Có thể thấy các quan điểm nói trên đều có hạt nhân hợp lý. Song, Quan
điểm theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam đã nêu được chủ
thể có thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng nhưng chưa nêu được mục
đích cụ thể của việc áp dụng BPTG. Quan điểm thứ nhất, chỉ nêu được mục
đích của việc áp dụng BPTG chưa nêu được đầy đủ chủ thể và đối tượng áp
dụng của BPTG; quan điểm thứ hai, đã nêu được chủ thể áp dụng BPTG
nhưng lại không nêu được đầy đủ đối tượng áp dụng cụ thể là người phạm tội
“đầu thú” hoặc “tự thú”; Quan điểm thứ ba, đã nêu được chính xác bản chất
pháp lý, chủ thể áp dụng, đối tượng bị áp dụng và mục đích áp dụng. Tuy
nhiên, những quan điểm này vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Cụ
thể: quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai cho rằng BPTG “tước tự do
thân thể” hoặc “tạm thời tước tự do” đối với người bị áp dụng là chưa thật sự
chính xác. Một là, việc quyết định tước tự do theo BLTTHS năm 1988 sửa
đổi, bổ sung năm 1990, 1992, 2000 và BLTTHS năm 2003 chỉ thuộc thẩm
quyền của Tòa án và được thể hiện trong bản án nhân danh nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, còn CQĐT, VKS không có quyền này. Hai là,

8


BPTG được thực hiện tại nhà tạm giữ cho nên đối tượng sẽ bị cách ly tạm
thời ra khỏi cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định. Khi đó, quyền
tự do của họ bị hạn chế, nhất là quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm
về thân thể… Ba là, tạm giữ là BPNC trong TTHS không phải là hình phạt,
cho nên sẽ không hợp lý nếu cho rằng, BPTG tước tự do thân thể hoặc tạm
thời tước tự do đối với người bị áp dụng. Chỉ có quan điểm thứ tư là xác định

chính xác bản chất pháp lý của BPTG là biện pháp cưỡng chế trong TTHS thể
hiện ở việc tạm thời hạn chế quyền tự do thân thể của người bị áp dụng. Song
do căn cứ vào quy định của BLTTHS năm 2003, nên quan điểm thứ ba vẫn
xác định một trong những đối tượng bị áp dụng BPTG là “người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp”. Hiện nay theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì
người bị áp dụng BPTG là “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” [36,
tr.110].
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm trên, đồng thời trên
cơ sở quy định của BLTTHS năm 2015, tôi xin đưa ra khái niệm về BPTG
được hiểu như sau“Tạm giữ là BPNC trong TTHS do người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng theo quy định của BLTTHS áp dụng đối với người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy
nã bằng việc buộc người đó vào cơ sở giam giữ trong thời hạn do BLTTHS
quy định, nhằm ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử”.
1.1.2. Đặc điểm của Biện pháp ngăn chặn tạm giữ
Thứ nhất, tạm giữ là một BPNC trong hệ thống các BPNC được quy
định trong pháp luật TTHS Việt Nam.
Trải qua các thời kì khác nhau mà pháp luật TTHS Việt Nam có những
quy định khác nhau về BPNC tạm giữ. Ngay từ khi có BLTTHS năm 1988,

9


BLTTHS đầu tiên của Việt Nam ra đời đã quy định tạm giữ là một trong các
BPNC nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện cho Cơ quan THTT
trong việc điều tra, xử lý tội phạm cũng như người phạm tội.
Tại Điều 61 BLTTHS năm 1988 đã quy định.
“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị

cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án thì CQĐT, VKS hoặc Toà án có
thể áp dụng một trong những BPNC sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.
BLTTHS năm 1988 có ý nghĩa lập pháp quan trọng khi đánh dấu mức
độ pháp điển đối với pháp luật TTHS bằng hệ thống các BPNC độc lập trong
đó có BPNC tạm giữ, thể hiện thái độ cương quyết phòng ngừa và đấu tranh
phòng chống tội phạm bằng sức mạnh của Nhà nước và xã hội. Song, trải qua
hơn 15 năm áp dụng (1989 - 2003) BLTTHS năm 1988 qua các lần sửa đổi,
bổ sung năm 1990, 1992, 2000 đã bộc lộ những hạn chế như: về đối tượng áp
dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng… nhằm khắc phục những thiếu
sót trên, ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 đã
thông qua BLTTHS năm 2003.
Ngay tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 quy định.
“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị
cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, CQĐT, VKS, Toà án trong phạm
vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của
Bộ luật này có thể áp dụng một trong những BPNC sau đây: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm”.
Đến BLTTHS năm 2015 được quy định tại Điều 109 cụ thể.

10


“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị
buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp

giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt
tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”.
Như vậy, trải qua các thời kì khác nhau, BPTG đều được quy định
trong các văn bản pháp lí quan trọng của Nhà nước. BPTG là một trong
những BPNC trong TTHS nên sẽ mang những đặc điểm chung của một
BPNC đó là nó sẽ có tính cưỡng chế đối với người bị áp dụng, do những
người có thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền áp dụng với căn cứ nhất định,
khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân,
hạn chế tự do thân thể trong thời hạn nhất định đối với người bị bắt (giữ)
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú,
đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
Thứ hai, BPTG có tính cưỡng chế nghiêm khắc đối với người bị áp
dụng.
Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của
luật TTHS. Đó là những quan hệ luôn có một bên là cơ quan Nhà nước được
trao quyền có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt
khác tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà
hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng,
do vậy trong TTHS các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các BPNC
đối với một số đối tượng nhất định. Các BPNC sẽ mang tính cưỡng chế đối
với người bị áp dụng, trong đó có BPTG.
Tạm giữ là BPNC do những người có thẩm quyền quyết định, hạn chế
thân thể trong thời hạn nhất định đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn

11


cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt
theo quyết định truy nã nhằm bảo đảm cho cơ quan có thẩm quyền có điều
kiện lấy lời khai và xác minh lý lịch nhân thân cũng như các tình tiết khác có

liên quan đến vụ án, để có cơ sở ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng BPNC
khác hoặc trả tự do cho người bị bắt. So với các BPNC khác, BPTG có tính
chất tương đối nghiêm khắc.
Những đối tượng bị áp dụng biện pháp này buộc phải chấp hành chế độ
tạm giữ tại Nhà tạm giữ hoặc Buồng tạm giữ với những hạn chế nhất định về
quyền tự do đi lại, tự do thân thể, phải chịu sự giám sát của cán bộ quản lý
Nhà tạm giữ, Buồng tạm giữ mọi sự liên hệ với gia đình đều phải tuân theo
Quy chế về chế độ độ tạm giữ, tạm giam được ban hành kèm theo Nghị định
số 89/1998/NĐ - CP ngày 07-11-1998 của Chính phủ được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định số 98/2002/NĐ - CP ngày 27-11-2002 của Chính phủ [2, tr
169 - 170].
Thứ ba, về căn cứ, đối tượng, thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giữ
- Về căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ
BLTTHS năm 1988 cũng như BLTTHS năm 2003 hiện hành không
quy định căn cứ để áp dụng BPTG. Do vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về
vấn đề này, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng:“… có thể hiểu những căn cứ được áp
dụng để bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ” [44, tr.112].
Quan điểm này không vững chắc, bởi luật thực định hoàn toàn không đề cập
đến căn cứ áp dụng BPTG. Trong BLTTHS năm 2015 tuy có quy định các
căn cứ để giữ người trong trường hợp khẩn cấp, nhưng đây không phải là căn
cứ để áp dụng BPTG mà là căn cứ để áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp với tư cách là một BPNC độc lập với BPTG.

12


Quan điểm khác thì cho rằng: “Điều luật không đề cập căn cứ của
BPTG, nhưng thực tế cho thấy trong thời gian tạm giữ, CQĐT tiến hành các

hoạt động làm rõ hành vi đó là tội phạm hay không để xác định căn cứ, cơ sở
truy cứu trách nhiệm hình sự và xác minh lai lịch, cũng như thân nhân của
đối tượng” [27, tr. 54]. Theo tôi, nếu coi hai vấn đề nêu trên là những căn cứ
áp dụng BPTG có lẽ chưa thật sự chính xác vì đây là mục đích áp dụng
BPTG. Cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG trong một thời hạn
nhất định là để có thời gian tiến hành điều tra ban đầu, thu thập tài liệu, chứng
cứ làm căn cứ khởi tố bị can hay trả tự do cho người bị tạm giữ.
Vấn đề đặt ra là cái gì là căn cứ để áp dụng BPTG? Theo Đại từ điển
tiếng Việt, thuật ngữ “căn cứ” được giải thích là “cái làm cơ sở để lập luận,
để hành động” [51, tr. 269]. Như vậy có thể hiểu căn cứ áp dụng BPTG là cái
mà cơ quan có thẩm quyền lập luật, quyết định áp dụng BPTG. Thực tế cho
thấy, cái mà cơ quan có thẩm quyền dựa vào đó để lập luận, để quyết định áp
dụng BPTG là những tài liệu, chứng cứ chứng minh đối tượng có khả năng
trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc khả năng tiếp tục thực hiện tội
phạm. Đây mới chính là căn cứ áp dụng BPTG.
Vì vậy, nên chăng cần phải có một quy phạm cụ thể quy định căn cứ áp
dụng BPTG để thống nhất trong cách áp dụng BPNC này trên thực tế.
- Về đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giữ
Đối tượng có thể bị áp dụng BPTG gồm: người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp (người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Điều 117 BLTTHS năm
2015); người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; người phạm tội tự
thú, đầu thú; người bị bắt theo quyết định truy nã.
Như vậy, người bị tạm giữ là người chưa bị khởi tố (người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm
tội tự thú, đầu thú) hoặc đã bị khởi tố, bị kết án (trong trường hợp đầu thú, bị

13


bắt theo quyết định truy nã). Những người bị tạm giữ này có thể chia làm hai

nhóm:
+ Người liên quan đến tội phạm gồm: người bị bắt trong trường hợp
phạm tội quả tang; người bị bắt (giữ trong trường hợp khẩn cấp); người phạm
tội tự thú hoặc đầu thú. Những đối tượng này chưa bị khởi tố bị can, nhưng đã
có đủ cơ sở, căn cứ để xác định họ có liên quan đến việc thực hiện tội phạm.
Khi đó, CQĐT chưa có đầy đủ chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án. Việc
tạm giữ những đối tượng này nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ để
khởi tố họ với tư cách là bị can trong vụ án.
+ Người có hành vi mang dấu hiệu của tội phạm hoặc người bị coi là có
tội bị bắt theo quyết định truy nã, gồm: bị can, bị cáo, người đang thi hành án.
Việc tạm giữ các đối tượng này chủ yếu là để hoàn thành thủ tục chuyển giao
đối tượng giữa CQĐT đã ra quyết định truy nã và CQĐT đã nhận người bị bắt
và có thể để xác định trách nhiệm hình sự về một tội phạm khác như: tội
không chấp hành án (Điều 304 BLHS năm 1999); tội trốn khỏi nơi giam, giữ
hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311 BLHS năm 1999).
- Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định những người có quyền
ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại Khoản 2 Điều 81 BLTTHS bao gồm: Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy đơn vị quân
đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở
hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã
rời khỏi sân bay, bến cảng; Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra
quyết định tạm giữ.
Theo BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thẩm quyền ra quyết định tạm giữ
cho một số chủ thể khác như: Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng
Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành

14



phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên
phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng,
Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và
pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng,
chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng (Khoản 2 Điều 117) [36, tr. 110].
Như vậy, so với BLTTHS năm 2003, thẩm quyền ra quyết định tạm giữ
đã được quy định cụ thể hơn trong BLTTHS năm 2015.
1.2. Cơ sở của việc quy định BPNC tạm giữ
Trong hoạt động lập pháp các quy định về các BPNC nói chung, BPTG
nói riêng được quy định trong nhiều văn bản khác nhau của Nhà nước ta. Đây
là một vấn đề lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp bởi vì nó liên quan
trực tiếp đến sinh mạng chính trị của con người. Việc quy định đúng đắn các
BPNC nói chung BPTG nói riêng là đảm bảo quan trọng cho việc thực hiện
tốt nhiệm vụ của Luật TTHS là phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời và công
minh người thực hiện hành vi phạm tội, ngăn chặn không cho người phạm tội
tiếp tục phạm tội mới, không để lọt tội phạm đồng thời không làm oan người
vô tội, bảo đảm được các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Với tính chất quan trọng như vậy, cho nên khi quy định về các
BPTG, đòi hỏi các nhà lập pháp phải dựa trên các cơ sở sau đây.
1.2.1. Cơ sở pháp lý
Thứ nhất, những bảo đảm từ khía cạnh Pháp luật quốc tế
Quyền con người, quyền công dân là một giá trị nhân loại, là những tự
do và bảo đảm mà một quốc gia dành cho các công dân của nước mình. Theo
Từ điển tiếng Việt 1992 [51] thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Bảo đảm quyền con

15



người là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà
nước ta luôn hướng tới. Việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng... trong
đó nhà nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi
pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Tạm giữ là BPNC nhằm hạn chế một số quyền của người bị giữ. Mục
đích của biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Khi áp biện
pháp này cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bởi vì, một số hoạt động tố tụng có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do di lại, quyền tự do cư trú, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin... của người bị giữ.
Xuất phát từ quan điểm trên, nên ngay trong các văn bản pháp lý quốc
tế như Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 hay Công ước về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966 đã quy định về các quyền này rất cụ thể:
Ngay Lời mở đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 đã
nêu rõ.
“… Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị
bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và
bạo quyền,
Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác
nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của
con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã
hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn,

16



Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc
để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và
những quyền tự do căn bản, Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân
quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy”.
Hay Điều 3 của Tuyên ngôn quy định “Ai cũng có quyền được sống, tự
do, và an toàn thân thể”.
Điều 9. Công ước về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 quy định.
“Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị
bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc
tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy
định.
Bất cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo vào lúc bị bắt về
những lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội
đối với họ.
Bất cứ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được
sớm đưa ra toà án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức
năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do.
Việc tạm giam một người trong thời gian chờ xét xử không được đưa thành
nguyên tắc chung, nhưng việc trả tự do cho họ có thể kèm theo những điều
kiện để bảo đảm họ sẽ có mặt tại toà án để xét xử vào bất cứ khi nào và để thi
hành án nếu bị kết tội.
Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có
quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể
quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả
lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.
Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ
bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường”.

17



Từ những viện dẫn trên, chúng ta thấy rằng các quốc gia trên thế giới
rất chú trọng và quan tâm bảo đảm đến các quyền con người nói chung, quyền
của người bị tạm giữ nói riêng các quyền này được thể hiện rõ trong các văn
kiện có giá trị quốc tế.
Việt Nam chúng ta là thành viên của Liên hợp quốc, đã tham gia phần
lớn và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực thi
các văn kiện về quyền con người. Vì thế, BPTG trong TTHS cần được quy
định chặt chẽ nhằm bảo đảm quyền con người theo tinh thần của pháp luật
quốc tế.
Thứ hai, những bảo đảm từ khía cạnh Hiến pháp
Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới được thành lập,
trong bản Hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp năm 1946 của nước ta đã ghi nhận.
Công dân Việt Nam có quyền
“Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. “Tư pháp chưa
quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”.
Đến Hiến pháp năm 1959 quy định.
“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều bình đẳng trước pháp
luật”.
“Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự
quyết định của Toà án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân
dân”
Hiến pháp năm 1980, bản hiến pháp sau khi nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam thống nhất một mối.
Tại Điều 69 của Hiến pháp quy định.
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai có thể bị
bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê


18


chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt và giam giữ người phải theo
đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”.
“Quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng, theo quy định của pháp
luật”.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền
công dân Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định.
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu
không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người
phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh.
“Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền
được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái
pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người
khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Những quy định trên của Hiến pháp nhằm
ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của công dân từ phía các cơ quan,
cán bộ nhà nước. Các quy định tại Điều 71 và Điều 72 cũng là cơ sở để xây
dựng Luật Tố tụng Hình sự trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công
dân trong thực tiễn.
Đến Hiến pháp 2013 đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong việc ghi
nhận và bảo đảm quyền con người bằng việc quy định Chương 2, Quyền con
người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong số các quyền con người
được Hiến pháp ghi nhận, thì quyền bất khả xâm phạm về thân thể được chú
trọng đặc biệt. Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất


19


×