Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi theo pháp luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.6 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH THẢO

CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH CHẤT PHẠM TỘI
CỦA HÀNH VI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH THẢO

CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH CHẤT PHẠM TỘI
CỦA HÀNH VI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

HÀ NỘI - 2018




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LẬP PHÁP HÌNH
SỰ VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH CHẤT PHẠM TỘI CỦA HÀNH
VI ................................................................................................................................8
1.1. Nhận thức chung về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi ........8
1.2. Khái quát lập pháp hình sự Việt Nam về các tình tiết loại trừ tính chất phạm
tội của hành vi đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 ......................17
1.3. Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi trong pháp luật hình sự
của một số nước trên thế giới ................................................................................21
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 VỀ
CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH CHẤT PHẠM TỘI CỦA HÀNH VI VÀ
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM ...........................................................25
2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tình tiết loại trừ tính chất
phạm tội của hành vi ..............................................................................................25
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của
hành vi....................................................................................................................46
Chương 3. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH CHẤT PHẠM TỘI CỦA HÀNH VI64
3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội
của hành vi. ............................................................ Error! Bookmark not defined.
3.2. Các giải pháp áp dụng đúng pháp luật hình sự về các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi ......................................................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS

: Bộ luật Hình sự

CHLB

: Cộng hòa Liên bang

CHND

: Cộng hòa nhân dân

CTTP

: Cấu thành tội phạm

PLHS

: Pháp luật hình sự

PVCĐ

: Phòng vệ chính đáng

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS


: Trách nhiệm hình sự

TTCT

: Tình thế cấp thiết

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một dạng trách nhiệm pháp lý buộc người
phạm tội phải chịu chế tài hình sự được luật hình sự quy định. Theo đó, luật hình sự
có nhiệm vụ xác định các hành vi vi phạm pháp luật là tội phạm và phải chịu
TNHS. Bên cạnh đó, luật hình sự cũng có những quy định về các trường hợp mà
hành vi đã thực hiện về hình thức tuy có các dấu hiệu của tội phạm nhưng vì có
những tình tiết đặc biệt nên không bị coi là tội phạm và không phải chịu TNHS.
Luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015
chưa có tên gọi cho các tình tiết này mà chỉ có tên gọi cho từng tình tiết cụ thể, đó
là: Phòng vệ chính đáng (Điều 22); Tình thế cấp thiết (Điều 23); Gây thiệt hại trong
khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24); Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng
tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25); Thi hành mệnh lệnh của người
chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26). Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết này
được các nhà khoa học gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau. Các tên gọi khác nhau đó
là: “căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho xã hội”; “những trường hợp (tình
tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”; “các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm
của hành vi”; “những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp

luật hình sự”; “các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi” và
“các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự”... Mặc dù chưa có sự thống nhất trong
việc sử dụng các thuật ngữ như kể trên nhưng xét về nội dung, các trường hợp này
đều được hiểu không khác nhau và hậu quả pháp lý mà người thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội đều giống nhau - không phải chịu TNHS. Khi nghiên cứu đề tài,
tác giả chọn thuật ngữ là “các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi”.
Cùng với chế định TNHS, chế định “các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội
của hành vi” có ý nghĩa trong việc giải quyết TNHS, là “cơ sở pháp lý cho việc đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, xây dựng nhà nước pháp

1


quyền XHCN Việt Nam trên con đường đổi mới” [6, tr.280]. Tuy nhiên, trong khoa
học luật hình sự và trong thực tiễn, nhận thức và áp dụng các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi đang còn có một số vướng mắc. Bản thân hai tình tiết đã
được quy định trong BLHS năm 1999 (phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết)
vẫn còn nhận thức và áp dụng chưa thống nhất. Hơn nữa, BLHS năm 2015 đã quy
định thêm 03 tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi cùng với 02 tình tiết
phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết trong chương mới - chương IV - “Những
trường hợp loại trừ TNHS” cũng đòi hỏi có sự nghiên cứu về các trường hợp bổ
sung này để làm rõ hơn chế định “các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành
vi”.
Kinh nghiệm pháp luật hình sự nước ngoài, điển hình là các nước Anh, Pháp,
Nga với nhiều ưu điểm trong kỹ thuật lập pháp là những kinh nghiệm có giá trị
tham khảo trong hoạt động hoàn thiện các quy định tương tự trong BLHS Việt
Nam.
Từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về PVCĐ và TTCT cho thấy vẫn còn

một số bất cập, hạn chế mà nguyên nhân chủ yếu là do các quy định của luật thực
định về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi chưa thực sự hoàn chỉnh;
công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật còn chưa thật đầy đủ... Đây cũng
là vấn đề cần được khắc phục, hoàn thiện trong thời gian tiếp theo.
Với lý do như vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Các tình tiết loại trừ tính chất
phạm tội của hành vi theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm đề luận văn thạc sỹ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định “các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi” trong luật
hình sự có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội cũng như về mặt pháp lý hình sự. Do
đó, vấn đề này được nhiều nhà khoa học và nhà hoạt động thực tiễn quan tâm
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết, các Giáo trình Luật hình sự - Phần chung của các cơ sở đào tạo
đại học đều có nội dung trình bày những kiến thức cơ bản về chế định này cũng như

2


về nội dung của hai điều luật trong BLHS quy định về PVCĐ và TTCT. Tuy nhiên,
đây chỉ là những kiến thức cơ bản, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu sâu về lý luận
cũng như thực tiễn.
Tiếp đến là, Các công trình nghiên cứu khác, bao gồm các luận án, luận văn,
các sách và các bài báo nghiên cứu liên quan đến nội dung, đối tượng nghiên cứu
này có thể được chia thành các nhóm sau:
- Nhóm nghiên cứu về nhiều vấn đề của Luật hình sự trong đó có nội dung
về chế định mà tác giả luận văn nghiên cứu. Ví dụ: Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ
bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo Sau đại học, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội
phạm, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (2010); Trịnh Tiến Việt, Tội phạm và trách
nhiệm hình sự, Nxb. Lao động, Hà Nội (2013);

- Nhóm nghiên cứu “các trường hợp (tình tiết) loại trừ trách nhiệm hình sự”
được hiểu bao gồm cả các trường hợp không có TNHS khác. Do vậy, trong các
công trình này, vấn đề mà tác giả luận văn nghiên cứu chỉ là một nội dung trong
nhiều nội dung khác được nghiên cứu. Ví dụ: Nguyễn Ngọc Chí, Về chế định loại
trừ trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4 (1999); Giang Sơn,
Các yếu tố loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, Luận án tiến sĩ Luật
học, trường Đại học Luật Hà Nội (2002); Trịnh Tiến Việt, Chế định loại trừ trách
nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự Việt
Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQG, Luật học, tập 29, số 4 (2013); Nguyễn Tuyết Mai,
Hoàn thiện chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam,
Tạp chí Luật học số 2 (2014);... Như vậy, hai nhóm nghiên cứu này có nội dung
nghiên cứu tương đối rộng và nội dung thuộc đề tài luận văn của tác giả không phải
là nội dung được tập trung nghiên cứu của các công trình này.
- Nhóm nghiên cứu chuyên về chế định PVCĐ hoặc về TTCT. Đây là nhóm
có nhiều công trình nghiên cứu để phục vụ trực tiếp việc giải thích, bình luận các
điều luật của BLHS. Điểm chung của các công trình này là tập trung giải thích nội
dung quy định của BLHS về PVCĐ và TTCT, từ cơ sở, nội dung, phạm vi đến các

3


vướng mắc có liên quan. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng, Tìm hiểu về bản chất của tình
thế cấp thiết, Tạp chí Luật học số 5/1999; Nguyễn Đức Mai, Phòng vệ chính đáng
theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6 (2000);
Giang Sơn, Quy định về chế định phòng vệ chính đáng theo Bộ luật Hình sự Việt
Nam năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, số 8
(2001); Phạm Quốc Hưng, Phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (2001); Đinh Văn Quế, Một số
vấn đề phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và những
vướng mắc trong thực tiễn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17 (2009); Nguyễn

Hương Giang, Tình thế cấp thiết trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011); Nguyễn Sơn, Phòng vệ chính
đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014); … Các công
trình này đều nghiên cứu từng điều luật trong BLHS mà không gắn kết các điều luật
này với nội dung của chế định chung “các tình tiết loại TNHS”.
- Nhóm nghiên cứu “các tình tiết loại trừ TNHS”. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng,
Các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong luật hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (1999);… Các
công trình công trình nghiên cứu này tuy đã làm rõ hơn cơ sở lí luận về các tình tiết
loại trừ TNHS nhưng mới chỉ tập trung vào hai tình tiết đã được quy định trong
BLHS, đó là “phòng vệ chính đáng” và “tình thế cấp thiết”, mà chưa đề cập đến các
loại tình tiết loại trừ TNHS khác. Đây cũng là vấn đề đặt ra và được giải quyết trong
luận văn này
Tóm lại, các công trình đã được công bố đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận
cũng như những vướng mắc trong thực tiễn của chế định các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn pháp lý, vẫn còn
một số vấn đề yêu cầu cần được làm rõ hơn như: làm rõ hơn bản chất của các tình
tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi; mối quan hệ giữa chế định này với các
trường hợp miễn TNHS; cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tình tiết

4


loại trừ tính chất phạm tội của hành vi, cũng như làm rõ nội dung của các quy định
mới được bổ sung trong BLHS năm 2015.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ hơn về lý luận các tình tiết loại trừ tính chất
phạm tội của hành vi và thực trạng của chế định này trong pháp luật hình sự Việt
Nam để đánh giá và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về

vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành
vi;
- Giải thích các quy định của BLHS hiện hành về các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi trong sự so sánh với lý luận và thực tiễn lập pháp của một
số quốc gia trên thế giới;
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về các tình tiết loại trừ tính chất
phạm tội của hành vi, làm rõ những vấn đề đặt ra đối với quy định của BLHS;
- Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chế các tình tiết loại trừ tính chất phạm
tội của hành vi trong BLHS Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Ngoài đối tượng nghiên cứu là các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của
hành vi, luận văn còn có các đối tượng nghiên cứu về chế định này, gồm: các quy
định của BLHS Việt Nam năm 1999, BLHS Việt Nam năm 2015 và luật hình sự
một số quốc gia khác trên thế giới về các tình tiết này. Cụ thể: Các điều luật được
nghiên cứu là các điều 15, 16 BLHS Việt Nam năm 1999; các điều 21, 22, 23, 24,
25, 26 BLHS Việt Nam năm 2015; các điều 37, 38, 39, 40, 41,42 BLHS Liên bang
Nga; các điều 1, 2, 4, 8, (chương 24) BLHS Thụy Điển; các điều 25, 27, 34 BLHS
Cannada; các điều 32, 33, 34 BLHS Cộng hòa Liên bang Đức; các điều 20, 21
BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5


- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về chính sách hình sự và đấu tranh
phòng, chống tội phạm.

- Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể là phương pháp phân tích, so sánh, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Pháp luật hình sự Việt Nam quy định đầy đủ, rõ ràng các tình tiết loại trừ
tính chất phạm tội của hành vi thể hiện tính nhân đạo, công bằng trong chính sách
hình sự của Nhà nước ta, giúp cho nhân dân thực sự tin tưởng vào pháp luật.
Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, các nội
dung được trình bày trong luận văn góp phần làm sáng tỏ các vấn đề về các tình tiết
loại trừ tính chất phạm tội của hành vi giúp cho họ thận trọng, khách quan hơn khi
giải quyết các tình tiết tương tự, góp phần làm tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tránh tình trạng chủ quan duy ý
chí, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Đối với BLHS của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luận văn với
các nghiên cứu và phân tích làm sáng tỏ các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của
hành vi cùng với các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về các tình
tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi sẽ góp phần hoàn thiện chế định này,
đồng thời đóng góp một phần nhỏ vào tiến trình hoàn thiện BLHS nói chung trong
giai đoạn hiện nay.
Đối với người đọc là mọi công dân đặc biệt là những người có những hiểu
biết còn hạn chế về pháp luật, những nội dung trong luận văn là cơ sở giúp cho họ
có thể biết và hiểu một cách rõ ràng, sâu sắc về các tình tiết loại trừ tính chất phạm
tội của hành vi. Từ những hiểu biết về các tình tiết không phải là tội phạm đó, họ sẽ
bảo vệ được mình và bảo vệ được sự tôn nghiêm của pháp luật; tránh được những lo

6


lắng, sự mất tự tin khi thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép trong khi họ
tưởng rằng đó là tội phạm.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận và khái quát lập pháp hình sự về các tình
tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi
- Chương 2. Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 về các tình
tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi và thực trạng áp dụng ở Việt Nam
- Chương 3. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về các tình
tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LẬP PHÁP HÌNH SỰ
VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH CHẤT
PHẠM TỘI CỦA HÀNH VI
1.1. Nhận thức chung về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của
hành vi
1.1.1. Khái niệm tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi
1.1.1.1. Các cách hiểu và tên gọi khác nhau về các tình tiết loại trừ tính chất
phạm tội của hành vi
Theo luật hình sự Việt Nam, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS. Người (có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm) thực hiện hành
vi đã được mô tả là tội phạm tại điều luật cụ thể của BLHS bị coi là người phạm tội
và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội đó.
Khi thực hiện hành vi được mô tả trong BLHS, người thực hiện có thể bị
những động cơ khác nhau thúc đẩy. Tính chất khác nhau của những động cơ này có
ảnh hưởng khác nhau đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã thực hiện - có
thể làm tăng hoặc có thể làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Đặc biệt, có trường hợp vì gắn với động cơ nhất định mà hành vi đã thực hiện trở
thành hành vi cần thiết cho xã hội và do vậy cần được pháp luật cho phép. Từ thực
tế đó, PLHS Việt Nam cũng như PLHS của các quốc gia khác có chế định xác định
những căn cứ cho phép công dân (có tính ngoại lệ) được thực hiện hành vi mà trong
trường hợp bình thường, hành vi này bị coi là tội phạm. Hành vi đã thực hiện do
được pháp luật cho phép nên không bị coi là tội phạm và vấn đề trách nhiệm hình
sự không được đặt ra.
Những căn cứ cho phép công dân được thực hiện các loại hành vi (có tính
ngoại lệ) nói trên có tên gọi không giống nhau trong luật hình sự cũng như trong
nghiên cứu ở các quốc gia. BLHS Việt Nam không có tên gọi chung cho nhóm căn
cứ này mà chỉ có tên gọi cho từng căn cứ. Trong sách báo pháp lý Việt Nam, nhóm
căn cứ này từ trước đến nay thường được gọi là “Những tình tiết loại trừ tính chất

8


nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Bên cạnh đó, cũng có tài liệu sử dụng các tên
gọi khác.
Giáo trình luật hình sự - Phần chung của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội
(2003) gọi đây là “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự”. Tác giả của Giáo
trình này cho rằng “TNHS là hậu quả pháp lý của trường hợp hành vi nguy hiểm bị
coi là tội phạm và đối lập với TNHS là không có hay loại trừ TNHS, là hậu quả
pháp lý của hành vi gây hậu quả về hình sự nhưng không bị coi là tội phạm” [9, tr.
284]. Tác giả luận văn chọn cách gọi này vì nó “… xác định rõ ràng phạm vi điều
chỉnh của luật hình sự, đồng thời phù hợp với nhận thức chung của cán bộ áp dụng
pháp luật đã được thống nhất lâu nay ở nước ta” [24, tr. 9] .
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của nhiều cơ sở đào tạo luật như trường
Đại học Luật Hà Nội (2013), trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014),
trường Đại học Huế (2001) đều đặt tên cho nhóm các quy phạm này là: “Những
tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Sở dĩ tên gọi này

được lựa chọn vì các tác giả cho rằng “hành vi đã thực hiện, xét về khách quan đã
gây ra thiệt hại nhưng xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa
chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội... . Do không có lỗi nên hành vi gây
thiệt hại không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm” [49, tr. 201].
Các tác giả cho rằng, hành vi gây thiệt hại sẽ không phải chịu TNHS vì “xét về chủ
quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi
hỏi của xã hội”. Do vậy, hành vi được thực hiện tuy gây thiệt hại nhưng không phải
là tội phạm. Theo đó, “gốc” của vấn đề là tính chất nguy hiểm cho xã hội bị loại trừ.
Từ đó, các tác giả đưa ra định nghĩa về những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi là “những tình tiết làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi gây thiệt hại nên được quy định trong luật hình sự để xác định những
trường hợp bình thường là tội phạm nhưng không bị coi là tội phạm khi được thực
hiện trong những điều kiện kèm theo tình tiết đó” [11, tr.202]. Như vậy, các tác giả
đã xuất phát từ đặc điểm (dấu hiệu) về nội dung của tội phạm (tính nguy hiểm cho
xã hội) khi đặt tên gọi riêng cho nhóm các quy phạm này. Ở đây, tính chất nguy

9


hiểm cho xã hội được hiểu bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi
về chủ quan. Nếu hiểu tính nguy hiểm cho xã hội chỉ là tính gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại thì tên gọi trên đây sẽ không chính xác vì đặc điểm này “… của
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện luôn tồn tại không phụ thuộc vào có hay
không có tình tiết phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết” [12, tr. 39].
Khác với cách đặt tên trên đây, GS. TSKH. Lê Văn Cảm gọi các tình tiết đó
là “Những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”. Trong
cuốn “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)”, tác giả cho
rằng, “tính chất tội phạm của hành vi là phạm trù rộng hơn và bao trùm lên tất cả
các tính chất khác - tính nguy hiểm cho xã hội, tính chất lỗi, và tính chất trái pháp
luật hình sự” [5, tr. 516]. Theo đó, “những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất

tội phạm của hành vi là những tình tiết được điều chỉnh trong pháp luật hình sự mà
khi có căn cứ do luật định thì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi
là tội phạm và do vậy, người gây ra thiệt hại đó không phải chịu TNHS” [5; tr.
504].
Một tên gọi khác được GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa nêu trong cuốn “Tội
phạm và cấu thành tội phạm” là “các căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho
xã hội”. Cách gọi này xuất phát từ quan điểm cho rằng “hành vi nguy hiểm cho xã
hội chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong BLHS và không thuộc
những trường hợp có căn cứ hợp pháp khác. Theo đó, hành vi đã thực hiện tuy
được quy định trong BLHS nhưng vẫn không phải là tội phạm nếu chủ thể có căn
cứ hợp pháp được quy định trong BLHS khi thực hiện hành vi này” [11, tr. 38]. Tác
giả của tên gọi này cho rằng, các hành vi được quy định trong BLHS là các hành vi
bị cấm nhưng một người vẫn có thể được quyền thực hiện những hành vi có tính
gây thiệt hại đã được quy định đó trong trường hợp có căn cứ (tình tiết) nhất định
được Bộ luật quy định. Do vậy, những căn cứ (tình tiết) này được coi là các căn cứ
hợp pháp của hành vi. Các căn cứ này làm cho hành vi đã thực hiện “...không còn
tính trái pháp luật hình sự” [11, tr. 39].

10


Sở dĩ có các tên gọi khác nhau về nhóm căn cứ này là do các tác giả đã gắn
tên gọi với các khía cạnh khác nhau của nhóm căn cứ - khía cạnh nội dung và khái
cạnh pháp lý [16, tr. 200].
Xét về nội dung, nhóm căn cứ này làm mất tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi gây thiệt hại và do vậy hành vi đã thực hiện không phải là tội phạm. Hành
vi đã thực hiện, xét về khách quan đã gây thiệt hại nhưng xét về chủ quan thì chủ
thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Ở đây có sự xung đột giữa lợi ích mà chủ thể thực hiện “cần bảo vệ” và “lợi ích
khác” sẽ bị xâm phạm khi chủ thể thực hiện việc bảo vệ đó. Ví dụ: để bảo vệ tính

mạng của mình đang bị người khác đe dọa xâm hại người phòng vệ buộc phải gây
thương tích cho người đang thực hiện sự đe dọa đó. Trong trường hợp này, lợi ích
mà người phòng vệ cần bảo vệ (sự an toàn tính mạng của mình) xung đột với “lợi
ích khác” (sự an toàn sức khỏe của người tấn công) mà người phòng vệ buộc phải
xâm phạm để bảo vệ lợi ích “cần bảo vệ” đó. Khi lựa chọn hành vi gây thương tích
cho người tấn công để bảo vệ tính mạng của mình trong tình huống xung đột lợi ích
như vậy, chủ thể hành động tuy có gây thiệt hại về khách quan nhưng lại không có
lỗi về chủ quan vì sự lựa chọn đó là hợp lý, xã hội có thể chấp nhận được. Do không
có lỗi nên hành vi gây thiệt hại không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm. Từ đó mà chúng ta có tên gọi: “Các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi”. Chọn và thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác trong
điều kiện bình thường là trường hợp cố ý gây thương tích và có thể cấu thành tội cố
ý gây thương tích nhưng khi gắn với tình tiết “phòng vệ” thì hành vi đó không thể là
tội phạm vì tình tiết phòng vệ đã loại trừ tính có lỗi và qua đó loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích [11, tr. 201].
Xét về hình thức pháp lí, nhóm căn cứ làm mất tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi gây thiệt hại cần phải được quy định trong luật hình sự. Đó là trách
nhiệm của cơ quan xây dựng luật. Trên cơ sở đánh giá các tình tiết có tính chất làm
mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại, cơ quan xây dựng luật cần
xác định các tình tiết cụ thể thuộc nhóm các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã

11


hội của hành vi gây thiệt hại và mô tả từng tình tiết này trong luật hình sự. Nói cách
khác, các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại cần
phải được luật hóa để đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Điều đó đảm bảo sự thống nhất
trong nhận thức về các tình tiết này và như vậy mới có thể điều chỉnh thống nhất xử
sự của mọi người dân cũng như của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Khi các tình tiết
loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại đã được quy định trong

luật hình sự thì các quy định này trở thành căn cứ pháp lí xác nhận tính hợp pháp
của hành vi gây thiệt hại hay nói cách khác là căn cứ loại trừ tính trái pháp luật của
hành vi gây thiệt hại. Từ đó, các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi còn có thể được gọi là các tình tiết loại trừ tính trái pháp luật hay tình tiết
loại trừ tính chất phạm tội của hành vi gây thiệt hại [11, tr. 201].
Mỗi nhóm quan điểm nêu trên đều có lập luận khoa học và nhân tố hợp lý
riêng của mình. Trên cơ sở tổng kết, tiếp thu các quan điểm khác nhau được giới
thiệu khái quát trên đây, tác giả luận văn lựa chọn tên gọi “Các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi” và hiểu các tình tiết này theo phạm vi chỉ bao gồm
những tình tiết cho phép được thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
1.1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm cơ bản của các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi
Tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi ta có thể hiểu là tình tiết mà
với tính chất đặc biệt của mình làm cho hành vi cố ý gây thiệt hại cho người đang
có hành vi xâm phạm những lợi ích và giá trị (các quyền) mà pháp luật bảo vệ
không những không bị coi là tội phạm, mà còn được coi là hành vi có lợi cho xã hội
và được khuyến khích thực hiện [57, tr. 273].
Như vậy, tính chất tội phạm của hành vi được loại trừ bởi tính tích cực, tính
có lợi cho xã hội của tình tiết đó. Nói cách khác, những hành vi được chủ thể cố ý
thực hiện gây ra những thiệt hại nhất định cho những lợi ích và giá trị khác cũng
được pháp luật hình sự bảo vệ đang bị xâm hại hoặc bị đe dọa trực tiếp xâm hại,
không phải là tội phạm [57, tr. 273].

12


Dựa vào khái niệm các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi và
trên cơ sở các quy định pháp luật hình sự liên quan đến vấn đề các tình tiết loại trừ
tính chất phạm tội của hành vi ta có thể đưa ra một số đặc điểm của tình tiết loại trừ
tính chất phạm tội của hành vi, sau đây là:

* Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi được quy định trong
luật hình sự
Việc phải xác định các tình tiết nào là tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của
hành vi và các dấu hiệu cụ thể của từng tình tiết để quy định trong luật là cần thiết
để đảm bảo nguyên tắc pháp chế và qua đó bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức
và áp dụng các tình tiết này.
Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi phải được điều chỉnh
bằng các quy phạm của pháp luật hình sự chứ không thể bằng các quy định của các
ngành luật khác. Bởi lẽ, một hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức độ nào đi chăng
nữa mà không được quy định trong luật hình sự là tội phạm thì hành vi đó sẽ không
bị coi là tội phạm và vấn đề TNHS cũng không đặt ra với người đó. Như vậy, để
xem xét hành vi gây thiệt hại có bị truy cứu TNHS hay không thì chúng ta phải căn
cứ vào chính quy định của PLHS. Từ đó, xem xét người có hành vi gây thiệt hại
trong trường hợp đó có bị coi là tội phạm hay không, có được loại trừ TNHS hay
không, chứ chúng ta không thể căn cứ vào các quy định các ngành luật phi hình sự
khác (dân sự, hành chính…) rồi lại kết luận rằng người đó được loại trừ TNHS hay
bị truy cứu TNHS.
* Tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi luôn gắn với hành vi gây
thiệt hại có dấu hiệu về hình thức của một tội phạm.
Hành vi đã thực hiện khi có tình tiết loại trừ tính chất phạm tội là hành vi về
mặt hình thức đã thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP hay nói cách khác hành vi
đã là hành vi phạm tội nếu giả sử không có tình tiết này. Cụ thể:
- Chủ thể đã thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại và hành vi này đã được
mô tả trong một CTTP. Trong đó, hành vi được coi là biểu hiện cơ bản nhất trong
mặt khách quan của CTTP, đã “làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động và

13


do vậy là nguyên nhân gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm”

[12, tr. 63].
- Khi thực hiện hành vi đó, chủ thể nhận thức được tính gây thiệt hại và thấy
trước hậu quả thiệt hại mà hành vi có thể gây ra cho các quan hệ xã hội
- Chủ thể thực hiện là người có đủ điều kiện về chủ thể.
Như vậy, xét về về tổng thể, hành vi đã thực hiện là hành vi có đủ dấu hiệu
của một CTTP. Nếu không xét đến sự có mặt của tình tiết loại trừ tính chất phạm tội
của hành vi thì hành vi đã cấu thành một tội phạm cụ thể. Ví dụ: Tội cố ý gây
thương tích; tội giết người; tội hủy hoại tài sản v.v…
Việc gây thiệt hại của hành vi về mặt pháp lý hình sự trong từng trường hợp
tương ứng cụ thể phải có các dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự cấm bằng
việc đe doạ áp dụng hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế hình sự khác. Tức việc gây
thiệt hại của hành vi có chứa đựng dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được quy định
Phần các tội phạm của BLHS. Ở đó từng điều luật quy định từng loại tội phạm cụ
thể, quy định những dấu hiệu nào sẽ cấu thành tội phạm và đưa ra biện pháp cưỡng
chế và khung hình phạt nhất định tuỳ theo tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội. Thông thường, một người thực hiện hành vi gây thiệt hại có đủ yếu tố để
cấu thành một tội phạm cụ thể quy định trong pháp luật hình sự thì người này sẽ bị
đe dọa áp dụng hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế mà chính Nhà nước đặt ra để
trừng trị hành vi đó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi phân tích kỹ lại cho
thấy hành vi đó lại có một số tình tiết được loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi - hành vi đó thực tế có gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân
nào đó, nhưng nhìn từ góc độ lợi ích xã hội, cộng đồng, yêu cầu đấu tranh chống tội
phạm…thì thiệt hại đó không đáng kể so với lợi ích mà hành vi đó mang lại và
người thực hiện hành vi trong trường hợp này sẽ được loại trừ TNHS.
Việc gây thiệt hại, về mặt pháp lý hình sự trong trường hợp tương ứng cụ thể
mặc dù có thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng được coi là hợp pháp về mặt
pháp lý vì nó được thừa nhận chung bằng sự chấp nhận của xã hội bởi một trong
những lý do như: để bảo vệ lợi ích của xã hội hay của Nhà nước, cũng như quyền,

14



lợi ích hợp pháp của chính chủ thể có hành vi gây thiệt hại hoặc của người khác
tránh khỏi sự xâm hại hoặc đe doạ thực tế gây thiệt hại của tội phạm; khuyến khích
việc đạt được mục đích có ích cho xã hội hoặc cho Nhà nước bằng hành vi hợp lý
và hợp pháp; vì mục đích nhân đạo.
* Tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi là tình tiết làm cho hành vi
gây thiệt hại bị loại trừ tính nguy hiểm của một tội phạm.
Hành vi gây thiệt hại khi có tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi
tuy về hình thức thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP nhưng xét trong mối quan hệ
hành vi của chủ thể bị thiệt hại thì hành vi đó không có tính nguy hiểm của tội
phạm. Các tình tiết này tuy khác nhau nhưng đều gắn với động cơ và mục đích của
hành vi đã thực hiện. Động cơ thúc đẩy là vì lợi ích chung hoặc lợi ích chính đáng
của cá nhân được xã hội chấp nhận; mục đích không phải để gây thiệt hại mà để bảo
vệ hoặc mang lại lợi ích chung. Chính tính chất đặc biệt và phù hợp với đòi hỏi của
xã hội, được xã hội chấp nhận của động cơ và mục đích của hành vi như vậy đã làm
mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại. Ví dụ: Việc chọn và
thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác trong điều kiện bình thường là
trường hợp cố ý gây thương tích và có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích nhưng
khi gắn với tình tiết “phòng vệ” nhằm ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ tính mạng
người khác thì hành vi gây thương tích không còn tính nguy hiểm cho xã hội. Động
cơ ngăn chặn sự tấn công và mục đích bảo vệ tính mạng con người đã loại trừ tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích. Việc gây thiệt hại trong những
trường hợp với động cơ, mục đích như vậy được coi là hành vi có ích, được xã hội
chấp nhận và do vậy không thể là hành vi tội phạm để buộc chủ thể phải chịu
TNHS.
Tính chất phạm tội của hành vi gây thiệt hại được thực hiện trong trường hợp
tương ứng cụ thể bị loại trừ do căn cứ nhất định được điều chỉnh bằng pháp luật
hình sự, tức thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm đã được phân tích ở phần
khái quát chung về tội phạm.


15


1.1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu về các tình tiết loại trừ tính chất phạm
tội của hành vi
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi có ý nghĩa quan trọng trên một số phương diện sau:
Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi là một trong những chế
định cơ bản đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của PLHS Việt Nam trong công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Việc nghiên cứu các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội
của hành vi nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật là các quy định của BLHS, kịp thời
bổ sung, điều chỉnh những quy phạm có liên quan trong BLHS Việt Nam.
Trong khoa học luật hình sự vấn đề về khái niệm, hệ thống, bản chất pháp
luật của chế định này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau cần phải có cách
hiểu thống nhất để việc áp dụng chế định này chính xác và đúng pháp luật.
Về mặt thực tiễn, quy định các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành
vi tạo cơ sở pháp lý cho người dân được quyền hành động để bảo vệ lợi ích chính
đáng của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như của tổ
chức; đồng thời, nó động viên nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh chống
tội phạm, tích cực, tự giác bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính
đáng của công dân, từ bỏ ý định hoặc hành vi có hại cho xã hội mà mình tưởng lầm
là không trái pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong việc xây
dựng và bảo vệ xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
1.1.1.4. Phân biệt các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi với
trường hợp miễn trách nhiệm hình sự
Đối với các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi, bởi tính có lợi
cho xã hội của hành vi chống trả gây thiệt hại cho người đang có hành vi tấn công
xâm hại lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân không còn nguy hiểm cho xã hội, tức không còn có dấu hiệu cấu thành tội
phạm cụ thể nên không bị coi là tội phạm, người thực hiện nó không bị coi là người
phạm tội và theo quy định của pháp luật là thì họ không bị truy cứu TNHS.

16


Miễn TNHS được quy định tại các điều 16, điều 29 BLHS năm 2015 là
trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và người này đã phạm tội
và lẽ ra phải bị truy cứu TNHS, nhưng trong những điều kiện nhất định, có sự hiện
diện của những tình tiết cụ thể, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án xét
thấy không cần áp dụng biện pháp cưỡng chế và cho họ được miễn TNHS.
Như vậy, các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi không bị coi là
tội phạm, còn miễn TNHS là hành vi bị coi là tội phạm nhưng được miễn TNHS và
hai trường hợp này có tính nguy hiểm cho xã hội là khác nhau. [24, tr. 6-7].
Ví dụ: Phan Hoàng H phạm tội huỷ hoại tài sản (Điều 143 BLHS hiện hành)
gây thiệt hại 3 triệu đồng, nhưng trong quá trình điều tra vụ án H đã chủ động tích
cực bồi thường cho bị hại năm triệu đồng. Vì vậy, mặc dù H có tội nhưng Viện
kiểm sát ra quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho H [23, tr.13].
1.2. Khái quát lập pháp hình sự Việt Nam về các tình tiết loại trừ tính
chất phạm tội của hành vi đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của PLHS về các
tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi với mục đích tìm hiểu quy định về
vấn đề này trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ đó, “xác định cho được những
khả năng kế thừa, bởi vì kế thừa trong pháp luật chính là sự kế thừa văn hóa và
truyền thống” [52, tr. 415]. Trong phạm vi luận văn, tác giả tìm hiểu khái quát lịch
sử lập pháp Việt Nam các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi từ sau
cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
1.2.1. Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi trong pháp luật
hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban

hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 cho đến trước khi pháp điển hóa BLHS Việt Nam lần thứ nhất cho thấy, Các
tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi chưa được quy định trong một văn
bản tập trung, thống nhất mà được quy định tại các văn bản khác nhau, với kĩ thuật
lập pháp còn hạn chế. Chẳng hạn: Nghị định 301-TTg ngày 10/7/1957 của Thủ

17


tướng Chính phủ quy định về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối
với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân đã bước đầu đề cập đến tình tiết loại trừ
TNHS. Điều 22 có quy định về quyền được sử dụng vũ lực của người thi hành công
vụ trong một số trường hợp cụ thể là: Khi thi hành việc bắt, giữ, giam, khám mà gặp
sự kháng cự của kẻ phạm pháp, cần bảo vệ tính mạng của mình hoặc của người
khác đang bị đe dọa nghiêm trọng; Khi cần phải ngăn chặn những người phạm tội
chính trị hoặc hình sự quan trọng có hành động trốn tránh pháp luật; Khi người bị
giam đang vượt trại giam hoặc khi can phạm quan trọng chạy trốn trong lúc đang bị
dẫn giải; Khi có các điều kiện như trên, luật pháp cho phép sử dụng vũ khí nên việc
bắn chết được coi là cần thiết, không có tội [39, tr. 24, tr. 25]. Quy định trên mặc dù
còn sơ lược và chưa toàn diện nhưng nó đã phản ánh được ở mức độ nhất định nội
dung của các tình tiết phòng vệ chính đáng, bắt người phạm tội, đặc biệt là khi điều
luật đã ghi nhận về mặt pháp lí những trường hợp đó được coi là “cần thiết, không
có tội”.
Bản tổng kết số 452 - HS2 ngày 10/6/1970 của Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) về “thực tiễn xét xử loại tội giết người” có đề cập đến trường hợp giết
người trong trường hợp vượt quá phạm vi “phòng vệ cần thiết”. Bản tổng kết nêu rõ
mục đích của “phòng vệ cần thiết” là nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng (lợi ích cách
mạng, lợi ích của nhân dân). Đồng thời, Bản tổng kết số 452 - HS2 cũng đã xác
định sự tấn công trong “phòng vệ cần thiết” phải là hành vi trái pháp luật và việc

phòng vệ với phương pháp, phương tiện khác nhau phải gây thiệt hại cho chính kẻ
tấn công; thiệt hại gây ra phải tương xứng với mức độ của mối nguy hiểm đang đe
dọa [39, tr. 24]. Trường hợp giết người do vượt quá phạm vi “phòng vệ cần thiết”
thì được xử mức án nhẹ hơn trường hợp giết người thông thường. So với quy định
của Nghị định 301-TTg thì những quy định ở Bản tổng kết số 452 - HS2 là bước
tiến bộ đáng kể khi đã làm rõ nội hàm của, phòng vệ cần thiết” cũng như đã phân
hóa được đường lối xử lí giữa hành vi vượt quá “phòng vệ cần thiết” với hành vi
giết người thông thường.

18


Tiếp đó, Chỉ thị số 07/HS2 ngày 22/12/1983 của TANDTC khi đề cập đến
“thực tiễn xét xử các tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe công dân do vượt quá
giới hạn PVCĐ hoặc trong khi thi hành công vụ” đã đề cập ở mức độ nhất định về
PVCĐ, đồng thời, văn bản này đã hướng dẫn tương đối cụ thể đường lối xử lí các
trường hợp xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe công dân do vượt quá giới hạn
PVCĐ hoặc trong khi thi hành công vụ. Tóm lại, trong thời kì này, về hình thức, các
tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi chưa được quy định thống nhất
trong một văn bản; bên cạnh đó, về nội dung, các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội
của hành vi cũng chưa được đề cập một cách toàn diện.
1.2.2. Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi trong pháp luật
hình sự Việt Nam từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến nay
Ngày 27/6/1985, BLHS 1985 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/1986. BLHS năm 1985 ra đời đã đánh dấu bước ngoặt về kĩ
thuật lập pháp hình sự Việt Nam. Lần đầu tiên, các tình tiết loại trừ tính chất phạm
tội của hành vi đã được ghi nhận chính thức trong BLHS với nội dung pháp lý khá
toàn diện. Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi bao gồm: PCVĐ
(Điều 13) và TTCT (Điều 14).
Để việc áp dụng hai tình tiết PVCĐ và TTCT trong thực tiễn được thống

nhất, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ra Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/1/1986
hướng dẫn thi hành một số điều trong BLHS, trong đó có đề cập đến chế định
PVCĐ như sau: “Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác được coi
là PVCĐ khi có đầy đủ các điều kiện sau: a) hành vi xâm hại những lợi ích cần bảo
vệ phải là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội;
b) hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự
và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ; c) PVCĐ không chỉ gạt bỏ sự
đe dọa, đẩy lùi sự tấn công mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt
hại cho chính người xâm hại; d) hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm
hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại…” [41, tr. 149]. Có thể nói, Nghị quyết số

19


02/1986 của TANDTC đã mô tả và xác định rõ các điều kiện của PVCĐ, đồng thời
văn bản này đã chỉ ra các dấu hiệu để nhận biết trường hợp vượt quá giới hạn của
PVCĐ. Mặc dù đây chỉ là văn bản hướng dẫn, nhưng thực tiễn xét xử đã cho thấy
văn bản này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng luật được chính xác.
Sau gần 15 năm thi hành (1985 - 1999) với 04 lần sửa đổi và bổ sung một số
điều của BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua vào các ngày 28/12/1989,
12/8/1991, 22/12/1992 và 10/5/1997, BLHS năm 1985 đã được thay thế bằng BLHS
năm 1999. BLHS năm 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2000. BLHS năm 1999 về cơ bản vẫn giữ nguyên nội dung
hai điều luật về PVCĐ và TTCT. Tuy nhiên, xét về cụ thể, BLHS năm 1999 đã thay
thế dấu hiệu “tương xứng” bằng dấu hiệu “cần thiết”. Đây “là một sự sửa đổi có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm góp phần phát huy tính chủ động trong đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm... Việc thay đổi này cũng chính là để khuyến khích
nhân dân tích cực tham gia chống trả các hành vi phạm tội, đồng thời để khắc phục

những nhược điểm nêu trên” [1, tr. 36]. Như vậy, sự thay đổi này là hợp lí, thể hiện
rõ hơn bản chất pháp lý của chế định PVCĐ trong luật hình sự Việt Nam.
Sau gần 14 năm thi hành BLHS năm 1999, tình hình kinh tế, xã hội của đất
nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt nên BLHS năm 1999 đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập. Ngoài 02 trường hợp loại trừ tính chất phạm tội của hành vi được
quy định trong BLHS năm 1999, còn có những trường hợp đặc biệt khác, tuy có
thiệt hại gây ra cho xã hội, tổ chức, cá nhân nhưng người gây ra thiệt hại đó không
có lỗi, nếu truy cứu TNHS đối với họ thì không thật sự hợp lý.
Quốc hội đã thông qua BLHS năm 2015 ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2018, đã quy định bổ sung 03 tình tiết loại trừ tính chất phạm
tội của hành vi, bao gồm: Hành vi gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội;
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ; Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Việc quy định thêm
03 tình tiết mới hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xét xử đặt ra tại Việt Nam, đồng

20


thời khẳng định được nguyên tắc tiến bộ của PLHS trong xu thế hội nhập tư pháp
hình sự với các nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay.
1.3. Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi trong pháp luật
hình sự của một số nước trên thế giới
Khi nghiên cứu về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi trong
PLHS Việt Nam, để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này, chúng ta
cần phải nghiên cứu tham khảo các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi
của một số nước trên thế giới. Trong luận văn này, tác giả chỉ lựa chọn một số nước
tiêu biểu, điển hình và có ảnh hưởng đến PLHS Việt Nam như: Vương quốc Anh
(theo hệ thống Anh - Mỹ); Cộng hoà Pháp (theo hệ thống Châu Âu lục địa); Liên
Bang Nga (theo hệ thống xã hội chủ nghĩa).
1.3.1. Các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi trong pháp luật

hình sự của nước Anh
Về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi, PLHS nước Anh quy
định bao gồm các tình tiết sau:
- Nếu bị cưỡng bức về thân thể thì người phạm tội sẽ không phải chịu TNHS
trừ tội giết người;
- Nếu bị cưỡng bức về tinh thần mà phạm tội sẽ phải chịu TNHS trừ trường
hợp cưỡng bức liên quan đến tính mạng hoặc sức khoẻ. Đối với tội giết người có
một ngoại lệ là nếu kẻ cưỡng bức thân thể của tinh thần người này phạm tội thì
người này có thể giết chết kẻ cưỡng bức mà không phải chịu TNHS;
- Đối với người vợ phạm tội do sự cưỡng bức của người chồng cũng không
phải chịu TNHS. Theo quy định của Đạo luật Hình sự được ban hành năm 1925, trừ
tội phản bội và tội cố ý giết người, người vợ phạm tội có quyền bào chữa rằng, tội
phạm được thực hiện có mặt chồng và do sự cưỡng bức của chồng. Nói cách khác,
đạo luật này xuất phát từ quan điểm vợ phải phục tùng chồng.
Trường hợp gây thiệt hại do chấp hành mệnh lệnh của chủ hoặc lệnh của thủ
trưởng sẽ không bị truy cứu TNHS, nếu mệnh lệnh đó về nội dung không trái pháp
luật một cách vô điều kiện.

21


×