Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.85 MB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Hồ Nguyễn Anh Tuấn

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Hồ Nguyễn Anh Tuấn

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ KIM OANH


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan. Các kết quả này chưa
từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết lời cam kết này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA
TÒA ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ .......................................................7
1.1. Khái niệm vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự ..................................7
1.2. Cơ sở quy định vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự ........................19
1.3. Quy định của pháp luật về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự .......24
Chương 2: THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG THI HÀNH ÁN
HÌNH SỰ TẠI TỈNH ĐỒNG NAI .........................................................................33
2.1. Thực trạng vai trò của Tòa án trong việc ra quyết định thi hành án; quyết
định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình .........................................................33
2.2. Thực trạng vai trò của Tòa án trong việc ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ,
đình chỉ chấp hành án phạt tù; miễn, giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời hạn
trục xuất; rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo ...........39

2.3. Thực trạng vai trò của Tòa án trong việc xem xét, giải quyết việc cho nhận tử
thi của người chấp hành án tử hình .......................................................................58
2.4. Thực trạng vai trò của Tòa án trong việc gửi bản án, quyết định được thi hành
và quyết định quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 20 Luật Thi hành án hình sự
năm 2010, tài liệu có liên quan cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 ......................................................................60
2.5. Thực trạng vai trò của Tòa án trong việc thực hiện chế độ thống kê, báo cáo
về thi hành án hình sự theo thẩm quyền và nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy
định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 .......................................................63
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁNTRONG THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ .............................................................................................. 65
3.1. Yêu cầu của việc nâng cao vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự ......65
3.2. Các giải pháp cụ thể .......................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành bản án hình sự là một khâu chiếm vị trí quan trọng trong quá trình
giải quyết vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự của một người có tội. Thi hành
án hình sự hay hiện thực hóa các quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật trong thực tế chính là việc lấy lại trật tự công bằng trong xã hội, mà cụ thể là
việc bắt buộc người bị kết án phải chịu sự lên án của Nhà nước, của xã hội; phải
chịu sự giáo dục, cải tạo để có thể trở thành người có ích cho xã hội.
Công tác điều tra, truy tố và xét xử là rất quan trọng. Quyết định hình phạt
của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội
mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà không thực hiện
bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của quyền lực nhà nước thì tác
dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu hình phạt hạn chế, thậm chí là

không có tác dụng. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã có những quy định cụ thể về
thi hành án hình sự, các ngành tư pháp trung ương nói chung và Toà án nhân dân tối
cao nói riêng cũng đã ban hành một số Thông tư liên tịch, Nghị quyết để hướng dẫn
một số quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự
nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
Thẩm quyền của tòa án trong lĩnh vực thi hành án hình sự là cơ sở pháp lý
xác định vai trò của Tòa án trong việc thi hành án các bản án đã có hiệu lực pháp
luật nói chung và các bản án hình sự nói riêng, là công cụ pháp lý hữu hiệu để mọi
công dân thực hiện quyền tự do bình đẳng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hành vi của mình, ngoài ra thẩm quyền của Tòa án trong việc thi hành án hình sự
còn là sự phân định quyền hạn của Tòa án nhân dân với các cơ quan chức năng
khác. Nhằm không ngừng nâng cao trách nhiệm và quyền hạn trong hoạt động thi
hành án của Tòa án ta trong giai đoạn hiện nay. Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015và
Luật thi hành án hình sự năm 2010 đã quy định về thẩm quyền và nhiệm vụ, trách
nhiệm cho các Tòa án trong việc thi hành các bản án hình sự của Tòa án nhân dân

1


các cấp, đây là một bước phát triển mới đồng thời cũng đã qui định khá cụ thể về
vai trò của Tòa án, việc thi hành các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự trong
quá trình thi hành án hình sự trong thời gian qua đã đạt được những hiệu quả nhất
định. Tuy nhiên, quá trình thực hiện đến nay vẫn còn bộc lộ những bất cập, chưa
đáp ứng được yêu cầu của quá trình cải cách tư pháp, chất lượng thi hành án chưa
cao và triệt để, còn kéo dài, cơ chế điều chỉnh pháp luật vẫn còn nhiều trở ngại.
Thực tiễn đòi hỏi phải thực hiện hoạt động cải cách tư pháp, trong đó có sự
hoàn thiện về pháp luật tố tụng hình sự, cơ chế áp dụng pháp luật; hoàn thiện pháp
luật về thẩm quyền của Tòa án trong quá trình thi hành án hình sự
Nhận thức đầy đủ, đúng đắn và chính xác các quy định của pháp luật về vai

tròcủa Tòa ánđối với việc thi hành án hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền, đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp
luật. Chính vì vậy học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài về “Vai trò của Tòa án trong
thi hành án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng
Nai” làm đề tài luận văn với mong muốn tìm ra được những tiêu chí có cơ sở khoa
học và rất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, với mục
tiêu nâng cao năng lực của Tòa án trong quá trình thi hành án hình sự, phòng chống
được tội phạm, đảm bảo các bản án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành một cách
triệt để, chính xác mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân được giám sát
hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án trong quá trình tố tụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý,vai trò của Tòa án trongthi hành án hình sự rất quan
trọng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện và áp dụng các quy định của pháp luật
về thi hành án hình sự của Tòa án thời gian qua còn rất nhiều lúng túng, chưa được
quan tâm đúng mức.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu tác giả nhận thấy có một số công trình nghiên
cứu khá công phu đã làm rõ các khía cạnh pháp lý về lĩnh vực thi hành án hình sự
của Tòa án được nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau cụ thể như:“ Một số vấn đề
về lý luận và thực tiễn về hoãn thi hành án trong Luật Thi hành án hình sự Việt

2


Nam (Tác giả: Nguyễn Văn Sơn), Vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tác giả: Nguyễn Minh Thanh), Giảm thời hạn và
miễn chấp hành hình phạt trong thi hành án hình sự ở Việt Nam (Tác giả: Nguyễn
Văn Cảnh), Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự từ thực tiễn quận Bình
Tân, thành phố Hồ Chí Minh (Tác giả Lê Văn Đường),….”
Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến
vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự, mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp,

chức năng nhiệm vụ của Tòa án những bất cập và hạn chế cũng như những kiến
nghị khoa học, đây là những tài liệu tham khảo rất có giá trị, là nguồn nhận thức cơ
bản giúp cho tác giả định hướng việc nghiên cứu đề tài của mình, tuy nhiên các
công trình nghiên cứu trên chỉ mới đề cập đến một số vấn đề nhất định được quy
định trong Bộ luật tố dụng Hình sự trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Trên cở sở làm rõ vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự được quy định
trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng Hình sự, Luật thi hành án hình sự năm 2010
và thực tiễn thực hiệncủa Tòa án trong những năm qua đã có một số kết quả cụ thể
nhất là việc đề cao vai trò trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ pháp luật.
Trong những năm qua đặt trong bối cảnh nền kinh tế phát triển và hội nhập
kinh tế thế giới có sự bất ổn giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng,
điều đó phản ánh sự xung đột giữa mức độ phát triển của nền kinh tế, nhu cầu điều
chỉnh của pháp luật vào thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật, với tình trạng như
trên chứng tỏ các quy định của pháp luật quy định về vai trò của Tòa án trong thi
hành án hình sự, cơ chế áp dụng pháp luật về thẩm quyền còn bộc lộ những hạn chế
nhất định. Do vậy khi nghiên cứu về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự
theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng Hình sự, Luật thi hành án hình
sự năm 2010, trước hết phải xuất phát từ bản chất của pháp luật, tính tất yếu và
khách quan quy định về trách nhiệm và quyền hạn của Tòa án trong thi hành án
hình sự , nhận thức các vấn đề từ khía cạnh lý luận đến thực tiễn và thực hiện pháp

3


luật, từ đó mới có thể nhận thức đầy đủ yêu cầu đặt ra và định hướng việc hoàn
thiện pháp luật . Luận văn nhằm đạt được các mục đích sau:
Thứ nhất: Những vấn đề lý luận về Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình
sự.

Thứ hai: Cơ sở quy định Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự.
Thứ ba: Phân tích các quy định của pháp luật về Vai trò của Tòa án trong thi
hành án hình sự.
Thứ tư: Đánh giá thực tiễn vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tại
tỉnh Đồng Nai.
Thứ năm: Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự.
Nhiệm vụ của luận văn nhằm giải quyết những vấn đề sau:
- Hệ thống được cơ sở lý luận, các quan điểm khoa học nhận thức chung về
vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự theo Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng
Hình sự, Luật thi hành án hình sự năm 2010. Trọng tâm là phân tích khái niệm về
vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự, căn cứ các quy định về trách nhiệm,
quyền hạn của Tòa án trong thi hành án hình sự, quy định nhiệm vụ quyền hạn của
Tòa án.
- Phân tích, làm rõ nội dung về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự,
thực tiễn thi hành pháp luật từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế trong việc thực thi
pháp luật và áp dụng pháp luật.
- Sau khi phân tích, hệ thống cơ sở lý luận, phân tích thực trạng về vai trò
của Tòa án trong thi hành án hình sự để làm rõ những vướng mắc bất cập khi áp
dụng pháp luật, đưa ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án hình sự trong tòa án hiện hành .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn sử dụng các quan điểm khoa học, các quy
định của pháp luật về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự và thực tiễn vai
trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tại tỉnh Đồng Nai.

4


- Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ của pháp luật về

chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, trong bối cảnh về cải cách tư pháp,
luận văn chủ yếu tập trung vào việc xác định Vai trò của Tòa án trong thi hành án
hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng Hình sự, Luật thi hành
án hình sự năm 2010.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài: Với phạm vi nghiên cứu như trên, việc nghiên
cứu và hoàn thành luận văn trước hết dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa mác Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà Nước, Nghị quyết của
Bộ chính trị về cải cách tư pháp, và các quan điểm khoa học có giá trị tích cực và
tiến bộ trên thế giới về vị trí vai trò của hệ thống tư pháp.
Đồng thời, với đề tài cụ thể trên người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu
như sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp: phương pháp này được sử dụng hầu hết
trong toàn bộ các chương của luận văn và tập trung nhất trong Chương 1 trong việc
trình bày các khái niệm cơ bản về vị trí, vai tròcủa Tòa án trong thi hành án hình sự,
đồng thời người viết sử dụng phương pháp này làm sáng tỏ căn cứ quy định vai trò
của Tòa án trong thi hành án hình sự, phân biệt trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án
trong thi hành án hình sự khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
- Phương pháp so sánh, liệt kê được sử dụng làm sáng tỏ những khác biệt của
vấn đề từ đó rút ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập, phương pháp này được sử
dụng trong Chương 2 nhằm khái quát hóa thực trạng pháp luật về vai trò của Tòa án
trong thi hành án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự sự.
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng trong việc hoàn
thiện pháp luật về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự, phương pháp này
được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 đồng thời phương pháp này được sử dụng để đề
xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật thẩm quyền cũng như trách
nhiệm, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án hình sự, cơ chế áp dụng pháp luật
nhằm hướng đến mục tiêu quan trọng bảo vệ tính công băng trong xã hội.

5



- Ngoài ra, người viết còn sử dụng phương pháp phân tích thực tiễn để làm
cho việc phân tích đề tài thêm sinh động.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Người viết dự định trình bày cơ bản về lý luận và các vấn đề pháp lý về vai
trò của Tòa án trong thi hành án hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật
tố tụng Hình sự, Luật thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi
hành, trên cơ sở trình bày đó tiến hành đánh giá thực trạng của việc thực hiện quy
định trên thực tế cũng như tiến hành đánh giá các quy định pháp luật về vai trò của
Tòa án trong thi hành án hình sự làm cơ sở cho việcđề xuất giải pháp trong cải cách
tư pháp, giải quyết những bất cập, vướng mắc về thẩm quyền cũng như trình tự, thủ
tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Công trình nghiên cứu còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu và cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự,Bộ luật tố tụng Hình sự, Luật thi
hành án hình sự, các văn bản hướng dẫn thi hành…
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
- Chương 1:Những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò của tòa án trong thi
hành án hình sự.
- Chương 2: Thực tiễn vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự tại tỉnh
Đồng Nai
- Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự

6


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự
1.1.1.Khái niệm luật thi hành án hình sự
1.1.1.1. Thi hành án hình sự và luật thi hành án hình sự
Hiến pháp nước ta khẳng định: các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
đã có hiệu luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu
quan phải chấp hành nghiêm chỉnh [20]. Yêu cầu mang tính nguyên tắc hiến định
này đã khẳng định hiệu lực thi hành của tất cả các phán quyết của Tòa án khi có
hiệu lực pháp luật, đồng thời khẳng định ý nghĩa quan trọng của vấn đề thi hành án
nói chung và thi hành án hình sự nói riêng.
Nhiệm vụ bảo vệ pháp luật đòi hỏi phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm
minh mọi vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi phạm tội. Đối với các trường
hợp phạm tội, Tòa án nhân danh công lý ra các phán quyết nhằm lập lại trật tự xã
hội đã bị vi phạm, trừng trị, giáo dục cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm,
thực hiện công lý, công bằng xã hội. Thi hành án hình sự chính là thực hiện các
phán quyết đó và nói một cách khái quát thì thi hành án hình sự là việc thực hiện
công lý, công bằng xã hội trong thực tế. Như vậy, đảm bảo thi hành các phán quyết
của Tòa án trong thực tế là yêu cầu sống còn của Nhà nước, của xã hội, nó liên
quan trực tiếp đến tính nghiêm minh của cả hệ thống pháp luật, đến hiệu lực, uy tín
của Nhà nước, đến kỷ cương, phép nước. Vì vậy, yêu cầu các bản án, quyết định
của Tòa án phải được cả xã hội tôn trọng, các cá nhân, tổ chức hữu quan phải chấp
hành nghiêm chỉnh trở thành nguyên tắc có tính chất hiến định.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất
của thi hành án hình sự và từ đó có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất của
pháp luật thi hành án hình sự. Có người cho rằng, thi hành án hình sự là một giai
đoạn của quá trình tố tụng và do vậy, được điều chỉnh bằng các quy phạm của Luật

7



tố tụng hình sự. Song cũng có ý kiến cho rằng, thi hành án hình sự là một hoạt động
hành chính - tư pháp hình sự, có những nét đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng
hình sự. Một số khác thì coi thi hành án hình sự như là luật hình sự kéo dài. Việc
xác định thi hành án hình sự là một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là
hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi
hành án hình sự, mà xác định bản chất của thi hành ánhình sự là một trong những
vấn đề lý luận cơ bản của thi hành án hình sự. Bởi lẽ, xác định đúng bản chất thi
hành án hình sự có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ
chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của thi
hành án hình sự.
Ở đây, thi hành án hình sự, như nhiều tác giả khẳng định, là “nốt nhạc cuối
cùng” trong quá trình tố tụng. Lập luận cho quan điểm: Bản chất của thi hành án
hình sự là một giai đoạn tố tụng, những người theo quan điểm này cho rằng, bản
án, quyết định của Tòa án, kết quả của giai đoạn xét xử là cơ sở, là căn cứ để tiến
hành hoạt động thi hành án hình sự. Thi hành án hình sự dường như là sự tiếp tục
của giai đoạn xét xử và chịu sự chi phối của cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án.
Quyết định thi hành hình phạt, xóa án tích là do Chánh án Tòa án ra quyết định, thủ
tục ở các khâu quan trọng trong thi hành án hình sự đều do cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện. Việc thi hành các bản án đều được tiến hành dựa trên các nguyên
tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự, thậm chí được quy định trong Luật tố tụng
hình sự.
Tuy nhiên, xét về bản chất, tố tụng là việc giải quyết các tranh chấp thông
qua thủ tục xét xử của Tòa án. Điều đó có nghĩa là khi Tòa án đã đưa ra phán quyết
về chân lý của sự việc, về việc phạm tội hay không phạm tội và về hình phạt áp
dụng đối với trường hợpnày hay trường hợp khác thì quá trình tố tụng cũng kết
thúc. Nói cách khác, tố tụng hình sự xác định có hay không có quan hệ pháp luật
hình sự trong trường hợp này. Nếu có quan hệ đó thì quá trình tiếp theo là thực hiện
nội dung của pháp luật hình sự: hình phạt hoặc biện pháp tư pháp hình sự. Thực

hiện nội dung này không thể tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng vì không có tranh

8


chấp cần xét xử. Ở đây thực chất là hoạt động quản lý hành chính tư pháp hình sự.
Điều này được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, thi hành án hình sự thực chất là hoạt động mang tính điều hành và
chấp hành. Điều hành và chấp hành là đặc trưng của quản lý hành chính. Tuy nhiên,
đây là hoạt động điều hành và chấp hành để thực hiện bản án, quyết định của Tòa
án, tức là một nội dung có tính chất tư pháp. Do vậy, khó có thể nói thi hành án là
giai đoạn của tố tụng.
Thứ hai,với tính chất là một hoạt động chấp hành, cho dù căn cứ để thi hành
án hình sự là các bản án và quyết định của Tòa án nhưng quá trình thi hành án hình
sự được thực hiện với những hoạt động, biện pháp, cách thức không mang tính tố
tụng, nghĩa là không thuần túy là luật hình thức, mà ở đây, có thể thấy sự kết hợp
giữa luật nội dung với luật hình thức.
Thứ ba, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án tác động trực tiếp
tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp
buộc họphải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
án; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà
nước và xã hội, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Phương pháp ở đây
là thuyết phục, giáo dục và mệnh lệnh hành chính.
Thứ tư, việc thi hành các hình phạt không phải hình phạt tù và tử hình (như
cải tạo không giam giữ) hoặc người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì được
giao cho cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện theothủ tục quản lý
hành chính. Việc thực hiện hình phạt tiền, trục xuất và các hình phạt bổ sung, các
biện pháp tư pháp hình sự cũng thực hiện theo thủ tục hành chính. Như vậy, có thể
nói trong quá trình thi hành án hình sự pháp luật được áp dụng chủ yếu không phải
là pháp luật tố tụng, mà là các quy định pháp luật về hành chính - tư pháp.

Thứ năm, thi hành án hình sự trước hết là hoạt động của cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình xã hội hóa hoạt động thi
hành án hình sự cũng đang được tiến hành với nhiều triển vọng khả quan. Đây là

9


điểm khác biệt so với hoạt động tố tụng, hoạt động mang tính quyền lực tư pháp
chặt chẽ.
Tóm lại, thi hành án hình sự tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố
tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc thù, và có mục đích trực tiếp
riêng biệt. Nếu tất cả các hoạt động tố tụng đều nhằm đạt đến một phán quyết đúng
đắn của Tòa án, thì thi hành án lại nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết
của Tòa án. Mọi hoạt động tố tụng hình sự đều dừng lại ở việc phán quyết của Tòa
án, trong khi đó, thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ một phán quyết của Tòa
án có hiệu lực thi hành. Hơn nữa, các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành
án hình sự tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành chính hơn là tính tố tụng.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa quá trình tố tụng hình
sự và thi hành án hình sự: tố tụng hình sự là tiền đề, khởi đầu cùa thi hành án hình
sự; ngược lại, thi hành án hình sự là thực hiện kết quả tố tụng trong thực tế. Không
có tố tụng hình sự thì không có thi hành án hình sự nhưng không có thi hành án
hình sự thì tố tụng hình sự trở nên vô nghĩa. Từ những phân tích trên có thể kết
luận: thi hành án là hoạt động có tính hành chính - tư pháp.
Từ khái niệm, bản chất thi hành án hình sự như trên có thể định nghĩa một
cách khái quát luật thi hành án hình sự như sau: Luật thi hành án hình sự là một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành án hình
sự nhằm đảm bảo thi hành trong thực tế các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. [43, Tr. 9]
1.1.1.2. Nhiệm vụ của luật thi hành án hình sự

Là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống tư pháp hình
sự nói riêng, nhiệm vụ của luật thi hành án hình sự không thể tách rời khỏi nhiệm
vụ của cả hệ thống pháp luật nói chung và của tư pháp hình sự nói riêng. Tuy
nhiên, với tính cách là một ngành luật, thi hành án hình sự có những nhiệm vụ cụ
thể đặc thù. Thi hành án hình sự có nghĩa là thực hiện chế tài hình sự trong hiện
thực đời sống xã hội và từ đó nhằm thực hiện các nhiệm vụ của pháp luật hình sự.

10


Đồng thời, thi hành án hình sự là việc thực hiện phán quyết của Tòa án - kết quả
của quá trình tố tụng hình sự nên đây cũng chính là việc thực hiện trong thực tế
nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Mặt khác, những nhiệm vụ trên chỉ có thể thực hiện
được bằng cách đảm bảo thực hiện một cách đúng đắn nội dung của bản án, quyết
định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong thực tế. Như vậy, nói một
cách khái quát, nhiệm vụ của luật thi hành án hình sự gồm:
Thứ nhất, bảo đảm bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án phải được thực hiện đúng đắn trong thực tế. Đây là nhiệm vụ trọng tâm nhất
của thi hành án hình sự xuất phát trực tiếp từ chức năng cơ bản của luật thi hành án
hình sự. Có thể khẳng định rằng việc thực hiện mọi nhiệm vụ của thi hành án hình
sự đều được thực hiện thông qua việc thực hiện chức năng này. Nếu bản án hoặc
quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án không được thực hiện hoặc thực hiện
không đúng thì chẳng những các nhiệm vụ của luật hình sự không được thực hiện,
mà ngay cả các kết quả tố tụng cũng không có ý nghĩa.
Thứ hai, cải tạo, giáo dục người bị kết án để họ không phạm tội mới và trở
thành người có ích cho xã hội, tạo các điều kiện cần thiết để họ tái hòa nhập cộng
đồng và bằng cách đó thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ này thể
hiện mục tiêu lớn nhất của thi hành án hình sự là trả về cuộc sống những người đã
từng phạm tội sau khi họ đã trở lại thành người tốt và tạo được cho họ những điều
kiện sống cần thiết để không tái thực hiện hành vi phạm tội. Đây là nhiệm vụ rất

khó khăn đòi hỏi sự phù hợp và nỗ lực của cả hệ thống các yếu tố như quy định của
pháp luật, cơ chế phối hợp thực hiện công tác thi hành án, các chủ thể của hoạt
động thi hành án, điều kiện cơ sở vật chất...
Thứ ba, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa
tội phạm nói chung, động viên, khuyến khích sự tham gia của xã hội và công dân
vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhiệm vụ này được thực hiện đồng
thời với nhiệm vụ thứ hai nói trên. Trong hoạt động tổ chức thi hành án hình sự,
các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm cần chú ý kết hợp nhiệm vụ này thông qua
sự tác động trực tiếp đến người chấp hành án cũng như trong quan hệ phối hợp với

11


các tổ chức, cá nhân có liên quan. Việc thực hiện nhiệm vụ này cũng có sự tác
động tích cực đến việc thực hiện nhiệm vụ cải tạo, giáo dục người bị kết án.
Các nhiệm vụ của luật thi hành án hình sự có mối quan hệ khăng khít, bổ trợ
cho nhau và cùng hòa vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của tư pháp hình sự [43,
Tr. 19].
1.1.2. Khái niệm Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự
Để có thể đi sâu vào vấn đề, trước hết chúng ta cần định nghĩa “vai trò” là
gì, theo từ điển Việt - Việt: “Vai trò là danh từ dùng để diễn tả tác dụng, chức năng
của ai hoặc cái gì trong sự hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể, một tổ
chức, thái độ ăn ở, cư xử trong hoàn cảnh nào đó, tác dụng, chức năng trong sự ảnh
hưởng của cái gì đó”[37].
Ở đây, cái cần diễn tả là vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự. Vậy
vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự nghĩa là tác dụng, chức năng của Tòa
án trong thi hành án hình sự. Muốn hiểu được vai trò, chức năng của Tòa án trong
thi hành án hình sự trước tiên ta cần hiểu được vai trò của Tòa án nói chung.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức
theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các

cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng
rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân. Vị trí
trung tâm trong các cơ quan tư pháp của Tòa án được thể hiện ở Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến
năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư
pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm
việc; trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”.
Điều 102 của Hiến pháp quy định chức năng và nhiệm vụ của Tòa án là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

12


công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Như vậy, Hiến pháp năm 2013 khẳng định chỉ Tòa án nhân dân mới có chức
năng xét xử các vụ án. Ngoài Tòa án nhân dân không có cơ quan nào khác được
giao phán xử về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp trong xã hội. Quy định này
phù hợp với việc phân công thực hiện quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Hiến pháp nhấn mạnh rằng bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân
là những nhiệm vụ đầu tiên của Tòa án nhân dân, sau đó mới là nhiệm vụ bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân.
Vai trò của Tòa án được thể hiện cụ thể: Một là, Toà án có vai trò xét xử,
nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước để đưa ra các phán quyết
đối với từng vụ việc cụ thể. Hai là, bằng hoạt động xét xử, Toà án thực hiện chức
năng bảo vệ pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo
vệ những giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Pháp luật trong nhà

nước pháp quyền là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ. Vai trò bảo
vệ pháp luật của toà án được biểu hiện ở việc Toà án áp dụng pháp luật và Toà án
tuân thủ pháp luật. Ba là, Tòa án bảo vệ quyền công dân, quyền con người. Tòa án
thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người thông qua ba nội dung cơ bản, gồm: kiểm
soát quyền lực của lập pháp và hành pháp nhằm đảm bảo hai cành quyền lực này
tôn trọng và không xâm hại quyền con người và các quyền công dân đã được hiến
định; Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế pháp lý nhằm
trừng trị, ngăn ngừa hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân và khôi
phục lại những quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước bị xâm
hại; Tòa án tuân thủ pháp luật đặc biệt là tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong quá
trình xét xử. Bảo vệ quyền công dân thông qua hoạt động Tòa án nhân danh Nhà
nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế pháp lý nhằm trừng phạt người thực hiện
hành vi xâm hại quyền con người, quyền công dân và khôi phục, duy trì bảo vệ

13


quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước. Bốn
là, Toà án bảo vệ cho trật tự xã hội ổn định, an toàn và có môi trường phát triển lành
mạnh, bền vững.
Đây là những vai trò của Tòa án nói chung. Tuy nhiên, ngoài chức năng xét xử
thì Tòa án còn đóng vai trò quan trọng trong thi hành án hình sự.
Thi hành án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án về hình sự
đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế cho có hiệu quả.
Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 chỉ giải thích các từ ngữ “thi hành
án phạt tù”, thi hành án tử hình, thi hành án treo mà không có khái niệm thi hành án.
Tuy nhiên, từ các Điều 3 Luật thi hành án hình sự ta có thể đưa ra khái niệm: Thi
hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm thực hiện
bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
Như vậy, vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự là chức năng, nhiệm vụ

của Tòa án trong việc đưa các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật ra thực hiện trên thực tiễn.
Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự rất quan trọng vì bản án, quyết
định của Tòa án mới chỉ là sự lên án hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, khi
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành chính là lúc răn
đe, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, cộng đồng và gia
đình họ. Nếu bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án không được thi
hành thì toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trước đó đều trở nên vô nghĩa,
trật tự, kỹ cương xã hội bị vi phạm, pháp luật không còn đảm bảo.
Theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Tố tụng hình sự thì vai trò của Tòa án
trong thi hành án hình sự được thể hiện thông qua vai trò của Chánh án mà cụ thể là
ra quyết định thi hành án hình sự; Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù; Quyết
định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù; Quyết định xoá án tích.Vai trò này được cụ
thể hơn tại Điều 20 Luật Thi hành án hình sự 2010.
Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự phải được coi là trọng tâm,
trung tâm của hoạt động thi hành án, bởi Tòa án là cơ quan thực hiện khâu đầu tiên
14


của cả quá trình thi hành án. Các cơ quan liên quan trong hoạt động thi hành án
hình sự giữ vai trò là cơ quan hỗ trợ Tòa án trong hoạt động này.
Để Tòa án được độc lập thực thi nhiệm vụ, trước hết cần thay đổi nhận thức
về Tòa án theo hướng: Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh nhà nước tiến hành
các hoạt động xét xử và thi hành án hình sự nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền
tư pháp. Trên cơ sở đó, có quan điểm đúng đắn để xây dựng thể chế, nguyên tắc
hoạt động, bộ máy tổ chức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ, kinh phí hoạt dộng của
Tòa án, tuổi hưu, nhiệm kỳ của đội ngũ cán bộ Tòa án cho phù hợp.
Hoạt động thi hành án hình sự có hiệu quả chính là thực thi quyền tư pháp
của Tòa án và chủ thể trực tiếp thực thi quyền tư pháp tại Tòa là Thẩm phán, Thư

ký và Hội thẩm. Độc lập của Tòa án không chỉ trong giai đoạn xét xử, mà còn mở
rộng phạm vi độc lập ra khỏi khuôn khổ xét xử, độc lập cả trong cơ chế, chính sách
đối với các chức danh tư pháp.
Thi hành án hình sự hiện nay phải được nhìn nhận là giai đoạn then chốt
quyết định hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tòa án là cơ quan
trung tâm trong việc tổ chức thi hành đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Việc tổ chức thi hành án góp phần làm ổn định tình hình chính
trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững kỹ cương, pháp luật nhà nuớc.
Mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa các khâu phát hiện, điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án đã được Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhằm đưa người phạm
tội ra xét xử và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với hành vi phạm tội mà
họ đã gây ra cho xã hội.
Tôn trọng quyền con người, quyền công dân kể cả khi họ đã bị kết án và
trong giai đoạn thi hành án, khi họ chấp hành án tại các trại giam. Tòa án không
thể lấy tiêu chí về số lượng các vụ án, các bị can bị truy tố, xét xử, hoặc số lượng
người bị kết án bị phạt nặng...để đánh giá hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung hoặc hiệu quả thi hành án hình sự nói riêng mà làm mất
đi nguyên tắc nhân đạo, điều đó chỉ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Tòa án

15


nói riêng, nhà nước nói chung.
Thi hành án là một vấn đề phức tạp, làm thế nào để đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp không phải vấn đề có thể giải quyết ngay chỉ trong Tòa án mà cần
phải tiến hành đồng bộ ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành. Do những điều
kiện lịch sử nhất định, công tác thi hành án chưa tập trung vào một đầu mối mà còn
phân tán giữa thi hành án hình sự với thi hành án dân sự.
Trong tiến trình cải cách, trước mắt cần giải quyết vấn đề người bị kết án
còn tồn đọng (số người còn tại ngoại), đồng thời tiếp tục nghiên cứu đưa ra một mô

hình quản lý thống nhất công tác thi hành án. Trong hoạt động thi hành án, cần kết
hợp giữa hoạt động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ của Tòa án, các cơ quan
thi hành án với việc từng bước xã hội hóa một số công việc trong thi hành án. Có
như vậy mới bảo đảm cho mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật được thi hành nghiêm chỉnh và đầy đủ.
Một vấn đề có ý nghĩa lớn đóng vai trò quan trọng, tác động đến hiệu quả
công tác thi hành án là tăng cường cơ sở vật chất, thay đổi mô hình hệ thống
phòng, ban chuyên môn của Tòa án cho tương xứng với hoạt động quan trọng này.
Tăng cường các phương tiện kỹ thuật hiện đại cho Tòa án để Tòa án đủ khả năng
đấu tranh phòng, chống tội phạm... Vì vậy ngân sách nhà nước hàng năm cần dành
một khoản đề đầu tư cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và các trang bị kỹ thuật
hiện đại cho các cơ quan tư pháp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành
án hình sự tại Tòa án.
Thi hành án hình sự là hoạt động đặc biệt nhằm thực thi quyền lực nhà
nước. Nội dung của hoạt động thi hành án hình sự là làm thế nào để thi hành có
hiệu quả bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đánh giá, xem xét
khoan hồng của nhà nước trong quá trình cải tạo bằng việc xét giảm án, xóa án
tích... cho người chấp hành án để người chấp hành án sớm trở về tái hòa nhập cộng
đồng, có thể nói đây là giai đoạn tố tụng đặc biệt trong chuỗi hoạt động tố tụng tại
Tòa án.
Các hoạt động tố tụng trước khi ra bản án, quyết định của Tòa án có hiệu

16


lực pháp luật chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật được đưa ra thi hành. Vì vậy việc thi hành bản án, quyết định hình sự chiếm vị
trí rất quan trọng trong tố tụng hình sự, đảm bảo nguyên tắc:
“Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ

chức trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án,
quyết định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành
đó.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước, chính quyền
xã, phường, thị trấn, tổ chức và công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành án.
Các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, có trách nhiệm tạo
điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án
quyết định của Tòa án trong việc thi hành”.
Mặt khác, thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
chính là thể hiện sự công bằng trong xã hội dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền
con người. Đảm bảo nguyên tắc “Bất kỳ ai phạm tội cũng đều bị phát hiện, xử lý và
phải chịu hình phạt”.
Thông qua việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật nhằm tuyên truyền, giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án, giúp họ nhận ra
những lầm lỗi và góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp luật. Qua đó động viên
họ tích cực tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi
phạm pháp luật khác. Việc chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định cùa Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật còn có ý nghĩa bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong tố tụng
hình sự.
Cũng như hoạt động tố tụng, ở giai đoạn thi hành án Tòa án có vai trò đặc
biệt quan trọng. Bởi lẽ, bản án được Tòa án tuyên phải vô tư, khách quan, hình phạt
đã tuyên phải có tính thuyết phục, răn đe và phòng ngừa trên nguyên tắc tôn trọng
quyền con người, quyền công dân. Thông qua hoạt động xét xử và thi hành án hình

17


sự, Tòa án góp phần tuyên truyền ý thức pháp luật trong nhân dân, giúp người
phạm tội nhận ra được lỗi lầm mà mình gây ra cho xã hội bằng việc giáo dục ngay

tại phiên Tòa và lượng hình phù hợp để họ nhận thức được tính nhân đạo của pháp
luật, nhưng cũng thấy được tính nghiêm minh của pháp luật thông qua giai đoạn thi
hành án.
Khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tòa án là cơ
quan ra quyết định thi hành và đưa bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật ra thi hành trên thực tế. Với vai trò là trung tâm, Tòa án là cơ quan ban
hành quyết định, theo dõi phán quyết của Tòa được thực thi trên thực tế. Vì vậy
việc thi hành án của bất kỳ Tòa án nào cũng được coi là một phần của công tác xét
xử và là giai đoạn tố tụng đặc biệt thực thi quyền lực nhà nước.
Trên nguyên tắc Hiến định, Tòa án phải đảm bảo quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của mọi công dân, một trong những quyền quan trọng của con
người. Bảo đảm quyền tự do, dân chủ của mọi công dân, bảo đảm không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, dùng nhục hình. Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân
được bồi thường thiệt hại khi có hành vi gây thiệt hại của các cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra, đảm bảo nguyên tắc “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trái pháp luật được bồi thường thiệt hại về
vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự...” [20].
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nhiệm vụ trước mắt là
phải cải cách Tòa án, cải cách hệ thống pháp luật liên quan đến Tòa án về chức
năng, nhiệm vụ của Tòa án như: Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, các
luật nội dung (Bộ luật) và các luật hình thức (Luật tố tụng). Cụ thể là Hiến pháp
năm 2013 đã bổ sung về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án theo hướng Tòa án
thực hiện quyền tư pháp; chức năng, nhiệm vụ của Tòa án được quy định đó là:
“Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân, các Tòa án quân sự và các Tòa
án khác do luật định là những cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án
có nhiệm vụ xét xử, giải quyết các vụ, việc và những nhiệm vụ khác theo quy
định của pháp luật. Như vậy về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án đã bổ sung, đó

18



là thực hiện quyền tư pháp, để thực hiện một số việc về hạn chế quyền nhân thân
như quyết định đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào Trường giáo
dưỡng...” [20].
Mặt khác, Tòa án cần tiếp tục hoàn thiện bộ máy bằng việc chuyên môn hóa
thi hành án hình sự, coi đó là một khâu chính trong chuỗi hoạt động tố tụng tại Tòa
án và cần thành lập riêng thành phòng hay Tòa thi hành án hình sự mới đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
1.2. Cơ sở quy định vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự
Trong hoạt động của mình, Tòa án giữ nhiệm vụ quan trọng trong quá trình
cải cách tư pháp và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước trao cho Tòa án
những nhiệm vụ nhất định và phân quyền phù hợp với phạm vi từng cấp để Tòa án
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án được quy định cụ
thể trong Bộ Luật, Luật và Nghị quyết. Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng trong
công tác thi hành án hình sự.
Điều đó cho thấy từ khi phát hiện một hành vi phạm tội xảy ra phải trải qua
một quá trình điều tra, truy tố, xét xử cho đến khi một hình phạt được tuyên trong
một bản án thì việc giải quyết vụ án hình sự xem như kết thúc. Khi một bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án,
quyết định đó được thi hành xong thì Tòa án có vai trò và nhiệm vụ rất quan trọng.
Trong giai đoạn thi hành án hình sự, Tòa án là đơn vị có thẩm quyền ra quyết định
thi hành án. Vì vậy, Tòa án phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm
đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án phải được đưa ra thi hành và thực hiện
nghiêm chỉnh.
Bản án, quyết định được thi hành là những bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật. Bản án có hiệu lực là bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
theo trình tự phúc thẩm; bản án phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm, hay tái thẩm.
Tuy nhiên có những bản án phải thi hành ngay khi chưa có hiệu lực pháp luật, đó là
trường hợp bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành theo quy định tại Điều
363 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: “Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam


19


mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù
hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn
thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay,
mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị.Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay
tại phiên tòa” [23]… Ngoài ra còn có quyết định áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh, giáo dục tại phường, xã, thị trấn; quyết định đưa vào trường giáo
dưỡng. Quyết định tiếp nhận người đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài về
Việt Nam chấp hành hay quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
tại Việt Nam cho người nước ngoài. Tòa án có nhiệm vụ quan trọng là ra quyết định
thi hành án hình sự, quyết định ủy thác thi hành án hình sự, quyết định hoãn hoặc
tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù,
quyết định giảm thời gian thử thách của án treo, quyết định xóa án tích hoặc cấp
giấy chứng nhận xóa án tích. Ngoài ra, Tòa án có nhiệm vụ theo dõi việc đưa người
bị phạt tù giam vào trại giam để thi hành án, theo dõi việc chấp hành án mà Tòa án
giao cho chính quyền địa phương nơi bị án cư trú hoặc nơi cơ quan bị án làm việc;
xem xét miễn giảm thi hành án đối với việc bị phạt tiền, án phí; tổ chức thi hành án
tử hình; tham gia giúp Hội đồng đặc xá Trung ương thực hiện việc đặc xá.
Tòa án có quyền ra quyết định thi hành án và người bị kết án phải có trách
nhiệm thi hành hình phạt được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án. Tòa án ra
quyết định thi hành hình phạt được quy định trong luật tố tụng hình sự, còn các
quyết định về thi hành án dân sự trong hình phạt thì do cơ quan thi hành án dân sự
ra quyết định và thi hành.
Từ đó cho thấy Tòa án có nhiệm vụ quan trọng trong công tác thi hành án
hình sự. Ngoài Tòa án là chủ thể ban hành quyết định thi hành án hình sự còn có các
chủ thể khác như Viện kiểm sát, Công an, chính quyền địa phương cùng có trách

nhiệm trong công tác thi hành án. Với vai trò là cơ quan ban hành quyết định thi
hành án hình sự thì việc bỏ lọt bị án có được đưa ra thi hành án hay không là trách
nhiệm của Tòa án. Tòa án phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và chính xác nhiệm

20


vụ, quyền hạn của mình nhằm để đảm bảo các bản án, quyết định được đưa ra thi
hành đúng quy định của pháp luật.
Nhằm đảm bảo tính thực thi của pháp luật trong hoạt động quản lý Nhà
nước, việc đảm bảo tính hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Tòa án là
một yêu cầu rất quan trọng. Công tác thi hành án hình sự mang tính đặc thù vừa
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật vừa đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý của
Nhà nước về Thi hành án hình sự. Công tác thi hành án hình sự do nhiều chủ thể
thực hiện nhưng đóng vai trò và có ý nghĩa quan trọng là Tòa án. Đây là công tác
vừa mang tính chuyên môn, nghiệp vụ vừa thể hiện quyền lực Nhà nước. Pháp luật
quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn cho Tòa án vì vậy nếu một bản án, quyết định
không được thi hành hay nói cách khác Tòa án không thực hiện đúng nhiệm vụ,
quyền hạn của mình thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố xét xử
không mang được giá trị nghiêm minh về việc trừng phạt, giáo dục, răn đe và đảm
bảo trật tự chung trong xã hội dẫn đến quyền lực Nhà nước bị ảnh hưởng.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định
giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết
định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ, tên người ra quyết định; tên cơ quan
có nhiệm vụ thi hành bản án hoặc quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư
trú của nguời bị kết án; bản án hoặc quyết định mà người bị kết án phải chấp hành.
Trong trường hợp người bị kết án đang tại ngoại thì quyết định thi hành án
phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được quyết định,

người bị kết án phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an...để thi hành
án.
Quyết định thi hành án, trích lục bản án hoặc quyết định phải được gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án và người bị kết án.
Trong trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại bỏ trốn, thì Chánh
án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan Công an cùng cấp ra quyết

21


×