Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận cao học Những đặc điểm của quá trình ra đời và phát triển của nền kinh tế XHCN ở việt nam và ý nghĩa của việc nhận thức những đặc điểm đó đối với việc phát triển kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.58 KB, 18 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết:
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ mới – thời kỳ quá độ đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của
CNTB, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối, chủ trương, chính
sách về sự phát triển kinh tế: “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước Việt Nam cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học – công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng
cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ
bản; vị thế đất nước trên trường quốc tế được nâng cao”. Để thực hiện thành
công mục tiêu đó, đòi hòi toàn Đảng, toàn dân phải nhận thức được những
đặc điểm của quá trình ra đời và phát triển nền kinh tế XHCN của nước
mình.
Như vậy, nghiên cứu đề tài “Những đặc điểm của quá trình ra đời và
phát triển của nền kinh tế XHCN ở Việt Nam. Và ý nghĩa của việc nhận thức
những đặc điểm đó đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” là
rất cần thiết. Vì qua việc nghiên cứu này nó sẽ góp phần vào việc nhận thức
đúng đắn hơn về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đã đưa ra về
phát triển kinh tế XHCN của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trong tình hình hiện nay, thế và lực của nước Việt Nam đang lớn
mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường,
Việt Nam đang tham gia vào quá trình hoà nhập kinh tế quốc tế và có xu

1


hướng tiếp tục phát triển mạnh nền kinh tế XHCN của mình trong thời kỳ
quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn CNTB.


Trên tình hình đó, tác giả nghiên cứu đề tài này do có tham khảo nhiều
tài liệu về nội dung liên quan tới vấn đề nghiên cứu của mình, nhưng đề tài
này nhằm hệ thống lại đầy đủ về mặt nội dung liên quan tới của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này, chỉ tập trung nghiên cứu vào những đặc điểm của quá trình
ra đời và phát triển của nền kinh tế XHCN ở Việt Nam. Từ đó, thấy được ý
nghĩa của việc nhận thức đúng những đặc điểm đó đối với việc phát triển
kinh tế XHCN ở Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là hệ thống hoá những nội dung
về những đặc điểm của quá trình ra đời và phát triển của nền kinh tế XHCN
ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Do khả năng còn hạn chế cũng như thời gian nghiên cứu của đề tài, là
một khó khăn cho việc nghiên cứu vấn đề liên quan của tác giả. Vì vậy, tác
giả chỉ tập trung vào nghiên cứu về “Những đặc điểm của quá trình ra đời và
phát triển của nền kinh tế XHCN ở Việt Nam. Và ý nghĩa của việc nhận thức
những đặc điểm đó đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay”
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Trong quá trình nghiên cứu của mình, tác giả có sử dụng những
phương pháp như: phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp lôgíc duy
vật lịch sử và đồng thời sử dụng phương pháp hệ thống.
7. Bố cục của đề tài:
Trong đề tài này, tác giả thực hiện gồm tất cả có 3 phần như sau:
Phần mở đầu:
2


Phần nội dung:
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự ra đời của nền kinh tế

XHCN:
II. Những đặc điểm của quá trình ra đời của nền kinh tế XHCN ở Việt
Nam:
III. Ý nghĩa của quá trình ra đời của nền kinh tế XHCN ở Việt Nam:
Phần kết luận:

PHẦN NỘI DUNG

3


I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA
NỀN KINH TẾ – XÃ HỘI CHỦ NGHĨA:

1. Tính tất yếu của quá trình ra đời và phát triển nền kinh tế
XHCN:
Nền kinh tế XHCN là một khái niệm để chỉ tổng hoà các yếu tố, bộ
phận cấu thành ra của cải vật chất trong xã hội có các thiết chế, các tổ chức
kinh tế tương ứng nhằm tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cho sự phát triển xã
hội, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của nhân dân.
Khi nghiên cứu quá trình phát triển của xã hội loài người, Các Mác đã
rút ra kết luận: Quá trình phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử
tự nhiên. Nghĩa là nó có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Bởi vì
do sự tác động của quy luật kinh tế chung đó là QHSX phải phù hợp với tính
chất và trình độ của LLSX. Theo quy luật này, LLSX là yếu tố năng động
nhất và cách mạng nhất; do vậy nó luôn luôn biến đổi và phát triển không
ngừng. Khi nó phát triển đến một trình độ nhất định thì mâu thuẫn giữa
LLSX với QHSX, vì QHSX là yếu tố biến đổi chậm. Mâu thuẫn này đòi hỏi
phải xoá bỏ QHSX cũ và xác lập QHSX mới cho phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX.

Tính tất yếu khách quan cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế
XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH là xuất phát từ những yêu cầu khách
quan của sự phát triển của LLSX trong nền kinh tế, một nền kinh tế phát
triển của TBCN đòi hỏi cần phải thay QHSX tư nhân TBCN bằng QHSX xã
hội CSCN. Vì trong nền kinh tế của TBCN thì QHSX tư nhân TBCN không
còn phù hợp nữa. Khi phân tích CNTB, Các Mác nhận thấy rằng: để bóc lột
nhiều giá trị thẳng dư, GCTS đã không ngừng tích luỹ tư bản để mở rộng sản
xuất, cải thiện kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy LLSX phát triển, xã

4


hội hoá sản xuất. Trong khi đó, QHSX vẫn dựa trên chế độ tư nhân về
TLSX, làm cho mẫu thuẫn giữa LLSX và QHSX trở nên gay gắt.
Và trong sự nghiệp xây dựng CNCS để thực hiện mục tiêu CNXH là
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội trên cơ sở là xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho CNXH và CNCS thì phải xây dựng cho bằng được một nền
kinh tế vững mạnh. Là tất yếu khách quan cho sự ra đời của nền kinh tế
XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển CNTB ở
Việt Nam.
2. Tiền đề kinh tế dưới CNTB cho quá trình ra đời và phát triển
nền kinh tế XHCN:
Về tiền đề của LLSX, dưới sự phát triển ngày càng chín muồi, trong
lòng CNTB mà LLSX trong nền kinh tế đại công nghiệp ngày càng phát
triển hiện đại thêm về số lượng cũng như về chất lượng LLSX có trình độ
tay nghề, học vấn…có năng suất lao động cao. Tính chất xã hội hoá ngày
càng cao đòi hỏi phải thay thế QHSX cũ tức là QHSX tư nhân TBCN bằng
QHSX mới tức là QHSX xã hội CSCN.
Về tiền đề của QHSX, do bản chất của nó QHSX xã hội CSCN không
thể xuất phát trong lòng của CNTB mà nó đòi hỏi phải thay thế. Và trong

nền kinh tế của CNTB thì trình độ quản lý của GCCN được nâng cao, trước
sự phát triển của CNTB cho nên bản thân GCTS cũng không thể quản lý
được. Do vậy, đã thu hút GCCN tham gia vào quá trình quản lý kinh tế. Vai
trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế ngày càng tăng, sở hữu cổ phần
ngày càng tăng, dẫn tới tham gia vào huy động mới mà bản thân kinh tế
XHCN cũng sử dụng như xu hướng sở hữu tập thể. Sở hữu Nhà nước TBCN
toàn diện mang tính chất sở hữu liên quốc gia, tổ chức kinh tế mang tính
chất khu vực…dẫn đến GCCN sau này tiếp tục được phát triển.

5


Về tiền đề cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH là tổng hoà các yếu tố
vật chất trong LLSX và tất cả các điều kiện kỹ thuật, tổ chức của hoạt động
khoa học – kỹ thuật mang lại nhiều hiệu quả cao, năng suất lao động ngày
càng cao cho CNXH. Từ những thành tựu vật chất trong sản xuất – xã hội
của CNTB giúp trình độ phát triển toàn diện của LLSX ngày càng hiện đại.
Về tiền đề cơ cấu kinh tế, thì nhiều năm gần đây CNTB luôn xã hội
khủng hoảng về cơ cấu ngành, vùng, các thành phần kinh tế, bố trí lực lượng
kinh tế trong phạm vi quốc gia: từ cơ cấu vốn, nguyên vật liệu…làm cho
CNTB phải không ngừng cải cách cơ cấu kinh tế cho phù hợp.
Về cơ cấu ngành, từ cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp cơ khí,
công nghiệp sạch cho đến công nghiệp tri thức có sự phát triển dẫn đến cơ
cấu hợp lý trong xã hội: phát triển ngày càng hiện đại và ngày càng phù hợp
với yêu cầu của kinh tế tri thức. Về tiền đề cơ cấu vùng, làm cho phát triển
thống nhất giữa các vùng miền.Về cơ cấu thành phần kinh tế, tăng lên vai trò
của kinh tế Nhà nước đối với hoạt động kinh tế; sự phát triển của kinh tế
TBCN làm cho các thành phần kinh tế đan xen, luồng vào nhau trong một
nền kinh tế tổng hợp.
Từ những tiền đề kinh tế dưới CNTB ta thấy được những tiền đề rất

có ý nghĩa đối với GCCN và Đảng trong quá trình ra đời và phát triển nền
kinh tế XHCN là: Khẳng định vai trò của nền kinh tế TBCN đối với sự ra
đời của nền kinh tế XHCN. GCCN phải có thái độ lao động và ứng xử sao
cho bảo vệ và kế thừa được tối đa vai trò của tiền đề kinh tế TBCN đối với
kinh tế XHCN. Đảng phải có đường lối kinh tế – xã hội – chính trị đúng đắn
nhằm bảo vệ phát huy kế thừa những tiền đề kinh tế mà nhân loại đã sáng
tạo ra dưới chế độ TBCN. Đối với các nước chậm phát triển đi lên CNXH bỏ
qua giai đoạn phát triển CNTB càng cần phải có chủ trương, chính sách đối

6


nội và đối ngoại để sử dụng tối đa những tiền đề kinh tế toàn cầu phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng XHCN đất nước của mình.
3. Những điều kiện chính trị cho quá trình ra đời và phát triển
nền kinh tế XHCN:
Thứ nhất, GCCN phải tiến hành cuộc đấu tranh chính trị, làm cách
mạng chính trị để thiết lập Nhà nước XHCN và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ XHCN. Vì tất cả các vấn đề đặt ra nó không thể tự chuyển đổi thành
cơ sở cho kinh tế XHCN; GCTS đã và đang tìm mọi cách để duy trì, bảo vệ
nền kinh tế TBCN của họ; và chỉ có cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN
mới tạo ra sức mạnh chính trị để thực hiện bước chuyển cách mạng nhằm
thay thế nền kinh tế XHCN cho nền kinh tế TBCN. Và nhờ đập tan Nhà
nước Tư sản, thiết lập Nhà nước CCVS với sức mạnh của GCCN được tổ
chức thành giai cấp thống trị. Từ đó, mới có thể thực hiện được chuyển biến
từ kinh tế TBCN sang kinh tế XHCN. Chỉ có thiết lập Nhà nước CCVS và
hoàn thiện nền dân chủ thì GCCN mới có điều kiện để đấu tranh cách mạng
có hiệu quả trên lĩnh vực kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH với những
nội dung kinh tế mới và những hình thức ngày càng phong phú trong điều
kiện mới.

Thứ hai, GCCN phải thực hiện cách mạng XHCN trên lĩnh vực đời
sống xã hội. Vì trên cách mạng xã hội trên lĩnh vực văn hoá - tư tưởng nó
tạo ra môi trường, điều kiện rất quan trọng cho lĩnh vực kinh tế phát triển;
cách mạng trên lĩnh vực xã hội nếu không có tính chất cách mạng thì nó sẽ
không có tư duy sáng tạo trong một nền kinh tế, cho nên cách mạng trên lĩnh
vực xã hội nó là một động lực rất quan trọng để GCCN nhân dân lao động
có năng lực cao. Như Lênin đã khẳng định: “Nước Nga chỉ cần thực hiện
được cách mạng trên lĩnh vực văn hoá - tư tưởng là có CNXH”.

7


Thứ ba, GCCN phải thường xuyên tiến hành đấu tranh trên trường
quốc tế để tăng cường sức mạnh kinh tế và đè bẹp mọi sự phản kháng chống
đối của các thế lực phản động quốc tế. Vì cuộc đấu tranh đó nó tạo ra môi
trường thuận lợi cho việc phát huy nội lực; tạo ra môi trường quốc tế để sử
dụng tối đa sức mạnh của thời đại, biến ngoại lực thành nội lực để tạo ra sức
mạnh tổng hợp. Nhờ có cuộc đấu tranh trên trường quốc tế mà có thể phát
huy vai trò của dân tộc, quốc gia vào phát triển kinh tế khu vực và quốc tế.
Góp phần xây dựng trật tự kinh tế thế giới mới và đảm bảo bình đẳng, làm
thất bại mọi âm mưu của thế lực phản động quốc tế.
4. Mục đích của nền kinh tế XHCN:
Các Mác khái quát: Đối với mục đích của nền kinh tế TBCN là không
có mục đích nào khác là sản xuất ra thật nhiều giá trị thẳng dư. Còn mục
đích của nền kinh tế XHCN là: nhằm tạo ra cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất – kỹ
thuật ngày càng hoàn thiện cho việc xoá bỏ chế độ người bóc lột người và
thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của con người về vật chất – tinh thần tạo ra
điều kiện cho con người phát triển ngày càng toàn diện.
Và bản thân nền kinh tế XHCN nó mang bản chất giai cấp và cơ sở hạ
tầng khác về chất của kinh tế TBCN. Về bản chất giai cấp nền kinh tế

XHCN là một nền kinh tế mang bản chất của GCCN, do GCCN khởi xướng
và tổ chức xây dựng nền kinh tế đó. GCCN là bộ phận quan trọng nhất trong
LLSX ngày càng hiện đại ngay cả dưới CNTB. Bản thân GCCN ngày càng
được tri thức hoá và tiếp tục đại diện cho LLSX trong nền kinh tế tri thức.
Cho nên nền kinh tế XHCN, GCCN luôn là lực lượng đi đầu, đi tiên phong
trong việc vận dụng khoa học – kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, làm
ra nhiều của cải lao động. Trong nền kinh tế XHCN, nó luôn được đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng và GCCN.

8


Nền kinh tế XHCN trong thời kỳ quá độ, vận động theo cơ chế thị
trường nhưng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản phục vụ mục tiêu của
GCCN. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, bản chất GCCN còn được thể
hiện kinh tế Nhà nước dưới nhiều hình thức ngày càng được tăng cường mà
GCCN là một bộ phận quan trọng trong kinh tế Nhà nước đó. Mục đích của
nền kinh tế không chỉ vì GCCN mà còn là mục đích vì người lao động và
trên toàn xã hội, mang tính nhân dân. Biểu hiện của sự ra đời mọi thành
phần kinh tế XHCN là thu hút ngày càng nhiều quần chúng lao động tham
gia hoạt động kinh tế.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA NỀN KINH TẾ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM:

1. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế XHCN ở Việt Nam là
một tất yếu lịch sử:
1.1. Trong nước:
Đối với nước lạc hậu như Việt Nam, sau khi giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, giành được chính quyền về tay nhân dân lao động và đang ở
trong giai đoạn xây dựng CNXH. Và muốn xây dựng thành công CNXH tất

yếu không có con đường nào khác là phải xây dựng nền kinh tế XHCN, vì
trong sự nghiệp xây dựng CNCS để thực hiện mục tiêu CNXH là giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội trên cơ sở là xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
cho CNXH và CNCS thì phải xây dựng cho bằng được một nền kinh tế vững
mạnh. Là tất yếu khách quan cho sự ra đời của nền kinh tế XHCN trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
1.2. Quốc tế:
Xây dựng nền kinh tế XHCN ở Việt Nam là tất yếu khách quan của
thời đại. Sau khi giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bắt tay vào sự
nghiệp xây dựng CNXH khi trên thế giới đã có Liên Xô và một số nước
9


XHCN như: Trung Quốc, Cu Ba…Việt Nam đã có được sự giúp đỡ trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước quá độ đi lên CNXH bỏ qua giai
đoạn phát triển của CNTB. Đòi hỏi muốn thực hiện thành công sự nghiệp
xây dựng CNXH thì phải có một nền kinh tế phát triển, đó là tất yếu phải
xây dựng một nền kinh tế XHCN.
2. Ra đời và phát triển từ những tiền đề kinh tế chưa chín muồi:
Nền kinh tế XHCN ở Việt Nam ra đời và phát triển trong điều kiện,
các tiền đề kinh tế chưa chín muồi như sau:
Xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính chất sản xuất
nhỏ, tự cung tự cấp; trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh
nghiệp lạc hậu, không có khả năng cạnh tranh; kỹ thuật năng suất thủ công,
lạc hậu, chủ yếu theo kinh nghiệm truyền thống cổ truyền, chưa có nền sản
xuất công nghiệp hiện đại, số lượng và loại hàng hoá ít, nghèo nàn, đơn
điệu; phân công lao động còn thấp, ngành nghề kém phát triển, lao động
trong nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 80% dân số, sản xuất còn nặng về độc
canh cây lúa; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội còn thấp kém; thu nhập và sức
mua của dân cư thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh

doanh. Yếu tố QHSX – XHCN mới được bắt đầu manh nha xuất hiện.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật kém phát triển, các công cụ sản xuất, máy
móc, công nghiệp do bọn Đế quốc thực dân để lại rất què quặt, cũ…và tất cả
những cái đó nó chỉ phục vụ cho việc khai thác thuộc địa thôi chứ không
phải để phát triển nền kinh tế.
3. Giai cấp công nhân phải thực hiện hai cuộc cách mạng để xoá
bỏ kinh tế đế quốc và thực dân nửa phong kiến:
Trong quá trình ra đời của nền kinh tế XHCN ở Việt Nam, GCCN
phải thực hiện hai cuộc cách mạng để xoá bỏ kinh tế đế quốc và thực dân

10


nửa phong kiến để xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân và sau đó chuyển
làm xây dựng nền kinh tế XHCN bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ TBCN.
GCCN cả nước thực hiện cuộc cách mạng lần thứ nhất, là cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân để nhằm lật đổ chế độ phong kiến và thực
dân. Mục tiêu của cuộc cách mạng này là nhằm xoá bỏ chế độ bóc lột của
nền kinh tế cũ của phong kiến và thực dân đế quốc. Và sau khi cuộc cách
mạng đó thắng lợi, GCCN hoàn toàn nắm được chính quyền trong tay. Để
xây dựng một nền kinh tế mới thì GCCN không phải không kế thừa nền kinh
tế cũ mà vẫn phải tiếp tục kế thừa và phát triển cái sử dụng được cho nền
kinh tế mới của mình như: công cụ, máy móc, công nghiệp , xí nghiệp…Và
sau thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, GCCN
Việt Nam từ những thành tựu kiến quốc là: đã xây dựng một nền kinh tế dân
tộc dân chủ, trong đó có những nhân tố đầu tiên của CNXH. Nền kinh tế ấy
đảm bảo cho nhân dân Việt Nam “tự lực cánh sinh” trong suốt những năm
kháng chiến và tạo nên những dấu ấn sâu sắc cải tạo nền kinh tế nô dịch thực
dân và tiến hành cuộc cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng XHCN là của
GCCN Việt Nam là quá trình tạo lập từng bước cơ sở vật chất của CNXH,

CNCS tức là phải xây dựng nền kinh tế XHCN.
4. Nền kinh tế Việt Nam trải qua một thời kỳ dài xây dựng nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp:
Nền kinh tế XHCN ra đời và phát triển ở Việt Nam phải trải qua một
giai đoạn dài của cuộc xây dựng nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, nhân dân miền Bắc vừa xây dựng
CNXH, vừa làm nhiệm vụ của hậu phương lớn, vừa phải trực tiếp chống lại
hai cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ. Vì thế, nền kinh tế miền Bắc
chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ chế quản lý kinh tế vốn
nặng về tập trung quan liêu bao cấp, lại bị chi phối thêm bởi quy luật chiến
11


tranh nên càng bị méo mó, phi kinh tế. Sau 1975, chiến tranh kết thúc, cơ
chế quản lý kinh tế càng bộ lộ rõ hơn những bất cập của nó. QHSX có dấu
hiệu của sự khủng hoảng.
Đối với miền Nam, chủ yếu của nền kinh tế vẫn là sản xuất nhỏ, cơ
cấu kinh tế mất cân đối và lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngoài. Vì vậy,
khi Mỹ rút quân, cắt giảm viện trợ thì nền kinh tế miền Nam lập tức rơi vào
tình trạng của sự khủng hoảng.
Sau khi thống nhất đất nước, đến năm 1986 Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đưa ra đường lối thực hiện kế hoạch đổi mới, xây dựng nền kinh tế nền cơ
chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế kinh tế này, gây ra
một hậu quả rất nặng nề cho quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế của
Việt Nam. Và mãi sau, thực hiện kế hoạch đổi mới kinh tế cho đến năm
1990 vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế. Vì cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nó chỉ phù hợp với thời kỳ chiến
tranh. Nó đòi hỏi trong thời kỳ mới, Đảng Cộng sản Việt Nam phải có những
chủ trường, đường lối chính sách đúng đắn hơn về sự nghiệp xây dựng nền
kinh tế mới ở Việt Nam.

5. Xây dựng nền kinh tế XHCN trong điều kiện quốc tế có nhiều
thời cơ, đồng thời có nhiều thách thức:
5.1 Thời cơ:
Đối với những nét mới trong tình hình thế giới và khu vực trong giai
đoạn hiện nay, có nhiều tác động mạnh mẽ đến tình hình của sự phát triển
kinh tế của đất nước. Đứng trước những điều kiện mới do sự tác động của
tình hình biến đổi ấy đất nước, dân tộc Việt Nam có cả cơ hội lớn và thách
thức lớn.
Ngày này, thế và lực của nước Việt Nam đã lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở
vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường, đất nước còn nhiều
12


tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động và nhân dân Việt Nam có phẩm chất
tốt đẹp. Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, môi trường hoà bình, sự
hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện
để cho tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh tranh thủ ngoại lực.
5.2 Thách thức:
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất
nước, đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn là: tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch
hướng XHCN, nạn quan liêu tham nhũng và diễn biến hoà bình mà các thế
lực phản động gây ra…đến này tình hình này vẫn tồn tại và diễn biến rất
phức tạp. Nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế của đất nước, điều cần
nhấn mạnh hơn là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhà lãnh
đạo có chức quyền đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân; Việt Nam
vẫn còn là một nước có nền kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân
còn thấp kém, trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt.

Đây là một thách thức, khó khăn rất lớn cho việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế XHCN ở Việt Nam.
III. Ý NGHĨA CỦA QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN
KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM:

1. Thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ trung
tâm của quá trình ra đời và phát triển của kinh tế ở Việt Nam:
Đối với các nước có nền kinh tế sản xuất nhỏ, kém phát triển, chưa
qua giai đoạn phát triển của CNTB, chưa có đại công nghiệp, tiến thẳng lên
CNXH thì phải xây dựng từ đầu, phải đi từ không đến có, từ gốc đến ngọn.

13


Do vậy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là tất yếu khách quan để xây dựng cơ
sở vật chất – kỹ thuật cho mục tiêu CNXH.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở các nước như: Việt Nam và Lào. Quá trình công nghiệp hoá
- hiện đại hoá được thực hiện đầy đủ đúng đắn sẽ có tác dụng to lớn về mặt
trong sự nghiệp phát triển kinh tế XHCN của đất nước.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ tạo điều kiện thay đổi về chất nền
sản xuất - xã hội, làm tăng năng suất lao động, tăng khả năng của con người
chinh phục và chế ngự thiên nhiên, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của CNXH.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc
tăng cường củng cố vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý,
khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu
nhập giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt
động kinh tế của đất nước. Thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo

điều kiện thuận lợi cho khoa học – công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ
tiên tiến hiện đại, tăng cường lực lượng vật chất – kỹ thuật cho quốc phòng,
an ninh, đảm bảo đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng
được hoàn thiện. Thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo ra điều kiện
vật chất – kỹ thuật để nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ,
đa dạng hoá, đa phương hoá, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần;
thực hiện tốt việc mở rộng phân công lao động và hợp tác lao động trong
nước và quốc tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên tất cả các
mặt, các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế XHCN.
Và muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá thì phải tuân thủ giải pháp như: phát triển nguồn nhân lực, tạo nguồn
14


vốn tích luỹ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá; khai thác sử dụng tài
nguyên thiên nhiên; đẩy mạnh hợp tác và phân công quốc tế; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
2. Phương hướng xây dựng nền kinh tế ở nước Việt Nam hiện
nay:
Từ nhận thức được đặc điểm của quá trình ra đời và phát triển kinh tế
XHCN ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những phương hướng
để phát triển kinh tế XHCN như sau:
Thứ nhất, về công nghiệp, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001
- 2010 do Đại hội IX của Đảng xây dựng đã đề ra mục tiêu phát triển công
nghiệp như sau: “Nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (kể cả xây
dựng) bình quân trong 10 năm tới đạt khoảng 10 - 15%/năm. Đến năm 2010,
công nghiệp và xây dựng chiếm 40 - 41%GDP và sử dụng 23 - 24% lao
động. Giá trị xuất khẩu công nghiệp chiếm 70 - 75% tổng kim ngạch xuất
khẩu” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB - CTQG,
HN/2001, tr 175).

Thứ hai, về nông nghiệp, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 –
2010 được trình bày tại Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu mà ngành
nông nghiệp phải đạt tới là: “Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản,
lâm sản) tăng bình quân 4,0 - 4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương
thực có hạt đạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng
16 - 17%, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 9 - 10 tỷ USD, trong
đó thuỷ sản đạt khoảng 3,5 tỷ USD”(VK Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB - CTQG, HN/2001, tr 173).
Thứ ba, về dịch vụ thì bước vào thế kỷ mới này dịch vụ là một mặt
phải hỗ trợ đắc lực cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá toàn bộ nền
kinh tế; mặt khác phải vươn lên từng bước hiện đại hoá để trở thành một
15


ngành kinh tế quốc dân. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng là
quá trình giảm số lượng lao động trong nông nghiệp và công nghiệp, tăng số
lao động trong các ngành dịch vụ. Phát triển kinh tế dịch vụ chính là thực
hiện sự phân công lao động xã hội theo hướng tiến bộ, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển nhanh chóng và bền vững. Mục tiêu, phương hướng về
phát triển kinh tế dịch vụ mà Đại hội Đảng IX đề ra là: “Toàn bộ các hoạt
động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 8%/năm và đến năm 2010 chiếm 42 - 43%GDP, 26 - 27% tổng số lao
động”(VK Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia,
HN/2001, tr 179).
Thứ tư, về phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại, thì xuất phát từ
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai
đoạn mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực
tổng hợp để phát triển đất nước”(VK Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Chính trị quốc gia, HN/2001, tr 25 - 26).


PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, từ nhận thức những đặc điểm của quá trình ra đời và phát
triển của nền kinh tế XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đề ra đúng đắn phương hướng
phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xây dựng thành công một nền kinh tế mới – kinh tế XHCN.
Thực tế đã và đang chứng minh điều đó trong giai đoạn hiện này,
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển CNTB thì
16


Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đưa ra những chủ trường, đường lối về xây
dựng nền kinh tế XHCN rất đúng đắn và phù hợp với tình hình hoà nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Trong bối cảnh tình hình ấy Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng kinh tế vào loại nhất nhì trên thế giới; đồng thời vẫn bảo đảm
tiếp tục hoàn thiện và ổn định xã hội.
Để nền kinh tế XHCN tiếp tục được ổn định và phát triển, đứng vững
trước mọi sự biến cố, có thái độ hợp tình hợp lý đối với những vấn đề mới
nảy sinh trên thế giới Đảng phải luôn đưa ra đúng đắn về chủ trương, đường
lối và chính sách về phát triển kinh tế.

17


MỤC LỤC
Phần mở đầu……………………………………………………………
1
Phần


nội

dung…………………………………………………………..4
I.

Quan

điểm

của

chủ

nghĩa

Mác

Lênin

về

sự

ra

đời…………………..4
II.

Những


đặc

điểm

của

quá

trình

ra

đời

của

đời



nền……………………….9
III.

ý

nghĩa

của

quá


trình

ra

phát……………………………….13
Phần

kết

luận…………………………………………………………..16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bài giảng: Qui luật ra đời và phát triển nền kinh tế XHCN Việt

2.

Giáo trình CNXHKH.

3.

Giáo trình Lịch sử kinh tế Việt Nam.

Nam.

18




×