Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn quận gò vấp, thành phố hồ chí minh’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.97 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHẮC LAN CHI

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHẮC LAN CHI

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,


trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Khắc Lan Chi


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bảng 2.1: Số liệu thống kê số bị cáo áp dụng hình phạt không tước tự do
trên địa bàn quận Gò Vấp trong thời gian 06 năm (từ năm 2012 đến năm
2017).37
Bảng 2.2: Số liệu thống kê số người chấp hành hình phạt áp dụng
hình phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp trong thời
gian 06 năm (từ năm 2012 đến năm 2017)
39


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành các hình phạt không tước tự do là một phần của hoạt động thi hành

án hình sự ở nước ta. Đó là hệ thống các hoạt động của các cơ quan, tổ chức được
giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về
các loại hình phạt nói trên theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Hình sự 1999, các hình phạt chính
không tước tự do bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất.
Trong các hình phạt này, hình phạt tiền do cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo
cơ chế riêng, hình phạt trục xuất vừa được quy định là hình phạt chính, vừa được
quy định là hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính không tước tự do còn lại là cảnh
cáo và cải tạo không giam giữ. Các hình phạt chính không tước tự do có vai trò quan
trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá
hình phạt mà còn thể hiện được rõ chính sách nhân đạo của luật hình sự. Việc tăng
cường hiệu quả của các hình phạt không tước tự do là một trong những vấn đề đang
được đặt ra trong quá trình sửa đổi Bộ luật Hình sự nhằm tiếp tục tăng cường chính
sách nhân đạo, tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội.
Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng
hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt không tước tự do đối với người phạm tội.
Cụ thể: áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính không chỉ đối với tội ít nghiêm
trọng như trước đây, mà còn được áp dụng ngay cả đối với tội nghiêm trọng, thậm
chí là với một số tội rất nghiêm trọng; sửa đổi hình phạt cải tạo không giam giữ theo
hướng tăng cường tính cưỡng chế, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của loại hình
phạt này; khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu
phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý.
Để đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính không tước tự do trong pháp luật
hình sự Việt Nam cần đưa ra các yêu cầu, các tiêu chuẩn cụ thể trong quá trình lập
pháp, quá trình quyết định hình phạt và quá trình chấp hành hình phạt.Tuy nhiên, hệ
5


thống các văn bản quy định về hình phạt không tước tự do trong Luật hình sự Việt
Nam còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; nội dung chưa được quy định cụ thể; các

điều kiện áp dụng hình phạt còn quy định chung chung; ranh giới giữa các hình phạt
không tước tự do còn khó xác định; thực tiễn áp dụng và thi hành nảy sinh nhiều vấn
đề cần giải quyết...
Việc tăng cường áp dụng các hình phạt không tước tự do thể hiện rõ nét nhất
chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự,
tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hoàn lương mà không phải cách ly khỏi
xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước trong việc giam giữ người
phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng, góp phần hiệu quả vào
công cuộc phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác....
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa các quy định của pháp luật về
thi hành các hình phạt không tước tự do, đồng thời đánh giá việc thi hành các hình
phạt không tước tự do trong thực tiễn để đưa ra các giải pháp hoàn thiện về mặt luật
pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt không tước tự do không những có ý
nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết.
Đây cũng là lý do luận chứng cho việc tôi quyết định chọn đề tài “Thi hành
các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí
Minh’" làm luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thi hành án hình sự nói chung, trong đó có thi hành các hình phạt không tước
tự do đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, được để cập trong
nhiều bài viết, nghiên cứuvà được thể hiện trên các báo trung ương và địa phương
chuyên ngành pháp luật như: Sách “Pháp luật thi hành án Việt Nam Những vấn đề
lý luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp 2006, PGS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS.
Nguyễn Mạnh Kháng; Giáo trình “Luật thi hành án hình sự” Nxb Khoa học xã hội
2013, của GS.TS. Võ Khánh Vinh và TS. Cao Thị Oanh; Luận văn Thạc sĩ Luật học
6


“Thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Hà Giang” củaHoàng

Việt Trung; Luận văn Thạc sĩ Luật “Các hình phạt không tước tự do trong Luật Việt
Nam’" của Lê Khánh Hưng, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thi hành các hình phạt cải
tạo không giam giữ, án treo từ thực tiên tỉnh Cà Mau ”của Nguyễn Thị Hiền...
Các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu rất bổ ích và giá trị được sử
dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả của
các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn
hiểu biết của mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận và quy định của
pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn quận Gò Vấp, đưa
ra một số đề xuất về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành các hình phạt
không tước tự dotại địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn
thi hành các hình phạt không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo không giam
giữ, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành
các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số nội dung chung về thi hành các hình phạt không tước tự do.
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về thi hành các hình phạt không
tước tự do và thực tiễn áp dụng các quy định đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện, hiệu quả thi hành các
hình phạt không tước tự do.

7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy các quan điểm khoa học pháp lý hình sự, các quy định của pháp
luật về thi hành các hình phạt chính không tước tự do, thực tiễn thi hành các hình
phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Lý luận chung về thi hành các hình phạt không tước tự do;
- Nghiên cứu về các hình phạt không tước tự do trên các phương diện lập
pháp và thực tiễn áp dụng để từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn tại Quận Gò Vấp.
- Do nội dung đề tài rất rộng và phạm vi nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn
chỉ nghiên cứu các hình phạt không tước tự do là hình phạt chính; không nghiên cứu
các hình phạt không tước quyền tự do là hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cải cách tư pháp; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách
chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là phương
pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so
sánh, phương pháp thống kê...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống, phân tích những vấn đề quan điểm, lý luận về thi hành các hình phạt
không tước tự do; đánh giá công tác thi hành các hình phạt không tước tự do trong
thực tiễn.
Trình bày thực trạng áp dụng và thi hành các hình phạt không tước tự do trên
địa bàn quận Gò Vấp từ năm 2012 đến năm 2017; kết quả đạt được, hạn chế và các
8



nguyên nhân. Từ đó, đưa ra một số đề xuất, những giải pháp nhằm góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự của
Việt Nam, nâng cao hiệu quả công tác thi hành các hình phạt không tước tự do tại
địa phương.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương với cơ cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành các hình phạt không tước tự do.
Chương 2: Thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn
Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
thi hành các hình phạt không tước tự do.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT
KHÔNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Khái niệm và các đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự
do
1.1.1. Khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do
Điều 106 Hiến pháp 2013 nước ta khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng;
cơquan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành ”[22]. Yêu cầu
mang tính nguyên tắc hiến định này đã khẳng định hiệu lực thi hành của các phán
quyết của Toà án khi có hiệu lực pháp luật, đồng thời khẳng định ý nghĩa quan trọng
của công tác thi hành án nói chung và thi hành án hình sự nói riêng.

Thi hành án hình sự là một dạng hoạt động của Nhà nước, nhằm thực hiện
quyền lực Nhà nước, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện đưa các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án ra thi hành trên thực tế. Đảm bảo thực
hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối
với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, và là biện pháp hữu hiệu
để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm
hại. Bên cạnh đó, thi hành án hình sự còn nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết án để
họ không phạm tội mới và trở thành người có ích cho xã hội, nhằm mục đích phòng
ngừa riêng; giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội
phạm nói chung, động viên, khuyến khích sự tham gia của xã hội và công dân vào
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thi hành án hình sự được tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Toàn bộ quá trình thi hành các bản án, quyết định và các quan hệ
liên quan đến việc thi hành được quy định cụ thể, rõ ràng. Đây là giai đoạn cuối cùng


trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp luật và cũng là giai đoạn
cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, trong đó buộc người bị xử phạt phải
chấp hành hình phạt mà Toà án đã quyết định. Bản án, quyết định của Toà án có
được thi hành nghiêm chỉnh hay không là tuỳ thuộc chủ yếu vào giai đoạn này. Nếu
mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Hoạt động tố tụng trên chỉ có ý nghĩa
trên thực tế khi các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được đưa ra
thi hành một cách nghiêm túc, kịp thời và có hiệu quả. Một bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì
trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường.
Tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng thi hành án
hình sự vẫn là một hoạt động có tính đặc thù và có mục đích trực tiếp riêng biệt. Nếu
tất cả các hoạt động tố tụng dừng lại ở việc phán quyết của Tòa án, thì thi hành án lại
được triển khai bắt đầu từ khi phán quyết có hiệu lực thi hành và nhằm thực hiện các

nội dung trong phán quyết đó. Nhiệm vụ của giai đoạn này là không chỉ trừng trị
người có tội mà còn giáo dục, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài
ra cũng nhằm tới mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta. Căn cứ và nội dung của thi hành án chính là các nội dung cụ thể trong
các phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là điểm thể hiện rõ nhất tính
tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của thi hành án [12,tr. 13]. Nội dung thi hành
án hình sự rất rộng, bao gồm chế độ, thủ tục, tổ chức thi hành án, áp dụng các biện
pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội và thực hiện chế độ chính sách đối
với người bị kết án. Các quan hệ xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và
chấp hành hình phạt như việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi
hành, tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thi hành án, quản lý nhà


nước trong lĩnh vực thi hành án, quy định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành
án, nghĩa vụ của các cơ quan khác...
Thi hành án hình sự còn là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành để
thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, mang tính bắt buộc chấp hành đối với
tất cả các chủ thể có trách nhiệm liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ
chức, công dân trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối
hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành án phản ánh
một thực tế nó không phải là hoạt động tố tụng thuần túy. Trong quá trình thi hành,
các cơ quan thi hành án tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự
giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được
xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và
công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Thi hành các hình phạt không tước tự do:
Từ định nghĩa khoa học về hình phạt trong luật hình sự có thể nói: Hình phạt
không tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất về hình sự của Nhà nước

do Toà án quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội mà không buộc họ
phải cách ly ra khỏi môi trường xã hội bình thường.
Các dấu hiệu cơ bản của hình phạt không tước tự do
- Người bị kết án không bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường.
- Tính chất cưỡng chế của hình phạt không tước tự do thấp hơn hình phạt tù.
- Việc thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện bởi nhiều cơ
quan, tổ chức khác nhau.
- Điều kiện áp dụng và các hậu quả pháp lý phát sinh từ các hình phạt không
tước tự do được quy định khá chặt chẽ.


- Việc thi hành các hình phạt không tước tự do phát huy cao độ vai trò của
cộng đồng trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội.[14]
Các hình phạt nói chung và các hình phạt chính không tước tự do nói riêng có
vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá
thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ chính sách nhân đạo của Luật Hình sự.
Khi áp dụng hình phạt không tước tự do đối với người phạm tội sẽ hạn chế được
những tác động tiêu cực của hình phạt lên người phạm tội cũng như gia đình của
người phạm tội, tạo điều kiện người phạm tội được tái hòa nhập cộng đồng sau khi
chấp hành xong hình phạt.
Hoạt động thi hành án hình sự đối với các hình phạt không tước tự do bên cạnh
những đặc điểm chung còn có những đặc thù riêng biệt. Sự khác biệt này xuất phát
từ đặc thù của từng loại hình phạt và mục đích, đối tượng áp dụng. Người bị kết án
không bị cách ly khỏi xã hội, họ được cải tạo, giáo dục, hoạt động như các công dân
bình thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc
chính quyền địa phương nơi họ làm việc hoặc sinh sống.
Hiện nay còn có các quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án hình sự
nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng. Có quan điểm cho rằng
thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử [5]. Có người cho rằng, thi

hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn của quá trình tố tụng và do
vậy, được điều chỉnh bằng các quy phạm của luật tố tụng hình sự. Song cũng có ý
kiến cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một hoạt động hành chính tư pháp hình sự, có những nét đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một
số khác thì coi thi hành các hình phạt không tước tự do như là luật hình sự kéo dài.
Việc xác định thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn tố tụng,
luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa quan trọng để
làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự nói chung và thi hành các hình phạt không


tước tự do nói riêng. Xác định đúng bản chất thi hành các hình phạt không tước tự do
có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô
hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm bảo đảm thi hành các hình phạt không tước
tự do đạt hiệu quả cao.
Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi hành các
hình phạt không tước tự do như sau: Thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt
động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc
người chấp hành các hình phạt không tước tự do phải tuân thủ, chấp hành các hình
phạt mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức
và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới, cũng
như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.
1.1.2. Đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, các hình phạt chính
không tước tự do bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất.
Hình phạt tiền do cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo cơ chế riêng.
Việc thi hành án phạt chính không tước tự do còn có những đặc trưng riêng biệt
như sau:
- Người bị kết án này không bị cách li khỏi xã hội. Họ được cải tạo, giáo dục
tại môi trường sống bình thường với cộng đồng. Đây là đặc điểm quan trọng để phân
biệt hình phạt chính không tước tự do và hình phạt chính tước tự do. Một số người bị

kết án sau khi chấp hành án xong gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng
dẫn đến tình trạng quay trở lại con đường tái phạm, tái phạm nguy hiểm.. .Nên đối
với một số tội phạm mà mức độ và hành vi nguy hiểm là ít nghiêm trọng, phạm tội
lần đầu, trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi thì
không cần thiết phải áp dụng các hình phạt tước tự do, thay vào đó có thể áp dụng


các hình phạt chính không tước quyền tự do mà vẫn đạt được mục đích của hình
phạt.
- Với những mức độ nghiêm khắc khác nhau của từng loại hình phạt không
tước tự do, người phạm tội không bị tước quyền tự do được sống, lao động, học tập,
làm việc trong môi trường lành mạnh là cơ quan, tổ chức và địa phương mà trước khi
phạm tội người đó vẫn sống và công tác. Tuy nhiên, chính đặc trưng này cũng cho
thấy để việc thi hành án phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đạt được hiệu quả thì
đòi hỏi quy định về nội dung từng hình phạt và biện pháp này cũng như cơ chế thi
hành chúng phải phù hợp với mục tiêu đặt ra, tránh mang tính hình thức.
- Nếu việc thi hành hình phạt chính tước tự do được giao cho một cơ quan
chuyên trách thực hiện thì việc thi hành hình phạt chính không tước tự do được giao
cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị kết án cư trú, làm việc kết hợp
với gia đình tham gia vào việc cải tạo, giáo dục người phạm tội như: chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc, cơ
quan thi hành án dân sự.
Ngoài các nét đặc trưng chung nêu trên, việc thi hành từng hình phạt khác nhau
cũng có những nét đặc trưng xuất phát từ bản chất nội dung của từng hình phạt đó.
Tóm lại, thi hành các hình phạt không tước tự do tuy có quan hệ chặt chẽ với
các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc thù, và có
mục đích riêng biệt nên Tòa án phải xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội... trước khi ra quyết định hình phạt. Đối với
các hình phạt không tước tự do thì các quyền và lợi ích của người phạm tội ít bị xâm
hại hơn so với các hình phạt tước tự do. Với những hình phạt này, Nhà nước đã thể

hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong việc xử lý tội phạm, bảo đảm vấn đề tái hòa nhập
cộng đồng, tác động tích cực đến nhận thức của người phạm tội, giúp họ nhận ra


được lỗi lầm của mình để tích cực cải tạo, phấn đấu trở thành người có ích cho xã
hội.

1.2. Nội dung thi hành các hình phạt không tước tự do
1.2.1. Thi hành hình phạt cảnh cáo
Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Toà án tuyên án đối với
người bị kết án. Cảnh cáo là loại hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính, không
có khả năng đưa lại những hạn chế pháp lý liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi
ích thiết thân về thể chất và tài sản. của người bị kết án. Tuy vậy, với tư cách là khiển
trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội, cảnh cáo gây ra cho họ những
tổn hại nhất định về mặt tinh thần. Người bị hình phạt cảnh cáo đã phải chịu sự lên
án của Nhà nước về hành vi phạm tội của mình.
Người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến
mức miễn hình phạt [21] là hai điều kiện cần và đủ để Tòa án áp dụng hình phạt cảnh
cáo đối với người phạm tội. Ngoài hai điều kiện trên, luật không quy định thêm điều
kiện nào khác nhưng khi áp dụng hình phạt cảnh cáo với người phạm tội, Toà án phải
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trước khi
tuyên án. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm
2015.
Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên. Trong
thời hạn 07 ngày, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, Toà án đã xét xử sơ thẩm
phải gửi bản án cho người bị phạt cảnh cáo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị
quân đội nơi người bị phạt cảnh cáo cư trú hoặc làm việc, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã
xét xử sơ thẩm có trụ sở.



Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự
cấp quân khu có trách nhiệm theo dõi, thống kê, báo cáo theo quy định. (Điều 71
Luật thi hành án hình sự năm 2010) [25]
Mặc dù hình phạt cảnh cáo là một hình phạt chính nhưng nó vẫn thể hiện tính
nhân đạo cao vì cảnh cáo là một hình phạt không tước tự do, song khái niệm "hình
phạt cảnh cáo" cũng chưa được Bộ luật hình sự làm rõ. Điều 34 Bộ luật hình sự năm
2015 chỉ nêu ra những điều kiện để người phạm tội được áp dụng hình phạt cảnh
cáo, đó là: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”[21]. Trong thực tiễn
khi áp dụng hình phạt, các cơ quan và người áp dụng pháp luật vẫn còn khó khăn
trong việc xác định chính xác các khái niệm "hình phạt cảnh cáo", "miễn trách nhiệm
hình sự", "miễn hình phạt", "miễn chấp hành hình phạt"; v.v...
Thi hành hình phạt cảnh cáo cần sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân
dân, của các cơ quan, tổ chức và nhất là gia đình người được áp dụng hình phạt cảnh
cáo để giám sát, giáo dục họ. Việc vận dụng đúng đắn sức mạnh tổng hợp của chính
quyền địa phương, tổ chức, quần chúng, gia đình nhằm xóa bỏ những điều kiện, khả
năng tiếp tục tái vi phạm pháp luật hoặc phạm tội, làm cho người phạm tội chủ động
tích cực cải tạo trở thành người lao động lương thiện và có ích cho xã hội. Trong nội
dung cải tạo, giáo dục và giám sát người phạm tội, cơ quan, tổ chức,gia đình cần
phải có những biện pháp tích cực tác động làm cho người phạm tội thấy được hành
vi phạm tội của mình trước đó, hậu quả tác hại mà mình đã gây ra cho gia đình và
cho xã hội, thấy được chính sách khoan hồng, độ lượng của Đảng và Nhà nước, sự
quan tâm của gia đình, cơ quan tổ chức đối với họ, để họ ý thức được trách nhiệm
của mình, quên đi quá khứ sai lầm, phấn đấu lao động và làm việc để trở thành người
có ích cho gia đình và cho xã hội.


Do đặc thù của hình phạt cảnh cáo là biện pháp công khai lên án của Nhà nước

đối với người phạm tội nên cơ chế thi hành án phạt này không giống với cơ chế thi
hành các án phạt khác. Nếu như việc thi hành tất cả các bản án hình sự khác đều chỉ
được thực hiện sau khi bản án có hiệu lực pháp luật theo những thủ tục riêng thì án
phạt cảnh cáo lại được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên. Ngay sau khi tòa
tuyên án công khai cũng có nghĩa là họ đã chấp hành xong hình phạt cảnh cáo, hay
nói cách khác là hình phạt cảnh cáo không có tổ chức thi hành.Do đó, các tổ chức xã
hội, đơn vị công tác nơi người đó làm việc, hay Ủy ban nhân dân xã, phường nơi
người đó sinh sống khó có thể nắm được tình trạng của người bị kết án và dẫn đến hệ
quả là không thể theo dõi, giúp đỡ, cải tạo người bị kết án trở thành công dân có ích
cho xã hội.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định mới (Điều 364) về thi hành
hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa, mặc dù sau đó bản án, quyết
định vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị [19]. Người bị phạt cảnh cáo sau một năm,
nếu không phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại điểm a
Khoản 2 Điều 71 Bộ luật hình sự 2015.
1.2.2. Thi hành hình phạt tiền
Phạt tiền là hình phạt tước đi những quyền lợi vật chất của người bị kết án một
khoản tiền nhất định để bổ sung công quỹ Nhà nước, tác động lên tình trạng tài sản
của họ và qua đó tác động đến ý thức của người phạm tội, hạn chế các điều kiện về
tài sản mà người phạm tội có thể sử dụng điều kiện đó để tiếp tục phạm tội.
Tại khoản 1, Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “Phạt tiền được áp
dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạmkhác
do Bộ luật này quy định.” [20]


Cũng Tại khoản 1, 4 Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định sửa đổi, bổ
sung “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:
Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định;
Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật

tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định
”,“Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77
của Bộ luật này”[21] mở rộng thêm các trường hợp áp dụng hình phạt tiền là hình
phạt chính. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội,
sự biến động của giá cả (khoản 3, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015) để có thể đưa
ra một mức tiền phạt hợp lí vừa có tính răn đe, thức tỉnh người phạm tội, vừa có thể
đảm bảo cho hình phạt có tính khả thi.
Luật thi hành án hình sự năm 2010 không có một quy định cụ thể nào về việc
thi hành hình phạt tiền nhưng tại một số quy định khác như: Điều 267 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 ghi nhận: “quyết định đưa bản án phạt tiền hoặc tịch thu tài
sản ra thi hành phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, chấp hành viên, người bị
kết án và chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú ”. Theo quy
định tại khoản 5 Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Cơ quan thi
hành án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự trong
vụ án hình sự. Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
giúp chấp hành viên trong việc thi hành án. Nếu cần phải áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án thì cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác có nhiệm vụ
phối hợp”[18]; khoản 2 Điều 36 Luật thi hành án dân sự 2014 quy định “Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành
án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định
hình phạt tiền”[24]; khoản 2 Điều 445 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “Thủ


trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành hình phạt
tiền đối với pháp nhân. Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tiền được thực hiện theo
quy định của Luật thi hành án dân sự” [19] ... đều cho thấy Cơ quan thi hành án
dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các nội dung của bản án, quyết định dân sự,
hình sự, hành chính... có hiệu lực pháp luật liên quan đến tiền, tài sản và xử lý vật
chứng theo Luật thi hành án dân sự.

Hình phạt tiền sẽ được thi hành theo trình tự thủ tục của Luật thi hành án dân
sự. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với
phần bản án, quyết định về hình phạt tiền (không phân biệt là hình phạt chính hay
hình phạt bổ sung) và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành Quyết định thi
hành án đó. Chấp hành viên tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án,
thông báo thời gian tự nguyện thi hành án. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức đặc
biệt Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hànhxác minh điều kiện thi hành án của người bị
kết án. Vận động, thuyết phục người bị kết án tự nguyện thi hành án nếu xác minh có
điều kiện để thi hành án, trường hợp người bị kết án không tự nguyện thi hành thì
chấp hành viên phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, các cơ quan, tổ chức,
Ủy ban nhân dân cấp xã để tiến hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết
để đảm bảo bản án được thi hành. Trường hợp xác minh cho thấy người bị kết án
không có điều kiện thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự sẽ ra quyết định về việc
thi hành án chưa có điệu kiện thi hành, gửi quyết định về Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi xác minh để niêm yết. Tùy theo từng trường hợp, người bị kết án sẽ được xét
miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án theo quy định.[24]
Áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ các
yếu tố sau: Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với


người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt
mà điều luật quy định (Điều 99 Bộ luật hình sự năm 2015)
Thu nhập của người chưa thành niên quy định tại điều này được hiểu là thu
nhập thực tế từ hợp đồng lao động hoặc từ hoạt động sản xuất, kinh doanh và có thể
là thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên. Tài sản riêng của người chưa
thành niên là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đó có được do thừa kế, tặng cho...
Về miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt là những trường hợp người
phải thi hành các khoản tiền này theo bản án, quyết định của Toà án, nhưng có đủ các
điều kiện do pháp luật quy định được Toà án có thẩm quyền quyết định miễn hoặc

giảm khoản tiền mà họ phải thi hành (khoản 5 Điều 62, khoản 3 Điều 105 Bộ luật
hình sự năm 2015)
1.2.3. Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ Bộ luật Hình sự năm 1999
sửa đổi, bổ sung năm 2009 lần đầu tiên đã ghi nhận hình phạt cải tạo không giam giữ
là một trong những hình phạt chính. Điều 31, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009 đã quy định như sau:
“1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định
mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không
cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam
được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày
tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám
sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ
chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.


3. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo
không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà
nước. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập,
nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.”[20]
Bộ luật Hình sự năm 2015 có những thay đổi và bổ sung tiếp tụcghi nhận hình
phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính. Điều 36 Bộ luật
Hình sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà
đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết
phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm

giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải
tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam
giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để
giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ
chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa
vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ
5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng
tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập,
nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện
nghĩa vụ quân sự.


4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị
mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công
việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và
không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo,
người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy
định tại Luật thi hành án hình sự.”[21]
Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt
của Bộ luật hình sự. Xét về bản chất đây là loại hình phạt không tước tự do, không
buộc người phạm tội cách ly khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói chung.
Nội dung chính của hình phạt là thể hiện ở chỗ người bị kết án không bị tước quyền

tự do thân thể, không bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường nhưng họ phải
chịu sự giám sát, giáo dục, quản lý chặt chẽ của cơ quan tổ chức nơi họ làm việc
hoặc chính quyền địa phương nơi họ cư trú.
Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng,
đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng và khi các điều kiện khác
cho thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội.
Thời hạn cải tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm. Nghĩa vụ mà người bị kết
án phải thực hiện là nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm định kỳ và có thể nộp 5% đến
20% thu nhập để sung quỹ nhà nước.
Hình phạt cải tạo không giam giữ mang bản chất nhân đạo cao, khả năng cải
tạo và giáo dục người phạm tội cao. Khi áp dụng hình phạt Tòa án phải căn cứ vào
tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Để đảm bảo quyền lợi cho người bị kết án


cũng như sự công bằng của pháp luật, Bộ luật hình sự quy định thời gian tạm giữ,
tạm giam trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử được trừ vào thời gian chấp hành
hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải
tạo không giam giữ.
Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo
không giam giữ trong Bộ luật hình sự và Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 của Chính phủ về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cụ thể là:
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của
Nhà nước, phải tích cực tham gia lao động, học tập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công
dân, quy ước của thôn, làng ấp, bản, cụm dân cư nơi mình cư trú; làm cam kết và
thực hiện nghiêm chỉnh cam kết đó trước cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục [8].
Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự năm 2015
mở rộng theo chiều hướng tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của người chấp hành
án, phù hợp định hướng cải cách tư pháp và xu thế chung hiện nay.
Tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của người phải chấp hành án đối với đối
tượng không có việc làm hoặc bị mất việc trong thời gian chấp hành hình phạt thì

phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian chấp
hành hình phạt, không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ
nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới sáu tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh
hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Đây là quy định
thể hiện sự nhân đạo của Bộ luật.
Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nghiêm khắc nhất trong số các hình
phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt tù. Đối với các trường hợp phạm tội mà
nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền thì chưa đủ để giáo dục, trừng trị và
răn đe người phạm tội nhưng áp dụng hình phạt tù thì quá nặng,nghiêm khắc, nếu
Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường sống


bình thường mà người phạm tội đó vẫn có thể tự cải tạo, giáo dục được thì Tòa án có
thể cân nhắc và quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc thi hành
hình phạt này phải được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện nghiêm túc theo
đúng trình tự, thủ tục quy định.
Theo quy định tại khoản 6, Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010:
“Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có tham quyền
theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người chấp hành án tại xã, phường,
thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nước theo bản án đã có hiệu lực pháp
luật.”[25]
Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là một bộ phận của thi hành án hình
sự, hiện thực hóa một trong những hình phạt chính và có tính nhân đạo sâu sắc, do
cơ quan không chuyên trách, tổ chức xã hội, người có thẩm quyền thực hiện theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định;thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đạt
được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam
giữ phù hợp với đường lối xử lý tội phạm trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền và chủ trương của Bộ chính trị tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng

hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm ’’.[3]
Những quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ được ghi nhận
trong Luật thi hành án hình sự năm 2010, quy định từ Điều 72 đến Điều 81 của Luật
này như quy định về thủ tục thi hành quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam
giữ; quy định về thủ tục giảm thời hạn chấp hành án; Thủ tục miễn chấp hành án;
Nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục
người chấp hành án; Nghĩa vụ của người chấp hành án; Trách nhiệm của gia đình
người chấp hành án...


×