Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Sang kien kinh nghiem chương trình tập làm văn ở bậc tiểu học chính là cái gốc của chương trình tập làm văn ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.29 KB, 27 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đều biết: Chương trình tập làm văn ở bậc tiểu học chính
là cái gốc của chương trình tập làm văn ở THCS nhưng lên tới bậc THCS thì
yêu cầu đặt ra đối với học sinh là cao hơn, các thể văn mở rộng hơn, mới hơn
nên việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề hết
sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học sinh
hình thành về đạo đức và nhân cách cũng nhu trình độ học vấn cho các em.
Ngay khi đang học bậc THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện
kỹ năng viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu
thương, q trọng gia đình, bạn bè, có lịng u nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lịng nhân ái, tinh thần tơn trọng
lẽ phải, sự cơng bằng, lịng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng tư đó rèn cho
các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo. Bước đầu có năng lực cảm thủ các giá
trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học có năng lực
thực hành và năng lực sử dụng tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao
tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết đoạn văn, giáo viên phải
hướng dẫn cho các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ,
diễn đạt câu trong đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử
dụng các phương tiện liên kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức
diễn đạt khác nhau mà viết theo hướng quy nạp, diễn dịch, song hành hay
móc xích.
Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như
vậy để tạo thành văn bản yêu cầu phải có đoạn văn liên kết với nhau mà
thành (Khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện
đại, thông tin đại chúng cập nhật liên tục, khiến cho học sinh lao vào con
đường say mê nghiện sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện tử, sách kiếm

1



hiệp. Vì vậy, các em khơng cịn ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên,
việc viết đoạn văn lại là vấn đề càng đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện
cho các em. Hơn thế nữa, tập làm văn là mơn học thực hành tổng hợp ở trình
độ cao của môn Văn - Tiếng Việt, môn Tập làm văn được xem như vị trí cốt
lõi trong mỗi tương quan chặt chẽ giữa Văn và Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta
dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây
dựng cho các đoạn văn thông thường. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện
các em các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập
văn bản. Vì thế, cách xây dựng đoạn văn trong phân môn Tập làm văn được
coi như vị trí hàng đầu. Việc rèn kỹ năng viết đoạn cho các em học sinh
THCS theo trục tăng dần qua các thể loại văn học: Tự sự, miêu tả, biểu cảm,
nghị luận, thuyết minh, điều hành. Từ đó giúp các em biết vận dụng các thể
loại văn bản để phục vụ cho học tập và cho đời sống. Qua việc tiếp thu
những kiến thức của môn Văn - Tiếng Việt, học sinh vận dụng, sáng tạo, tổng
hợp để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau,
những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình các em bộc lộ
những tri thức, vốn sống, tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo
viên phải biết nắm lấy những ưu thế này để phát huy những khả năng của các
em, đồng thời qua việc kỹ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn, điều
chỉnh những sai lệch trong vốn sống, nhận thức, tư tưởng, tình cảm - đặc biệt
qua các thể loại văn học mà các em sẽ học trong chương trình.
Trên đây là những lý do, vị trí, vai trị của việc xây dựng đoạn văn cho
học sinh THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên tôi chọn đề tài này để
nghiên cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn được
tốthơn.

2



II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Bước đầu giạy cho học sinh những khái niệm về từng thể loại văn, làm
quen với những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài
qua các tiết học: lý thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu
cách xây dựng đoạn văn, bố cục đoạn văn, các câu chốt (Câu chủ đề) trong
đoạn văn viết theo các cách diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích... Từ
đó, cho học sinh tập viết đoạn văn, có vận dụng lý thuyết về thể loại văn ấy.
Tuy nhiên, hương pháp lý thuyết không quá năng.
Như chúng ta đã biết, bài viết được cấu thành bởi các đoạn văn theo
những phương thức và bằng những phương tiện khác nhau. Dựng đoạn được
triển khai từ ý trong dàn bài. Có thể đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và cũng
có thể một ý có nhiều đoạn. Trong đoạn văn thường có bố cục 3 phần: mở
đoạn, phát triển đoạn và kết đoạn. Ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn
văn có thể là đoạn diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành...
Để rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ
yêu cầu diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các phương tiện ngôn
ngữ sao cho phù hợp với ý của đoạn để hiệu quả biểu đạt cao hơn, đoạn văn
có sức cuốn hút hơn với người đọc. Kỹ năng dựng đoạn văn gắn với kỹ năng
luyện nói trên lớp. Có triển khai ý thành đoạn mới tiến hành được. Đây là
những thao tác, những kỹ năng có khi thực hiện và rèn luyện đồng thời cùng
một lúc.
Qua đó ta có thể hiểu được: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn
bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi vào đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống
dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do
nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường từ ngữ chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ
ngữ làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (Thường là chỉ từ, đại

3



từ và các từ đồng nghĩa nhằm duy trì đối tượng người biểu đạt. Câu chủ đề
mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và
đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển
khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, quy nạp, song
hành...
Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện
liên kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết
trong đoạn văn: Dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ,
các cụm từ thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết khái quát... Và dùng
câu nối trong đoạn văn.
Như vậy, các phương tiện liên kết vốn mang ý nghĩa nhưng đồng thời
nó cũng là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác,
lại có những phương tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau nên cần lựa
chọn các phương tiện liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của người viết,
với sự việc được phản ánh và tình huống giao tiếp cụ thể.
Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của
học sinh để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh
trong việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho
chương trình THPT. Mặc dù vậy, học sinh ở các trường THCS, phần lớn có
khuynh hướng khơng thích học văn mà đặc biệt là phân mơn Tập làm văn.
Và vì thế nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu và việc sáng tạo các kỹ
năng viết đoạn văn của các em.
2. Thực trạng của vấn đề
Như chúng ta đã biết vấn đề nghiên cứu, rèn luyện kỹ năng viết đoạn
văn cho học sinh đã đặt ra từ lâu nhưng chưa được quan tâm nhiều do phân
môn tập làm văn chưa được xem là phân mơn chính và có nhiều quan niệm
khác nhau.


4


Đây là bộ mơn khó đặc biệt u cầu kỹ năng càng khó hơn, địi hỏi
chúng ta cần dày cơng, kiên trì dạy các em. Qua đó, hình thành thói quen, kỹ
năng phân tích đề, lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, trình bày, diễn đạt.
Trong đó, cách viết đoạn, dừng đoạn càng quan trọng trong bước đầu lập văn
bản. Cũng từ dựng đoạn, nhiệm vụ của giáo viên ngữ văn là phát huy năng
lực tư duy, năng lực sử dụng ngơn ngữ, giúp các em biết tích lũy vốn kiến
thức, biết huy động vốn kiến thức, biết đặt ra các vấn đề và giải quyết các
vấn đề ấy. Qua đó, biết trình bày kết quả tư duy của mình một cách rõ ràng
chặt chẽ, có sức thuyết phục trước từng vấn đề, từng kiểu văn bản, khi viết
đoạn và trong giao tiếp. Là phân mơn có tính thực hành cao, nên giáo viên
cần cho học sinh đọc nhiều đoạn văn mẫu, viết nhiều đoạn văn để việc tạo
lập văn bản được dễ dàng hơn. Đó là những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
của giáo viên Ngữ văn trong bước rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học
sinh THCS.
Cũng có bộ mơn Ngữ văn, nhưng theo khảo sát, phần lớn các em học
phân môn Tập làm văn còn yếu mà đặc biẹt là cách dựng đoạn văn khiến cho
giáo viên và học sinh còn rất lúng túng. Thường thì thời lượng quá ngắn mà
kiến thức nhiều, nên học sinh khơng thể tìm hiểu kỹ các đoạn văn mẫu. Phần
lớn học sinh hiểu sơ sài về mặt Lý thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và
bố cục đoạn văn càng bối rồi: việc rèn kỹ năng viết được tiến hành trong các
tiết phân tích đề, dàn ý và dựng đoạn, liên kết đoạn từ thấp đến cao, từ một
tiêu đề, một ý, một đoạn văn đến nhiều đoạn, cuối cùng là một đoạn văn bản
hoàn chỉnh. Khi viết còn chưa hiễu kỹ đề bài nên hay bị sai lệch. Cho nên, có
nhiều trường hợp viết thừa hoặc thiếu chưa xác định cụ thể đề tài, chủ để của
đoạn văn. Quá trình lập luận, trình bày chưa chặt chẽ, lôgic và sinh động.
Chưa biết vận dụng nhiều phương pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc
nhiều đoạn văn. Vì thế các đoạn văn thường hay đơn thuần, nhàm chán.


5


Phần lớn học sinh chưa biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng
kiểu văn bản. Và đặc biệt là phong cách văn bản.
Bài làm của học sinh là kết quả của quá trình tiếp thu lý thuyết
và rèn luyện các kỹ năng viết văn của học sinh và là sự vận dụng tổng hợp
các năng lực tư duy, trình độ, vốn sống, vốn ngơn ngữ và cả những cảm xúc
và rung động thẩm mĩ. Cho nên, việc rèn luyện các kỹ năng cho học sinh là
cả quá trình lâu dài, việc tiến bộ của các em cũng chậm (khơng như các mơn
khoa học tự nhiện). Vì vậy, giáo viên khơng nên nóng vội mà phải rèn luyện
cho học sinh tính kiên trì và giáo viên cũng cần kiên trì khi dạy cho học sinh.
Những tình trạng viết đoạn văn ở THCS như trên là do nhiều nguyên nhân.
Điều ta cần nói trước là nguyên nhân khách quan: nó phụ thuộc vào tư
tưởng lập nghiệp của học sinh sau này như thi vào các trường Cao đẳng, Đại
học Ngữ văn ít hơn các mơn khác. Và điều quan trọng nhất là cơ chế thị
trường thực dụng, con người khô khan, kênh thơng tin văn hố nghệ thuật đa
dạng, nhiều loại hình cuốn hút học sinh. Hơn thế nữa phụ huynh lại định
hướng cho con em mình theo khuynh hướng trên.
Và ngồi ra nó cịn phụ thuộc vào ngun nhân chủ quan là mơn Tập
làm văn khó học, trừu tượng, học sinh khơng thích học, khó trở thành giỏi
văn. Hơn thế nữa nội dung, chương trình trong SGK cịn q tải, trình độ
giáo viên chưa đáp ứng, chất liệu của mơn Ngữ văn bị giảm sút vì đưa ra
nhiều thể loại văn bản Nhật dụng, văn bản Chỉnh luận, văn bản Nghị luận
vào, coi nhẹ giảng bình, giáo viên giao nhiều bài tập, khó được điểm cao.
Trên đây là tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh THCS và
nó cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Cho nên
chúng ta càng quan tâm nhiều hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm văn,
đặc biệt là dạy một tiết dựng đoạn văn trong văn bản.

3. Các biện pháp tiền hành để giải quyết vấn đề

6


a. Phương pháp nghiên cứu tìm hiểu
Học sinh là chủ thể trong q trình dạy học để phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình
nghiên cứu, tìm hiểu cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im
lặng đến mức tối đa để khuyến khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm
văn. Vậy, trong tiết học Tập làm văn mà đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn
văn, hướng dẫn các kỹ năng nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng các kiến thức
đã học để nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng các kiến thức đã học để dụng
đoạn theo đặc điểm thể loại để tạo lập văn bản.
b. Phương pháp kiểm tra, khảo sát
Với phương pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc
chắn các thao tác từ lý thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ
đó, ta mới đi vào kiểm tra, khảo sát để thấy được sự vận động tổng hợp, để
sáng tạo văn bản qua nhiều bước trong quá trình rèn luyện các kỹ năng. Đó là
điều kiện để đánh giá học sinh thơng qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở
nhà) đòi hỏi phải đánh giá đúng năng lực của học sinh và đòi hỏi một sự
nhạy cảm của thầy trước yêu cầu thực hành của học sinh.
c. Phương pháp cố vấn, chuyên gia.
Đây là những phương pháp khó đối với học sinh. Học sinh thường
khơng chú ý đến những cái khó khăn này và cũng không cần hỏi ai những
vấn đề cần tháo gỡ, cần đến chuyên gia cố vấn.
Mặc dù, mức độ lý thuyết mang tính trừu tượng, việc kiểm tra, đánh
giá, cố vấn, chuyên gia, giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức vào viết
văn rõ ràng hơn.
Như vậy, việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nói chung và viết đoạn

văn biểu cảm nói riêng giáo viên phải định hướng cho các em biết đối chiếu
giữa thực hành và lý thuyết, đối chiếu kết quả thực hành của mình với yêu

7


cầu chung. Nhưng phương pháp cố vấn, chuyên gia phải được liên hệ một
cách chặt chẽ giữa giáo viên với học sinh.
Cũng như các bài văn khác, đoạn văn trong văn biểu cảm cũng có
những yêu cầu cụ thể nhằm giúp học sinh nắm một cách khái quát về mặt
hình thức cũng như nội dung đoạn văn biểu cảm. Từ đó, các em mới có thể
viết đoạn (xây dựng đoạn) đúng với yêu cầu. Đoạn văn biểu cảm với việc
nâng cao năng lực cảm thụ văn học của học sinh là những yêu cầu, nội dung
liên quan đến mật thiết với nhau.
Về mặt hình thức của đoạn văn:
Yêu cầu trước hết là học sinh phải nắm được dấu hiệu, quy ước khi
viết đoạn văn biểu cảm.
Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu
dòng đến chỗ chấm xuống hàng.
Trước khi viết đoạn văn biểu cảm, giáo viên hướng dẫn cho các em
tìm hiểu đề, xác định ý và từ việc xác định được ý chính của bài mà đi đến
xây dựng câu chủ đề. Việc viết câu chủ đề đúng với ý chính đã tìm được ý
chính của bài mà đi đến xây dựng câu chủ đề. Việc viết câu chủ đề đúng với
ý chính đã tìm được ở trên sẽ giúp học sinh định hướng cách lựa chọn nội
dung trình bày theo cấu trúc diễn dịch, quy nạp hay các kiểu cấu trúc khác.
Đồng thời cũng định hướng cho các em lựa chọn các phép liên kết, cách
dùng từ ngữ cho phù hợp với cảm xúc trong bài viết của mình.
Câu chủ đề có thể đứng ở đầu đoạn (theo cấu trúc diễn dịch), có thể
đứng ở cuối đoạn (theo cấu trúc quy nạp)... Câu chủ đề phải mang nội dung
khái quát, lời lẽ ngắn gọn, hàm xúc và thường đủ hai thành phần chính của

câu: chủ ngữ và vị ngữ. Các câu cịn lại trong đoạn văn có nhiệm vụ diễn
giải, chứng minh, làm rõ hoặc kết luận những cảm xúc đã thể hiện trong câu
chủ đề.

8


Các câu trong đoạn văn biểu cảm phải được liên kết với nhau một cách
chặt chẽ bằng các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ - câu liên kết,
hoặc các mỗi quan hệ phụ thuộc giữa các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài.
Đoạn văn phải có sự lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn
mực, giàu giá trị biểu cảm để gọi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết,
có sức thuyết phục, lay động người đọc, người nghe. Từ ngữ ấy phải thể hiện
được thái độ rõ ràng của người viết: đó là tình cảm buồn, vui, u ghét, hay
thích thú... Có thể biểu cảm trực tiếp hoặc biểu cảm gián tiếp hoặc kết hợp cả
hai lối biểu cảm...
Về mặt nội dung:
"Đoạn văn biểu cảm thể hiện được các năng lực: Tri giác ngôn ngữ
nghệ thuật, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích, chứng minh, năng
lực cảm xúc thẩm mĩ.."
(Trích: Giảng dạy Tập làm văn ở Trường THCS - TS. Lê Xuân Soan - Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh).
Trên đây là những yêu cầu cơ bản nhất để có thể giáo viên vận dụng
trong nhà trường vào nghiên cứu soạn giảng Tập làm văn, đặc biệt là vận
dụng vào các tiết thực hành Tập làm văn trong trường THCS.
Rèn luyện các kỹ năng làm văn nói chung và viết đoạn văn biểu cảm
nói riêng khơng chỉ xuất phát từ mục đích, u cầu của mơn học (mang tính
thực hành tổng hợp cao) trong nhà trường THCS mà còn là trách nhiệm,
nhiệm vụ của người thầy giáo trong chương trình thay sách giáo khoa hiện
nay. Điều quan trọng nhất khi viết đoạn văn biểu cảm là học sinh nắm vững

các thao tác, cách thức trình bày đoạn văn biểu cảm. để từ các kỹ năng Tập
làm văn phát triển thành kỹ xảo, thói quen làm văn.
Để thực hành những điều nói trên đây, chúng ta hãy thử kiểm chứng
bằng một ví dụ cụ thể sau:

9


Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao" Đêm qua ra đứng bờ ao"
"Đêm qua ra đứng bờ ao,
Buồn trông cá cá lăn, trông soa soa mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
Chuôi sao tinh đầu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ"
Trên đây là một bài văn biểu cảm về một bài ca dao. Vì vậy, để văn
biểu cảm bao giờ cũng nêu ra được đối tượng biểu cảm và định hướng tình
cảm cho bài viết. Xác định rõ các bước làm văn biểu cả: Tìm hiểu đề, tìm ý,
viết các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài.
Để tiến hành rèn luyện các kỹ năng Tập làm văn, trước hết học sinh
phải xác định ý cho đoạn văn.
* Xác định ý cho bài văn biểu cảm
Giáo viên định hướng cho học sinh xác định các vấn đề sau:
+ Đối tượng biểu cảm trong đề bài trên?
+ Mục đích biểu cảm?
+ Cảm xúc, tình cảm trong các trường hợp.

+ Tình cảm, cảm xuác phải chân thật, trong sáng có sức thuyết phục.
+ Lời văn, hơi văn, mạch văn phải phù hợp, gợi cảm.
Trước hết chúng ta hình dung cụ thể đối tượng biểu cảm ở đây là: Bài
ca dao. Bài ca dao ấy nói về lịng thương nhớ và tình cảm thuỷ chung của
nhân vật trữ tình khi xa quê hương.

10


Hình thành được cảm xúc tình cảm của mình sau khi đọc xong bài ca
dao.
Lời văn, giọng văn phải bộc lộ cảm xúc, tình cảm chân thành khi đọc
hiểu bài dao: Bài ca dao thấm thía bao nỗi buồn thương tha thiết, mong chờ,
nhớ trơng...
Q trình tìm hiểu đề là quá trình xác định ý cho bài văn biểu cảm. Ý
của bài văn nằm ngay trong từ ngữ, hình ảnh: Đêm qua, đứng bờ ao, trông,
buồn trông, buồn trông (mức độ tăng dần), rồi: sao ơi, sao hỡi, tưởng, nhớ ba
năm, Đà mòn, dạ chẳng mòn; trong kết cấu của bài ca dao.. Vấn đề là giáo
viên tổ chức hướng dẫn như thế nào để học sinh phát hiện ra các ý chính của
bài mà đề u cầu. Có như vậy việc tìm ý, triển khai ý mới trở thành kỹ năng
ở các em. Tránh tình trạng khi viết đoạn lại khơng trúng với ý mình đã xác
lập, viết lan man, từ ngữ nghèo nàn không gọi ra được cảm xúc, tình cảm của
người viết.
Chẳng hạn theo yêu cầu của đề văn trên dây, giáo viên tổ chức cho các
em được các ý chính:
+ Nỗi cơ đơn, buồn vắng, chờ mong.
+ Cảnh vật với nỗi nhớ cố hương
+ Sự gắn bó thuỷ chung của người lữ khách đối với gia đình và q
hương
+ Nỗi lịng của nhân vật trữ tình trong bài ca dao và cảm xúc, tình cảm

của tâm hồn con người.
Như vậy, chúng ta đã xác định các ý trong bài văn biểu cảm và mỗi ý
trên đây có thể được xây dựng bằng một hoặc hai đoạn văn.
* Xác định câu chủ đề
Từ những ý đã được xác định trên đây, giáo viên hướng dẫn cho học
sinh tập viết các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn

11


văn. Vì có viết được câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và
lựa chọn nội dung trình bày của đoạn văn.
Trước hết, chúng ta xác định câu chủ đề mang tính khái quát cho toàn
bộ bài văn:
Bài ca dao "Đêm qua ra đứng bờ ao" diễn tả bao nỗi buồn thương nhớ,
cô đơn và lòng chung thuỷ của người lữ khách đối với quê nhà.
Ta xác định câu chủ đề cho từng đoạn văn như sau:
Câu chủ đề 1: Tâm trạng của người lữ khách luôn lẻ loi, trống vắng,
chờ trông cứ vương vẫn mãi không thôi.
Câu chủ đề 2: Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình diễn ra triền
miên.
Câu chủ đề 3: Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương, nhớ - tấm lòng
thuỷ chung đối với quê nhà.
Câu chủ đề 4: Tấm lòng thuỷ chung toả sáng trong bài ca và tâm hồn
con người.
Từ đó, giáo viên định hướng cho các em viết các đoạn văn bằng việc
lựa chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết.
* Liên kết đoạn văn và cách dùng từ, ngữ khi xây dựng đoạn văn.
Cũng như các kiểu văn bản khác, bài văn biểu cảm là một thể thống
nhất về hình thức, hồn chỉnh về nội dung. Trong đó, đoạn văn có một vai trò

hết sức quan trọng trong việc cấu thành một văn bản biểu cảm hồn chỉnh. Vì
vậy, các câu, các đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau một cách chặt
chẽ.
Rèn kỹ năng viết đoạn văn và việc sử dụng các cách liên kết là một
thao tác không thể thiếu được. Các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài có thể
được viết theo các cách như sau:
*Cách viết đoạn văn biểu cảm

12


Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu
cầu của các đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài.
Đoạn văn mở bài: Khái quát được cảm xúc, tình cảm của người viết
khi đọc bài ca dao " Đêm qua ra đứng bờ ao", nêu lên những ấn tượng sâu
sắc nhất của mình.
Đoạn thân bài: Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của người viết
bằng việc sử dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần lựơt nêu lên
những suy nghĩ riêng của mình về những khía cạnh của tác phẩm. Khơng lan
man, dàn đều mà gây nên xốy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi
"a" qua "b, c, d".
Đoạn kết bài: Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên
hệ tránh dài dòng, trùng lặp, đơn điệu.
Thao tác văn bản: Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà
rất cụ thể. Phải chỉ ra được yêu tích, thú vị.. ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích,
thú vị? Nghĩa là phải phân tích, trích dẫn.
Có lúc phải khen chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua
những bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm
quen dần cách bình văn, biến thành kỹ năng, kỹ xảo. Lúc nào viết được lời
bình hay, sâu sắc thì bài cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.

Có úc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà
nhớ đến hiện tượng khác tức là liên tưởng.
Viết lời bình, so sánh, liên tưởng là thao tác cơ bản trong văn biểu
cảm.
* Cách viết đoạn mở bải trong văn biểu cảm
Trước hết nó phải nói rừng mở bài hay nhất, biểu cảm hay nhất là đạt
hai yêu cầu sau:
Tính khái quát

13


Tính định hướng
Từ đó, ta có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học
sinh tập, (bắt chước nhưng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận dụng cách
bài ấy cho bài của mình.
Chẳng hạn, khi viết đoạn văn mở bài cho đề bài trên ta có thể viết như
sau:
Từ lúc lọt lịng, khi cịn nằm trên nơi, ta đã được nghe những lời ru
ngọt ngào, xúc động của bà, của mẹ; à ơi, "Anh đi anh nhớ quê nhà:. Lời ru
ấy cứ giăng mắc mãi lòng ta. Bài ca dao "Đêm qua ra đứng bờ ao" còn là một
kỷ niệm khơng phai mờ trong tâm trí tơi từ thuở bé thơ. Lớn lên, tôi vẫn
thường ru em như thế:
Đêm qua ra đứng bờ ao
"Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mơ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,

Chi sao tinh đẩu đã ba năm trịn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ"
Đoạn văn trên được viết theo lối biểu cảm trực tiếp: biểu lộ cảm xúc,
tình cảm của người viết thông qua việc sử dụng các từ ngữ: ta đã được nghe..
khơng phải mờ trong trâm trí tơi tư thuở bé thơ...
* Cách viết đoạn thân bài

14


Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lưu ý học sinh: Giọng văn,
hơi biểu cảm khơng gị bó, khô khan, đảm bảo được các yêu cầu diễn đạt,
đùng từ, đặt câu, lựa chọn cho thích hợp.
Từ đề bài trên đây, ta có thể viết các đoạn văn thân bài như sau (lưu ý
mỗi đoạn văn được viết ra phải xuất phát từ các ý đã tìm được ở phần trên).
Đoạn văn 1: Thao thức, lẻ loi, chỉ biết ra đứng bờ ao, nơi vắng vẻ ở
cuối sân, ngõ sau hay bờ ao. Cứ trông gần, trông xa, nhưng nào thấy, vì " cá
lặn, sao mờ" tự bao giờ. Các điệp từ (trơng, cá, xao) gợi lên trong lịng lữ
khách sự buồn vắng, chơi vơi...
"Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ"
Nỗi niềm ấy mới chỉ diễn ra "đêm qua", còn đầy vơi trong lịng. Giữa
đêm khuya trống vắng, khơng một ngừoi thân thương, chỉ cịn biết " buồn
trơng" và khẽ thốt lên"
"Buồn trơng con nhện giăng tơ
Nhên ơi, nhện hỡi nhện chờ mỗi ai?
Nhện cỏn con bé tí. Nhện sao thấu hiểu nỗi buồn nhớ cô đơn của kẻ xa
quê hương. Đêm đã về khuya, sao mai đã "chênh chếch" nằm nghiêng
nghiêng trên bầu trời. Rồi "sao mờ" sắp tàn canh. Vẫn chỉ một mìnhli khách

cơ đơn và trơ trọi. Lại " buồn trông" lên bầu trời, khi hỏi "sao mai" để trang
trải lịng mình:
"Buồn trơng chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ?
Nỗi buồn nhớ quê hương, người thân không sao kể xiết! Sau lời cảm
thán "nhện ơi, nhện hỡi", "sao ơi, sao hỡi"? là những tiếng khẽ thở dài, cất
lên, những giọt lệ rưng rưng rơi xuống. Đó là tâm trạng lẻ loi, trống vắng,
chờ trông cứ vương vấn mãi không thôi.

15


Câu in đậm trong đạon văn trên là câu chủ đề (cịn gọi là câu chốt)
đứng ở vị trí cuối đoạn có tác dụng khái quát cảm xúc tâm trạng của người lữ
khác được diễn giải ở các câu trên. Câu chốt này chính là câu chủ đề mà ta
đã xác định ở phần trên.
Đoạn văn 2:
Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình cứ diễn ra triền miên. Không chỉ
mới "đêm qua" mà diễn ra trong "đêm đêm". Khơng chỉ một tháng, một năm
mà là "ba năm trịn", một thời gian dài. Không chỉ "buồn trông" mà là
"tưởng", là "nhớ", day dứt triền miên, không nguôi. Chữ " tưởng" là một nét
tâm trạng buồn nhớ, ngóng trơng vơ cùng da diết:
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm rồi"
Đến đoạn văn này câu chủ để lại đặt ở đầu đoạn để nêu lên "nỗi nhớ"
mang tính khái qt nhất, hàm súc nhất cho tồn đoạn văn.
Đoạn văn thứ ba:
Hai câu cuối là hình ảnh tương phản rất đặc sắc: "đá mòn" với "dạ
chẳng mòn":
"Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Tào khê nước chảy hãy còn trơ."
Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương nhớ và cơ đơn - đó là tấm lịng
thương nhớ, thuỷ chung đối với q nhà.
Như vậy, mơ hình cơ bản của đoạn văn biểu cảm là diễn dịch và quy
nạp. Nó phù hợp với mạch cảm xúc, tình cảm của người viết. Luyện viết
đoạn văn biểu cảm ở yêu cầu không khó khăn lắm là như cách trình bày trên.
Tuy nhiên, để viết được đoạn văn theo các cách trên, thì người viết phải bám
sát vào các ý của bài, rồi luyện viết với từng ý chính đã được xác định và các
câu chủ đề đã được xác lập ban đầu.

16


* Cách viết đoạn văn kết bài
Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ.
Vì vậy, để có được một bài văn hồn chỉnh không thể không viết đoạn kết
bài.
Từ câu chủ đề đã xác định được như trên, ta có thể viết đoạn văn kết
bài như sau:
Ca dao là một tấm lòng "Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ" là tấm
lòng của nhân dân của những ai xa gần, của ông tơi, bà tơi, mẹ tơi, chị em
tơi... Tấm lịng son sắt thuỷ chung đối với gia đình, q hương ln toả sáng
trong bài ca dao và tâm hồn con người.
Tóm lại, rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn trong bài văn biểu cảm là
thực hiện các tác tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng câu chủ đề - để từ đó định
hướng cho việc xây dựng từng đoạn văn. Cứ tập đi tập lại như thế ta sẽ thành
thao. Không phải chỉ thành thạo dựng đoạn độc lập mà thành thạo và nhạy
cảm trong dụng đoạn của bài văn biểu cảm. Từ việc " Tập làm" đến việc
"làm văn" là một quá trình đi từ việc rèn luyện kỹ năng cần thiết đến kỹ xảo
(thói quen, thành thạo)- Khơng khó nhưng cũng không đơn giản chút nào nếu

cả thầy và trị khơng chun tâm và khơng u thiết tha một tác phẩm văn
học.
Và thao tác cuối cùng trong một giờ luyện viết đoạn văn là: Luyện
"nhận xét văn người, sửa văn mình".
Một số cách luyện tập viết văn biểu cảm ở đây không phải là tất cả
nhưng là cách cơ bản, chúng ta nên cố gắng thực hành. Trước khi thực hành
đề bài các em đọc kỹ phần dẫn giải, miêu tả về các cách ấy, tiếp nhận về mặt
lý thuyết rồi bắt tay và làm theo sáng tạo.
Trong khâu tiến hành nếu thấy có gì chưa hợp lý với mình thì cần có
sự điều chỉnh hoặc sáng tạo thêm.

17


4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm.
Để kiểm chứng kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh tôi tiến
hành các bước thực nghiệm sau:
- Chọn đối tượng học sinh đại trà ở hai lớp: 7A và 7B ( Đủ 4 đối
tượng: giỏi, khá, trung bình, yếu).
- Sự chuẩn bị của giáo viên ở 2 lớp:
+ Ở lớp 7A: Tôi tổ chức ôn tập các đơn vị kiến thức về kiểu loại biểu
cảm.
+ Ở lớp 7B: Tôi tổ chức cho các em rèn luyện cách viết các đoạn văn
Biểu cảm.
- Sự chuẩn bị của học sinh:
+ Sách giáo khoa, vở ghi, vở nháp, vở bài tập, các tài liệu có liên quan
đến bài học: Cách cảm thục các dạng Tập làm văn- lớp 6,7.
- Về thời gian: Dạy - học 3 tiết/ lớp. Bố trí học vào 1 buổi chiều
(Ngồi giờ học chính khố)
- Ra đề: u cầu của đề bài phải mang tính vừa sức, tính khoa học,

chính xác, phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7.
Đề 1: Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí
Minh (Lớp 7A)
Đề 1: Cảm nhận của em về bài thơ " Rằm tháng giêng" của Hồ Chí
Minh (Lớp 7B)
QUY TRÌNH DẠY - HỌC
Ở LỚP 7A - CHÚNG TÔI THỰC HIỆN CÁC BƯỚC SAU:
Hoạt động 1: Khởi động bằng việc kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của các
em và GV chọn một bài văn biểu cảm cho học sinh đọc trước lớp rồi trình
bày các ý chính trong bài văn

18


Hoạt động 2: GV tổ chức cho HS ôn tập các đơn vị kiến thức đã học
về văn biểu cảm. Cụ thể:
I. Khái niệm văn Biểu cảm
II. Đặc điểm của văn Biểu cảm
III. Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 3: GV củng cố kiến thức và tiến hành khảo sát bằng đề bài
sau: Cảm nhận của em về bài thơ :"Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh
Hoạt động 4: GV thu bài và dặn dò học sinh.
Ở LỚP 7B TÔI THỰC HIỆN CÁC BƯỚC SAU
Hoạt động 1: GV tổ chức cho học sinh nắm lại các đơn vị kiến thức sau:
I. Khái niệm văn Biểu cảm
II. Đặc điểm của văn Biểu cảm
III. Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 2: Tổ chức rèn luyện các kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm:
1. Xác định ý cho bài văn Biểu cảm.
2 Xác định câu chủ đề cho mỗi đoạn văn

3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ ngữ khi xây dựng đoạn văn
4. Cách viết đoạn văn Biểu cảm.
4.1. Cách viết đoạn văn Mở bài.
4.2. Cách viết đoạn văn Thân bài.
4.3. Cách viết đoạn văn Kết bài.
Hoạt động 3: GV củng cố cách viết đoạn văn Biểu cảm và tiến hành
khảo sát bằng đề bài sau:
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí
Minh.
Hoạt động 4: GV thu bài và dặn dò học sinh

19


KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NHƯ SAU
Phân loại
Lớp

Giỏi
SL

Khá
%

SL

Trung bình
%

SL


Yếu, kém

%

SL

%

7A= 25

0

0

3

12

15

60

7

28

7B=24

3


12.5

10

41,7

8

33.3

3

12.5

Nhận xét chung qua 2 kết quả trên
Qua quá trình Dạy - Học và tiến hành khảo sát thực nghiệm theo
phương pháp tích cực, chúng tơi nhận thấy một số điểm sau:
Đối với việc tổ chức Dạy - Học ở lớp 7A - khi chưa vận dụng triệt để
phương pháp phân tích cực theo chuyên đề thay SGK THCS và các bước tiến
hành như đã trình bày trên đây chúng ta thấy: Số bài khá, giỏi chiếm tỉ lệ quá
thấp. Số bài điểm yếu kém vẫn chiếm tỷ lệ cao.
Rõ ràng nếu khơng có sự nghiên cứu, đầu tư các cách dạy học, ơn
luyện cho học sinh thì hiệu quả thực hành viết đoạn văn trong văn bản của
các em là rất thấp. Nếu không tổ chức các buổi ôn tập một cách bài bản, khoa
học đúng theo phương pháp đổi mới thì sẽ tạo cho các em sự hứng thú, say
mê, tích cực trong giờ làm văn.
Ngược lại khi đã vận dụng triệt để các bước dạy học làm văn (như đã
thực hiện ở lớp 7B thì học sinh hồn tồn chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến
thức và vận dụng kỹ năng làm văn vào quá trình xây dựng đoạn văn - tạo lập

văn bản. Và tất yếu học sinh sẽ thích học phân mơn tập làm văn. Hiệu quả
dạy học sẽ cao hơn.
Qua đây chúng ta thấy thời lượng dành cho luyện tập viết đoạn văn
trong tiết dạy chính khố là q ít. Vì vậy học sinh chưa được rèn luyện
nhiều để viết đoạn, tạo lập văn bản.
Điều cốt lõi là làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết dạy học thực
hành - rèn kỹ năng cho học sinh đều thể hiện tính nghiêm túc của người dạy
và những nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu con trẻ, những dấu ấn cảm xúc
cá nhân trong qúa trình tìm hiểu, nghiên cứu, soạn giảng.

20


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS có tầm quan
trọng rất lớn trong việc dạy và học Tập làm văn. Nó chiếm vị trí đặc biệt
trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành
con người có trình độ học vấn phổ thơng cơ sở, chuẩn bị cho họ học ở bậc
cao hơn, hoặc vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Xét về môn học, đây là phân môn thực hành tổng hợp ở mức độ cao
của phân mơn Văn và Tiếng Việt, nó có mối tương quan chặt chẽ với văn và
Tiếng việt. Dạy luyện viết đoạn văn là dạy cho học sinh nắm bắt văn bản,
biết xây dựng các loại văn bản thông thường. Ta hiểu đầy đủ rằng dạy cách
viết đoạn văn là dạy cho học sinh hiểu từng loại văn bản cụ thể, cách xây
dựng đoạn văn trong bất kì loại văn bản nào. Đây là bước đi, thao tác, cách
thức trong quá trình học tập văn bản.
Trong chương trình hiện nay, bộ mơn Tập làm văn được tích hợp cùng
phân mơn Văn và Tiếng việt trong chương trình Ngữ văn mới. Tiết dạy dựng
đoạn trong văn bản cũng được quan tâm nhiều hơn trong việc nắm được thể

loại trong chương trình. Từ đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng
và hay bằng các hình thức, thao tác mà chủ yếu là viết đoạn văn một cách
sáng tạo tổng hợp những kiến thức tiếp thu được qua phân môn Tiếng Việt và
văn học. Viết đúng, viết hay là nhiệm vụ hàng đầu mà giáo viên quan tâm,
yêu cầu viết đúng về đề tài thể loại, những kiểu văn bản khác nhau trong
cuộc sống đặt ra cho các em. Ngoài ra, qua việc rèn luỵên viết đoạn văn cũng
trực tiếp tham gia rèn luyện một số đức tính cho học sinh như lịng nhân ái,
tính trung thực, sự kiên trì lịng dũng cảm... Viết đoạn văn góp phần phát

21


triển trí tưởng tượng, óc sáng tạo để từ đó giúp các em biết phân biệt cái sai,
cái tốt, cái xấu... Và cũng từ đây các em được nuôi dưỡng tâm hồn vươn tới
cái đẹp tốt hơn.
Qua tiết học ta nắm được ưu thế của học sinh và phát huy được những
khả năng làm văn của các em. Từ đó, học sinh có dịp để uốn nắn điều chỉnh,
hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, đời sống tư tưởng tình cảm của các
em. Cũng từ đó, hiệu quả giáo dục của Tập làm văn nói chung, viết đoạn văn
nói riêng được nâng cao và được học sinh yêu thích.
Qua việc rèn luỵên kỹ năng viết đoạn văn, học sinh được uốn nắn, điều
chỉnh, hạn chế những thiết sót trong q trình làm văn ở những cấp học cao
hơn. Ngồi ra các em còn được bồi dưỡng về tâm hồn, trí tuệ, biết rung động
trước cái đẹp, biết hướng tới giá trị thẩm mĩ, có năng lực sử dụng ngơn ngữ,
biết tích luỹ vốn tri thức và vận dụng trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh khác
nhau. Dùng từ đặt câu, viết đoạn văn sẽ được các em vận dụng tốt trong mọi
điều kiện để hướng tới cái chân - thiện - mĩ, biết tự hào và sử dụng Tiếng
Việt trong sáng, hoàn mĩ hơn.
Cũng từ vịêc rèn kĩ năng viết đoạn giúp học sinh vận dụng để viết
được nhiều đoạn và viết tốt ở nhiều thể loại.

2. Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vẫn còn nhiều hạn
chế. Vì vậy là một tiết khó của mơn học, nếu đơn thuần giáo viên không
hướng dẫn cụ thể về cách tìm hiểu đề, tìm ý, mỗi ý tương ứng với bao nhiêu
đoạn trong văn bản. Hoặc học sinh chưa tìm được câu chủ đề từ đó phát triển
mở rộng thành đoạn văn. Để tích hợp được với văn và Tiếng Việt, giáo viên
chưa hướng dẫn khái niệm đoạn văn, câu chủ đề, quan hệ giữa các câu và
cách trình bày đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết đoạn
văn theo các yêu cầu về cấu trúc và ngữ nghĩa.

22


Hạn chế nữa là trong chương trình SGK Ngữ Văn THCS học sinh
khơng được học các nội dung trình bày trong đoạn văn theo các đặc điểm,
cấu trúc diễn dịch, quy nạp, sonh hành, móc xích. Do đó, khi xây dựng đoạn
văn, học sinh rất lúng túng trong việc đặt vị trí câu chủ đề trong đoạn.
Hơn nữa, trong quá trình luyện viết các đoạn văn, học sinh cịn lúng
túng trong việc tìm hiểu đề, xác định ý, xây dựng câu chủ đề. Khi lựa chọn
các phép liên kết câu, liên kết đoạn trong văn bản các em còn vụng về, đôi
khi không nắm vững các đơn vị kiến thức này. Và việc lựa chọn, dùng từ đặt
câu ở một học sinh còn nhiều hạn chế: như dùng từ, ngữ khơng trong sáng,
thiếu trau chuốt, từ ngữ khơng có tính lơgic.
Hơn nữa, giáo viên chưa thật kiên trì trong việc cung cấp những đơn vị
kiến thức về xác định ý, viết câu chủ đề, xây dựng đoạn theo các đặc điểm
(diễn dịch, quy nạp...) các phép liên kết câu, liên kết đoạn, và uốn nắn cách
viết đoạn cho học sinh.
2. Những ý kiến đề xuất
Sắp xếp số lượng kiến thức hợp lí cho một số tiết dạy có khả năng phát
huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh mà các em học không bị nhàm
chán.

Các đoạn văn mẫu phải đa dạng phong phú hơn về từng lượng kiến
thức.
Tiết học mang nặng tính thực hành, nên cho học sinh thực hành nhiều,
viết nhiều các đoạn văn( tất nhiên không quá thời gian tiết học và sức tiếp
thu của học sinh).
Trong việc đánh giá, giáo viên cần quan tâm, nhận xét đúng trước
năng lực thực hành của mỗi học sinh. Ở đây đòi hỏi sự nhạy cảm của thầy
trước yêu cầu thực hành, trước những thao tác và kĩ năng thực hành của học
sinh. Yêu cầu giáo viên dày công luỵên tập cho các em, kiên trì trong việc

23


đánh giá kết quả, khơng nên nóng vội, có tinh thần trách nhiệm cao. Tuỳ từng
đối tượng ở các khối lớp, tùy từng vùng để có phương pháp vận dụng đúng
đắn. Với phương châm là người truyền đạt kíên thức và chủ thể tiếp nhận
kiến thức và mục đích cuối cùng là viết được các đoạn văn sáng tạo với đầy
đủ các kĩ năng mà các em tiếp thu được.
Về số lượng tiết học viết đọan văn cịn q ít, nên tăng cường thêm số
lượng cũng như thời gian cần được phân bố cân đối hài hoà để tránh học sinh
ngại học căng thẳng mà ngược lại các em ham học hơn.
Trong sự phát triển đi lên của đất nước và của văn học nước nhà, văn
học nhân loại, trong đó có khơng ít các nhân tài đất nước là giáo viên, là học
ính - chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy việc dạy chữ, dạy người là cần
thiết. Đặc biệt trong nhà trường THCS việc hình thành nhân cách, việc tiếp
cận với kiến thức nhân loại, phân biệt cái tốt, cái xấu, cái phải trái đối với
học sinh cùng là vấn đề then chốt. Hơn nữa, giúp các em ham học, thích học
mơn văn ( Trong đó có mơn Tập làm văn, thực hành các kĩ năng viết đoạn
văn) cũng là vấn đề mà giáo viên cần nghiên cứu.
Vì vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa để phát huy những tài năng sẵn

có cịn tiềm ẩn trong mối các nhân học sinh, giúp các em hoàn thiện nhân
cách, phát huy vốn tri thức của nhân loại làm giàu cho quê hương đất nước.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thực hành viết đoạn văn miêu tả trong nhà trường phổ thông (Đỗ
Ngọc Thống )
2. Muốn viết được đoạn văn hay ( Nguyễn Đăng Mạnh)
3. Bí quyết giỏi văn ( Vũ Ngọc Kháng)
4. Một số kĩ năng viết đoạn văn ( Vũ Nho)

25


×