Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn quận tân bình, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trần Minh Tuấn

PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN BÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trần Minh Tuấn

PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN BÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHÓA HỌC
PGS.TS. HỒ XUÂN THẮNG


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan rằng, dưới sự giúp đỡ tận tình của Giảng viên
hướng dẫn PGS.TS Hồ Xuân Thắng, đây là công trình nghiên cứu của bản
thân tôi. Các số liệu và nội dung nghiên cứu trong luận văn ‘Pháp luật về thuế
đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh’
này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố ở bất cứ công trình
nào khác. Khi phân tích, nhận xét, đánh giá kết hợp việc sử dụng số liệu của
các tác giả khác, cơ quan tố chức khác, Tác giả đều chú thích rõ ràng nguồn
gốc sau mỗi trích dẫn theo đúng quy định của khoa học nghiên cứu.
TP.HCM, ngày 30 tháng 03 năm 2018
Tác giả

Trần Minh Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THUẾ ĐỐI VỚI
HỘ KINH DOANH ................................................................................................10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam ........10
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Hộ kinh doanh ....................................10
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thuế và pháp luật thuế.....................................16
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thuế đối với Hộ kinh doanh ở nước ta.....22
1.2.1. Giới thiệu tổng quan quá trình hình thành và pháp triển pháp luật thuế
đối với hộ kinh doanh ở nước ta.........................................................................22
1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thuế đối với Hộ kinh doanh ở nước
ta .........................................................................................................................31

Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ
KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 40
2.1.Tình hình kinh tế-xã hội và thực trạng họat động kinh doanh của hộ kinh doanh
trên địa bàn quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh từ 2010 đến nay......................40
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh từ
2010 đến nay ......................................................................................................40
2.1.2. Tình hình hoạt động của hộ kinh doanh trên địa bàn quận Tân Bình
Thành phố Hồ Chí Minh từ 2010 đến nay ..........................................................40
2.2. Thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh
trên địa bàn quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh từ 2010 đến nay.....................42
2.2.1. Thực trạng hoạt động của cơ quan quản lý thuế ở quận Tân Bình thành
phố Hồ Chí Minh ................................................................................................42
2.2.2. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký thuế
đối với hộ kinh doanh trên địa bàn quận Tân Bình. ..........................................43


2.2.3. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật hiện hành về lệ phí môn bài
đối với hộ kinh doanh trên địa bàn quận Tân Bình ...........................................47
2.2.4. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt tại quận Tân Bình .............52
2.2.5.Tình hình thi hành pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế đối
với hộ kinh doanh trên địa bàn quận Tân Bình ..................................................59
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thuế đối với Hộ kinh doanh ..............64
2.3.1. Kiến nghị liên quan đến các quy định của pháp luật về thuế đối với hộ
kinh doanh ..........................................................................................................64
2.3.2. Kiến nghị đối với Chi cục thuế quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh .68
2.3.3. Kiến nghị đối với người nộp thuế là Hộ kinh doanh ................................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CCTQTB

Chi cục Thuế quận Tân Bình

DN

Doanh nghiệp

DT

Doanh thu

GTGT

Giá trị gia tăng

HKD

Hộ kinh doanh

NNT

Người nộp thuế

NSNN


Ngân sách nhà nước

TNCN

Thu nhập cá nhân

TMB

Thuế môn bài

TTĐB

Tiêu thụ đặc biệt


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình kinh tế quận Tân bình Tháng 04 năm 2016
Bảng 2.2. Số liệu duyệt bộ môn bài 2018 chi cục thuế Tân Bình đối với hộ
kinh doanh
Bảng 2.3. Theo dõi tình hình nộp thuế giá trị gia tăng tại quận Tân Bình 2017


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo điều 5, khoản 1 Luật Ngân sách nhà nước(NSNN) hiện hành có quy định
phạm vi ngân sách nhà nước, trong đó thu NSNN bao gồm: “toàn bộ các khoản thu
từ thuế, lệ phí”.
Lệ phí là khoản thu vừa mang tính phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về thủ tục
thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho

NSNN. Thu phản ánh các quá trình phân phối lại thu nhập trong xã hội, thể hiện các
mối quan hệ tài chính giữa nhà nước với các pháp nhân và thể nhân trong phân phối
các nguồn tài chính và là công cụ cơ bản thực hiện phân phối tài chính. Thuế là
nguồn thu chủ yếu chiếm tỷ trọng cao nhất trong sáu khoản thu của NSNN. Việc áp
dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế đã làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế và trách
nhiệm thu thuế. Các quan hệ pháp luật này luôn luôn ẩn chứa nhiều rủi ro do các
chủ thể luôn cảm thấy không công bằng. Do vậy, bảo đảm nguồn thu từ thuế luôn là
vấn đề cần bàn đối với tất cả các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế và cũng là
quyền và trách nhiệm của mỗi công dân.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tham gia rất đa dạng
không đồng nhất cả về quy mô vốn và ngành nghề hoạt động. Đáng chú ý là nhóm
người kinh doanh nhỏ lẻ mang tính chất hộ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
có thể trở thành những DN tiềm năng nếu được hỗ trợ khuyến khích kinh doanh
bình đẳng. Trong báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI
khẳng định ‘nền kinh tế thị trường hiện đại’, là một loại hình kinh tế thị trường rất
nhân văn, cạnh tranh công bằng, khuyến khích người có năng lực, nhưng đồng thời
cũng hỗ trợ người yếu thế để mọi người cùng có cơ hội phát triển. Theo các nhà
nghiên cứu kinh tế-luật thì một trong những chủ thể được xem là yếu thế trong nền
kinh tế tư nhân nước ta, đó chính là hộ kinh doanh. Đây là thành phần quy mô nhỏ
lẻ, phát triển kinh tế gia đình nhằm tăng thu nhập, kinh doanh theo kinh nghiệm,
không thực hiện chế độ sổ sách kế toán mà chủ yếu nộp thuế theo phương pháp
khoán. Câu hỏi đặt ra là làm sao để hỗ trợ hộ kinh doanh tham gia hoạt động trong
1


thị trường một cách hợp lý bên cạnh việc thực thi pháp luật về thuế cho hiệu quả.
Vấn đề này không chỉ của riêng ai, cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị, trong đó vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế là rất quan trọng.
Ngoài ra, hiện tượng đáng báo động hiện nay của ngành thuế là Thất thu thuế,
nợ thuế, chi phí quản lý lớn mà nguyên nhân cũng bao gồm từ thực tiễn thực hiện

pháp luật về thuế trong đó có vấn đề thuộc về HKD. Pháp luật hiện hành quy định,
đối với HKD có mức DT từ 100 triệu đồng/năm trở lên, thì các loại thuế, phí phải
nộp bao gồm: Lệ phí môn bài, thuế GTGT, thuế TNCN, thuế TTĐB. HKD phải nộp
thuế dạng thuế khoán, xác định thuế phải nộp dựa trên DT; DT tính thuế là toàn bộ
tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng dịch vụ phát sinh trong kỳ
tính thuế bao gồm cả DT khoán và DT trên hoá đơn (Đối với cá nhân kinh doanh sử
dụng hoá đơn của cơ quan thuế). Trên cơ sở mức DT khoán do cá nhân kinh doanh
tự khai; Mức DT khoán năm liền trước năm tính thuế; Chi cục Thuế phối hợp với
Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn để duyệt mức DT khoán ổn định, gửi cho
cá nhân kinh doanh và công khai theo quy định. Những quy định nêu trên đây chưa
thực sự phù hợp với giai đoạn hiện nay trong nền kinh tế thị trường, vi phạm
nguyên tắc bình đẳng, không khích lệ được sự tham gia kinh doanh của thành phần
kinh tế cá thể là hộ kinh doanh và chắc chắn ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước là
thất thu thuế, thiếu ngân sách trầm trọng. Tình trạng cán bộ thuế thoả hiệp với đối
tượng nộp thuế để giảm bớt số thuế phải nộp, nhất là trong trường hợp xác định
doanh thu, mức thuế khoán xem xét miễn giảm thuế còn tồn tại khá phổ biến.
Mặt khác, Các quy định của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn tại địa
phương quận Tân Bình Tp. Hồ Chí Minh, như đăng ký thuế, sử dụng hóa đơn, xác
định doanh thu, thuế môn bài vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc; Trình độ, ý thức
của cán bộ thuế chưa cao, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hoạt động của các hộ
kinh doanh và sự quản lý nhà nước ở địa phương.
Vì vậy, Tác giả quyết định chọn đề tài: “ Pháp luật về thuế đối với hộ kinh
doanh từ thực tiễn Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài nghiên
cứu trình độ Thạc sỹ Luật.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài thuộc nhóm nghiên cứu chuyên ngành Luật kinh tế trong tất cả các cơ
sở đào tạo trình độ sau đại học, đã có rất nhiều bài viết, tài liệu, sách, cả những công

trình nghiên cứu Thạc sỹ, Tiến sỹ, họ đã đề cập đến chủ đề pháp luật về thuế đối với
Hộ kinh doanh, được tiếp cận ở góc độ khác nhau như kinh tế, pháp luật và kể cả
triết học, với sự khác nhau về quy mô, về phạm vi, phương pháp điều chỉnh, như :
1. Bài báo khoa học: “Tổng quan về khu vực kinh tế hộ tại Việt Nam”, Tác giả: Đậu
Anh Tuấn, VCCI, Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2016. Đây là một
bức tranh toàn cảnh về kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam, giúp người viết cảm nhận
rõ hơn về chủ thế Hộ kinh doanh trong các quan hệ pháp luật về tài chính.
2. Bài báo khoa học: “Phát triển Hộ kinh doanh cá thể: phân tích từ quản trị vốn và
tài chính’ của Phạm Văn Hồng-Cao đẳng Công nghệ Viêttronics trên tạp chí tài
chính kỳ 2 tháng 4/2016, góc độ bài viết này chỉ đề cập đến sự phát triển và đóng
góp của Hộ kinh doanh trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và tình trạng thiếu
vốn, khó tiếp cận nguồn vốn vay.
3. Bài báo khoa học: “Một số vấn đề pháp lý về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh
ở Việt Nam hiện nay” của Đặng Văn Linh, Tạp chí Tài chính kỳ 1, số tháng 3/2017.
4. Bài báo khoa học: “Hoàn thiện hành lang pháp lý về thuế đối với hộ kinh doanh
ở Việt Nam”, ThS. Ngô Thị Thu Hà, ThS. Đinh Văn Linh, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 số
5/2016; Tác giả đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về thuế đối với
hộ kinh doanh và đưa ra một số kiến nghị rất sát thực với yêu cầu cần thiết phải
Hoàn thiện hành lang pháp lý về thuế đối với hộ kinh doanh ở Việt Nam.
5. Bài báo khoa học:‘Phân tích pháp luật về Hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập’
của Ngô Huy Cương trên tạp chí Khoa học đại học quốc gia Hà nội, Luật học số
25(2009), bài viết này tác giả đề cập đến khái niệm, bản chất, đặc điểm pháp lý của
Hộ kinh doanh, điều kiện, thủ tục đăng ký kinh doanh của Hộ kinh doanh qua việc
đối chiếu so sánh văn bản pháp luật trong từng giai đoạn lịch sử.
6. Bài báo khoa học ThS. Mai Thị Thanh Xuân, ThS. Đặng Thị Thu Hiền (2013),
“Nghiên cứu phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học
3


Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 29, Số 3 (2013); Bài báo rất ấn

tượng, giúp người viết thấy rõ những rủi ro và phương thức giải quyết rủi ro mà hộ
kinh doanh Việt Nam đã, đang và sẽ đối mặt.
7. Bài báo khoa học: Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập, của
TS. Ngô Huy Cương, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà nội, luật học số 25,
năm 2009. Nội dung chỉ phản ánh những bất cập trong quy định về hộ kinh doanh
thông qua việc phân tích, bình luận, chứng minh về khái niệm “hộ kinh doanh” và
các quy định liên quan đến chủ thể kinh doanh này trong nền kinh tế thị trường do
Luật Doanh nghiệp 2005 điều chỉnh. Bài báo khoa học này không nghiên cứu về
quy định thuế đối với hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.
8. Bài báo khoa học: “Cơ sở xác định thu nhập thuế trong pháp luật thuế thu nhập cá
nhân dưới góc độ công bằng” Tác giả Trần Minh Đức, Tạp chí khoa học Nhà nước
và pháp luật, số 2 năm 2012. Nội dung bài viết Tác giả tập trung vào việc xác định
thu nhập thuế cho tất cả các đối tượng chịu thuế về thu nhập cá nhân cần theo một
cơ sở nhất định và công bằng bình đẳng để đạt hiệu quả cao nhất có thể. Đặc biệt
trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế thế giới ở nước ta cần hướng đến việc nộp thuế
là nghĩa vụ của toàn dân.
9. Bài báo khoa học: “Vấn đề kiểm soát thu nhập pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam, Tác giả Nguyễn Hải Ninh, Tạp chí Luật học số 3 năm 2015 Trường Đại
học Luật Hà Nội. Tác giả đã tập trung nêu rõ những quy định của pháp luật hiện
hành về kiểm soát thu nhập của tất cả các chủ thể trong đó có hộ kinh doanh theo
pháp luật thuế thu nhập cá nhân điều chỉnh, trên cơ sở đó tác giả đề ra những giải
pháp hoàn thiện về quy định này trong pháp luật.
10. Bài báo khoa học ‘Tăng cường quản lý thuế đối với hộ kinh doanh’, Tác giả
Kim thao, 01/08/2016. Bài báo nêu rõ tổng quan quản lý thuế
đối với hộ kinh doanh ở nước ta sau khi Luật thuế đã được ban hành, ngoài ra Tác
giả bài báo cũng đưa ra những kiến nghị thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh.
4



11. Đề tài khoa học cấp cơ sở: ‘’Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế’’, Tác giả,
Ths Trần Vũ Hải, đại học luật Hà nội, năm 2011. Đề tài này mang lại những giá trị
nhất định về thực trạng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế – nguyên nhân và giải
pháp.
12. Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Vấn đề thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh
doanh của hộ kinh doanh”, Tác giả, Nguyễn Thị Kinh Dung, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh năm 2014. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp
luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng của các HKD trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh trên cơ sở đó tác giả kiến nghị một số vấn đề khắc phục những bất cập trong
việc thu thuế giá trị gia tăng đối với nhóm kinh doanh nhỏ lẻ là Hộ kinh doanh.
13. Luận văn Thạc sỹ, “Thực tiễn thi hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở VN và
định hướng hoàn thiện” Luận văn Thạc sỹ Luật học của Tác giả La Thị Tuyết Anh,
Hà Nội Năm 2011. Luận văn bàn về pháp luật thu nhập cá nhân và vấn đề thực thi
các quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở tác giả phân tích những
mặt mạnh, yếu kém của một số tỉnh thành trong cả nước từ đó đề ra những kiến
nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thuế thu nhập cá nhân trong đó có liên quan
đến đối tượng chịu thuế là những hộ kinh doanh ở nước ta.
14. Luận văn thạc sỹ, ‘Những vấn đề pháp lý cơ bản về đối tượng chịu thuế và
những trường hợp không thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường”, Tác giả: Nguyễn
Ngọc Thủy, trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh 2014:Nội dung này giúp làm rõ
sáng tỏ nội dung Pháp luật về đối tượng chịu thuế Bảo vệ môi trường và thực trạng
một số tỉnh thành trên phạm vi cả nước; Pháp luật về đối tượng chịu thuế Bảo vệ
môi trường.
15. Luận văn thạc sỹ, ‘Pháp luật về thuế đối với Hộ kinh doanh từ thực tiễn quận 7TP.Hồ Chí Minh’ của Tác giả: Nhữ Thị Hạnh, đơn vị Nghiên cứu là Học viên khoa
học xã hội 2015. Đề tài này đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, đặc điểm của pháp
luật về quản lý thuế đối với Hộ kinh doanh và thực trạng quy định, thực trạng thực
hiện pháp luật quản lý thuế đối với Hộ kinh doanh thuộc phạm vi địa bàn quận

5



16. Luận văn thạc sỹ, “Biện pháp tăng cường quản lý thu thuế Hộ kinh doanh cá thể
tại Chi cục Thuế quận Kiến An, Hải Phòng của tác giả Phạm Đức Hoàng, năm
2014. Điểm nổi bật của luận văn chính là những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về thuế đối với Hộ kinh doanh, nội dung trên giúp người viết xác định rõ cơ sở
lý luận để giải quyết tốt chương 2 luận văn.
17. Luận văn Thạc sỹ Luật học: Pháp luật về thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân:
Thực trạng và định hướng hoàn thiện” của Tác giả Nguyễn Đăng Bỉnh, trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2011. Luận văn nghiên cứu trên góc độ cá
nhân có thu nhập phải chịu thuế thu nhập cá nhân theo pháp luật hiện hành trong đó
có đối tượng là những cá nhân thuộc hộ kinh doanh, nhóm người kinh doanh. Trên
cơ sở tác giả phân tích thực trạng thi hành pháp luật thu nhập chịu thuế thu nhập cá
nhân một số tỉnh thành tỏng cả nước giai đoạn 2005 đến 2010 và một số giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý thuế thu nhận cá nhân.
18. Giáo trình Luật tài chính 2 (Thuế) NXB Đại học Cần Thơ, năm 2009 của Tác
giả, Lê Thị Nguyệt Châu. Nội dung tập trung phân tích đầy đủ các quy định của
pháp luật về các loại thuế hình thành trong đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam
trong đó tác giả chú ý phân tích rõ nguồn gỗ, đặc điểm chế định thuế đối với Hộ
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
19. Giáo trình thuế I, NXB Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2013, Tác giả Lê
Quang Cường, Nguyễn Kim Quyên. Sau khi Luật Quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định 83/2013/NĐ-CP ngày
22/07/2013 được ban hành, Giáo trình tập trung giải quyết các chế định về thuế trực
thu, thuế gián thu và thuế đánh vào hành vi người tiêu dùng. Đặc biệt thuế đối với
chủ thể kinh doanh cá thể mà gọi chung là hộ kinh doanh cũng được phân tích sâu
sắc chi tiết hơn trong giáo trình chuyên ngành kinh tế này.
Những bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học, giáo trình, luận văn
nghiên cứu ở trình độ sau đại học đã liệt kê trên đây có thể đánh giá là những công
trình có giá trị tham khảo rất quý giá. Nhất là trong cách lập luận hành văn, cách đặt

6


vấn đề, khả năng phân tích với những giải pháp, kiến nghị phù hợp và rất khoa học.
Các công trình nghiên cứu đó có phạm vi, đối tượng nghiên cứu rộng, đều phản ánh
các chính sách, chủ trương và quy định Luật của nó thích hợp với mỗi thời kỳ khác
nhau. Nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể thực thi pháp luật thuế đối với hộ
kinh doanh ở cấp cơ sở- quận của thành phố trực thuộc Trung ương trong giai đoạn
hội nhập kinh tế thế giới hiện nay như thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả mong muốn
luận văn này sẽ góp phần giải quyết được nhiều điểm mới có giá trị phù hợp về mặt
lý thuyết pháp lý và thực trạng thi hành pháp luật, nhằm góp phần vào sự phát triển
của thành phần kinh tế tại Việt Nam, trong đó có thành phần kinh tế hộ kinh doanh
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật về thuế đối với hộ kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam, tập trung phân tích các quy định hiện hành. Trên cơ
sở đó, tác giả tiến hành phân tích thực trạng thực hiện pháp luật thuế đối với hộ kinh
doanh qua thực tiễn tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến
nay; Đưa ra các kiến nghị nhằm giải quyết những vấn đế nóng tại địa bàn của Quận
Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh, là một Quận có nhiều thế mạnh trong sự phát
triển chung của thành phố trong thời gian qua, hiện tại và tương lai; Với đặc thù là
quận có nhiều cư dân sinh sống đến từ nhiều vùng miền khác nhau của cả nước, có
mức thu nhập trung bình và hành nghề kinh doanh cá thể chiếm tỷ lệ phần trăm lớn
trong tất cả các quận huyện của thành phố.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến pháp
luật về thuế đối với HKD đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực thi những văn bản pháp
luật Việt Nam hiện hành có liên quan, cụ thể là thuế khoán, thuế TNCN, thuế TTĐB
và thuế giá trị gia tăng.

-Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về thuế đối với hộ kinh
doanh tại địa bàn quận Tân bình, thành phố Hồ Chí Minh.
7


- Đưa ra những kiến nghị của chính tác giả nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh và tính khả thi áp dụng quy định của pháp
luật về thuế đối với HKD trên địa bàn quận Tân Binh, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào đối tượng cụ thể:
- Nôi dung quy định của pháp luật của nước ta trong lĩnh vực thuế như pháp
luật lệ phí môn bài, thuế TNCN, thuế TTĐB và thuế giá trị gia tăng, điều chỉnh các
các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực thuế liên quan trực tiếp đến chủ thể là HKD.
- Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật của nước ta trong lĩnh vực thuế
đối với hộ kinh doanh trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn về thời gian các quy định của pháp
luật về thuế đối với HKD như là luật lệ phí môn bài; Luật thuế TNCN; Luật thuế
TTĐB; Luật thuế GTGT việc thực hiện áp dụng quy định pháp luật về thuế đối với
HKD trên địa bàn quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả dựa trên quan điểm duy vật biện chứng kết hợp duy vật lịch sử để nghiên
cứu đề tài, cụ thể, sử dụng :
Một, Phương pháp phân tích: Làm rõ khái niệm HKD, đặc điểm HKD, pháp luật
về thuế, quy định của pháp luật về thuế. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về
thuế đối với HKD trên địa bàn quận Tân Bình TP.Hồ Chí Minh.
Hai, Phương pháp thống kê: Thu thập số liệu thực trạng, thực tiễn về chấp hành
thuế của HKD và quản lý thuế của cơ quan thuế tại quận Tân Bình thành phố Hồ
Chí Minh.

Ba, Phương pháp quy nạp, diễn dịch so sánh: Đối chiếu các quy định của pháp
luật về thuế qua các thòi kỳ mà cơ quan thuế quận Tân Bình đã thực hiện đối với hộ
kinh doanh.

8


Bốn, Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng nhằm khái quát hóa để đưa ra những
đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn vấn đề chấp hành thuế và quản lý thuế đối
với HKD trên địa bàn quận Tân Bình TP. Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa khoa học và phạm vi ứng dụng
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
Một, Góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về
thuế bằng việc bổ sung phân tích chứng minh những quy định hiện hành về thuế đối
với HKD nhỏ lẻ ở nước ta.
Hai, Phân tích, đánh giá thực trạng chấp hành pháp luật thuế đối với HKD trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2017 từ đó nhận diện được những
thành công, hạn chế và nguyên nhân căn bản.
Ba, Đề xuất một số kiến nghị thúc đẩy việc thực hiện tốt các quy định của
pháp luật về thuế đối với HKD trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh phù hợp với tiềm năng
đóng góp về mọi mặt của chủ thể này cho sự phát triển chung của thành phố.
Bốn, Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu của sinh viên chuyên ngành Luật
Kinh tế
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày thành 02 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung vê pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh
Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa
bàn quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến nay và một số kiến
nghị hoàn thiện.


9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THUẾ
ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Hộ kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh:
Ở nước ta, hộ kinh doanh luôn là hình thức kinh doanh nhỏ lẻ đầu tiên được nghĩ
đến khi muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nó hình thành từ những
ngày đầu của thời kỳ đổi mới năm 1986. Qua từng giai đoạn phát triển kinh tế đất
nước, HKD đã được gọi với nhiều tên khác nhau: hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp,
thương nhân đơn lẻ, thương nhân thể nhân, HKD cá thể, HKD.
Trong các văn bản pháp luật ở thời kỳ đổi mới của nước ta “hộ kinh doanh” được
thừa nhận với cụm từ “hộ cá thể” và “hộ tiểu công nghiệp”. Tại Nghị định số 27-HĐBT
ngày 9/3/1988 của Hội đồng Bộ Trưởng; Nghị định đầu tiên này qui định về chính sách
đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây
dựng, vận tải. “Để thể chế hóa các chủ trương mới đã nêu trong Nghị quyết Đại hội
lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp,
dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải; Để giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát
huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, huy động khả năng của nhân dân phát triển
sản xuất hàng hóa và dịch vụ sản xuất phục vụ đời sống và phục vụ xuất khẩu; Để phát
triển kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh, kết hợp chặt chẽ kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh
với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể”[21, lời nói đầu]
Phải nhận thấy rằng “hộ kinh doanh” tiếp tục được đổi thành cụm từ “ Hộ kinh
doanh cá thể”, tức là được ghi nhận tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000
của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, quy định: “Hộ kinh doanh cá thể do một cá

nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường
xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh.” [13]. Đây là văn bản đầu tiên hướng dẫn thi hành
luật DN tư nhân năm 1999 của thời kỳ đổi mới kinh tế đất nước thừa nhận một cá nhân
hoặc một hộ gia đình làm chủ HKD cá thể. Tiếp theo đó 4 năm sau, pháp luật kinh tế

10


nước ta được góp phần bởi Nghị định số 109/2004/NĐ- CP ngày 02/4/2004, Chính phủ
ban hành, quy định về đăng ký kinh doanh, có định nghĩa: “Hộ kinh doanh” là “Hộ
kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh
doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh’’[14].
Sau khi Luật DN năm 2005 ra đời, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP, ngày 29/8/2006
của Chính phủ quy định về đăng ký kinh doanh, cụm từ “Hộ kinh doanh” cũng được sử
dụng là “HKD cá thể”. Tại khoản 1 Điều 36 Nghị định số 88/2006 NĐ-CP định nghĩa:
“HKD do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia
đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười
lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh.”. Tiếp tục điều chỉnh hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường bằng Luật DN 2005, hộ kinh doanh cá thể không phù hợp với nhu cầu ngày
càng đa dạng, phức tạp hơn của thị trường. Do đó, ngày 15 tháng 4 năm 2010, Chính
phủ ban hành Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định về đăng ký kinh doanh, tại văn bản
dưới luật này, cụm từ “hộ kinh doanh cá thể” được hủy bỏ và thay vào đó là cụm từ
“Hộ kinh doanh”. Cụm từ này lần đầu tiên được định nghĩa như sau: “Hộ kinh doanh
do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm
chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động,
không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động
kinh doanh.” [16, Điều 49]

Do sự đòi hỏi tất yếu của thị trường, các chủ thể kinh doanh phải được pháp luật
điều chỉnh một cách phù hợp hơn với đời sống kinh tế xã hội, luật DN 2005 đã bị bãi
bỏ, đồng nghĩa với việc xác định “Hộ kinh doanh” theo một khái niệm chuẩn xác mới,
khoa học hơn so với trước đây. Tại khoản 1, Điều 66, Nghị định 78/2015/NĐ-CP của
Chính phủ có đưa ra khái niệm‘’Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người
gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng
dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt
động kinh doanh”.
Định nghĩa về “hộ kinh doanh” trên đây cho thấy, căn cứ vào chủ thể hình thành,
HKD được chia thành ba loại: Môt: HKD do một cá nhân làm chủ; Hai: hộ kinh doanh

11


do hộ gia đình làm chủ; Ba: HKD do một nhóm người làm chủ. Có thể nói, đây là một
đặc trưng cơ bản của HKD ở Việt Nam. Cho dù, “Hộ gia đình” được kinh doanh dưới
hình thức hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh như khái niệm trên đều xuất phát từ
việc Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 qui định “Hộ gia đình” là chủ thể của
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Vì vậy có nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu:
Thứ nhất, “Hộ gia đình” theo quan điểm hiện nay không phải là cá nhân và cũng
không hẳn là pháp nhân, mà là một chủ thể đặc biệt của Pháp luật Việt Nam. Trái
ngược quan điểm trước đây, theo Nghị định số 27-HĐBT ngày 9/3/1988 Hộ cá thể và
Hộ tiểu công nghiệp, tức là hình thức đầu tiên của HKD cá thể hay HKD gọi là thương
nhân thể nhân.
Thứ hai, tập hợp các cá nhân hay các thành viên của “hộ gia đình” không dễ xác
định. Dấu hiệu của một “gia đình” được thể hiện qua quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống hay quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, “hộ gia đình” không bao gồm tất cả các
thành viên có các mối quan hệ đó với nhau. Được xem là thành viên của hộ gia đình
cần phải có hai điều kiện:(1) Điều kiện quan hệ (điều kiện tiên quyết), thể hiện qua việc

hoặc có quan hệ hôn nhân, hoặc có quan hệ huyết thống, hoặc có quan hệ nuôi dưỡng;
và (2) điều kiện chung sống (điều kiện đủ), có nghĩa là cùng trú ngụ ở một nơi hoặc
cùng kiếm sống dựa vào cùng một sản nghiệp. Tuy nhiên số lượng các thành viên thuộc
hộ gia đình có thể biến động, vì vậy gây khó khăn không ít cho việc giải quyết tranh
chấp có liên quan. Trong thực tiễn tư pháp và trong thực tiễn thi hành pháp luật ở các
cơ quan hành pháp, người ta thường xác định quan hệ thành viên trong gia đình thông
qua sổ hộ khẩu gia đình. Đây là một việc làm không hợp lý, bởi vì sự tồn tại của sổ hộ
khẩu không còn phù hợp trong giai đoạn thực tế xã hội hiện nay. Sổ hộ khẩu không cho
biết rõ liệu các thành viên có tên trong sổ, có cùng trú ngụ hay cùng kiếm sống hay
không. Thiết nghĩ cần đưa vào nội dung đăng ký kinh doanh việc xác định các thành
viên của hộ gia đình khi đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh, bởi vấn đề
xác định các thành viên như vậy có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ lợi ích của
các chủ nợ của hộ kinh doanh. [39]
1.1.1.2. Đặc điểm của hộ kinh doanh
Thứ nhất: Cơ sở pháp lý và địa vị pháp lý của Hộ kinh doanh không phải là doanh
nghiệp, không có con dấu.

12


Hộ kinh doanh được thừa nhận trong văn bản quy phạm pháp luật thuộc cơ quan
hành pháp là Nghị định của Chính phủ chứ không phải trong văn bản Luật do Quốc hội
ban hành. Từ văn bản đầu tiên là Nghị định số 27-HĐBT ngày 9/3/1988 của Hội đồng
Bộ Trưởng, qui định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây dựng, vận tải cho đến Nghị định 78/2015/NĐCP hướng dẫn thi hành Luật DN 2014 đều thừa nhận HKD không phải là doanh
nghiệp. Ngoài ra, không quy định HKD có tư cách pháp nhân. Nghĩa là, HKD không
thỏa mãn theo điều kiện của một pháp nhân được quy định tại điều 74, Bộ Luật dân sự
năm 2015. Theo điều 84 của Bộ Luật dân sự 2005 và tham chiếu điều 74 của Bộ Luật
dân sự 2015 trong bốn dấu hiệu của pháp nhân thì HKD không thỏa mãn hai đó là ‘’có
tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó’’ và

được phép ‘…nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập’. Như
vậy, HKD không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ như doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Mặc dù là chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp nhưng hộ kinh doanh không được công
nhận có tư cách doanh nghiệp, không có con dấu. Hộ kinh doanh bị hạn chế quyền
được mở chi nhánh, văn phòng đại diện và thực hiện các quyền mà doanh nghiệp đang
có như hoạt động xuất nhập khẩu, hay áp dụng luật phá sản khi lâm vào tình trạng mất
khả năng thanh toán các khoản nợ khi chủ nợ có yêu cầu.
Thứ hai: Có ba nhóm đối tượng được pháp luật Việt Nam cho phép thành lập hộ
kinh doanh, đó là do một cá nhân hoặc một nhóm người, gồm các cá nhân là công dân
Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ
sở hữu.
Công dân nước ngoài đến Việt Nam không được hoạt động kinh doanh dưới danh
nghĩa là HKD, bởi HKD do một cá nhân là công dân Việt nam hoặc một nhóm người
gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ tuối 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ. Tức là cá nhân đó phải là người Việt Nam, phải đủ 18 tuổi và năng lực pháp luật
Dân sự của cá nhân đó phải phù hợp theo quy định Bộ Luật Dân sự 2015. Năng lực dân
sự được hiểu là kiểm soát được hành vi của mình trong đời sống thường nhật cũng như
trong quá trình kinh doanh. Họ phải có toàn quyền quyết định về mọi hoạt động kinh
doanh của HKD, có thể gọi là chủ HKD và đương nhiên, chủ HKD này là đối tượng
duy nhất có quyền hưởng mọi lợi nhuận do công việc kinh doanh của Hộ tạo lập ra. Họ
là người duy nhất chịu mọi nghĩa vụ tài chính với nhà nước, chịu mọi rủi ro đối với

13


hoạt động của HKD. Riêng đối với HKD do‘một nhóm người’ hoặc một hộ gia đình
làm chủ thì đương nhiên mọi hoạt động kinh doanh của họ do các thành viên trong
nhóm hoặc hộ gia đình quyết định và cử một người làm đại diện cho nhóm hoặc hộ gia
đình để tham gia giao dịch với bên ngoài. Trong trường hợp này sẽ áp dụng xử lý theo
văn bản thoả thuận giữa các thành viên về việc phân chia lợi nhuận, về trách nhiệm, rủi

ro, tổn thất nếu có.
Thứ ba: Hộ kinh doanh chỉ được sử dụng tối đa 9(chín) lao động và chỉ được
đăng ký kinh doanh tại một địa điểm.
Tiêu chí cơ bản để phân biệt hộ kinh doanh với doanh nghiệp chính là phụ thuộc
vào quy mô hoạt động của nó. Nghị định 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã ghi rõ hộ
kinh doanh chỉ được sử dụng dưới mười lao động’, tức là số lao động tối đa sử dụng là
chín lao động, không quy định cụ thể số lao động này phải đăng ký với cơ quan chức
năng nào. Theo logic của vấn đề cần bàn thì tất yếu số lao động này phải bị điều chỉnh
theo quy định của pháp luật về lao động hiện hành. Hộ kinh doanh chỉ được’ đăng ký
kinh doanh tại một địa điểm’, có nghĩa là chỉ được phép sở hữu một địa điểm kinh
doanh trên phạm vi toàn quốc. Nếu muốn mở rộng quy mô hoạt động, sử dụng trên
mười lao động thì bắt buộc chủ HKD đó phải đăng ký thành lập doanh nghiệp, đây có
thể xem là điểm khác biệt giữa hộ kinh doanh và các loại hình doanh nghiệp.
Thứ tư: Hộ kinh doanh có quy mô nhỏ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản
của mình về mọi hoạt động do mình thực hiện.
Nhìn nhận dưới góc độ điều chỉnh của Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật DN 2015 thì HKD thực hiện đăng ký và hoạt động kinh doanh theo quy định
Chính phủ. Mặc nhiên, những cơ sở kinh doanh nhỏ này sẽ không bị điều chỉnh bởi
Luật DN 2015. Trường hợp, khi HKD đạt đến quy mô có sử dụng thường xuyên từ
mười lao động trở lên; Tham chiếu tại khoản 2 Điều 212 Luật DN 2015 thì HKD bắt
buộc phải chuyển sang đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Xem xét vấn đề vốn góp của hộ kinh doanh. Về phương diện pháp lý, không có
quy định điều kiện bắt buộc số tiền tối thiểu hay tối đa HKD muốn kinh doanh phải có
về vốn kinh doanh. Như vậy, tài sản kinh doanh và tài sản dân sự của chủ HKD không
có sự tách bạch, không có sự phân biệt rõ ràng về nghĩa vụ của chủ HKD trong việc
định lượng vốn góp vào mục đích kinh doanh như các tổ chức kinh tế là DN. Khía cạnh
này dễ nhận thấy tiềm ẩn nguy cơ đe dọa lợi ích xã hội và các đối tác của HKD nếu

14



không có một định lượng thích hợp, xác định rõ tài sản góp vốn hay là vốn kinh doanh
đối với HKD cũng như quy định hiện hành đã xác lập chế độ trách nhiệm vô hạn như
một đảm bảo cơ bản cho xã hội đối với chủ thể kinh doanh này. Chế độ trách nhiệm vô
hạn đối với HKD được hiểu chính là sự không có giới hạn về trách nhiệm và không có
sự tách bạch giữa tài sản kinh doanh và tài sản chủ sở hữu HKD. Cá nhân, nhóm người,
hộ gia đình phải chịu trách nhiệm đến cùng về mọi khoản nợ phát sinh từ hoạt động
kinh doanh. Giả sử, nếu như có một khoản nợ phát sinh thì cá nhân hoặc các thành viên
phải chịu trách nhiệm trả hết nợ phát sinh đó, không phụ thuộc vào giá trị tài sản kinh
doanh hay dân sự mà họ đang có, không phụ thuộc vào việc họ đang thực hiện hay đã
chấm dứt thực hiện hoạt động kinh doanh.
1.1.1.3. Vai trò của Hộ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Một là: Hộ kinh doanh cùng với Kinh tế tư nhân đóng góp không nhỏ vào sự tăng
trưởng kinh tế Việt Nam.
Phải thừa nhận rằng: riêng trong năm 2015, kinh tế tư nhân, trong đó bao gồm cả
kinh tế cá thể đã đóng góp 39,21% GDP so với 28,7% của khu vực kinh tế Nhà nước,
18,07% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và 4,04% của khu vực kinh tế tập thể.
Cùng với đó, kinh tế tư nhân ngày càng đóng góp nhiều vào đầu tư, dần trở thành bộ
phận quan trọng nhất của nền kinh tế; Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực tư
nhân tốt hơn so với các thành phần kinh tế khác, cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân
của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước. [39, tr.14]
Những số liệu thống kê được viện dẫn cho thấy đóng góp quan trọng của hộ kinh
doanh cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay, góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng kinh
tế cho nhà nước, góp phần tăng thu cho NSNN. Hộ kinh doanh đang dẫn đầu về doanh
thu bán lẻ trên thị trường với tổng DT bán lẻ chiếm 76,2% tổng mức và tăng 9,7% [43,
tr.10], đứng thứ 28 trong danh sách thị trường bán lẻ phát triển nhất Châu Á.
Hai là, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần xóa đói giảm
nghèo trong xã hội.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng dân số của Việt Nam tăng rất nhanh
chóng, tính đến cuối năm 2017 dân số của thành phố Hồ Chí Minh là 10.224.000 người

trong tổng số 95.421.835 người dân số của cả nước [43, tr. 12], dẫn đến tình trạng áp
lực nhu cầu việc làm tăng theo. Bên cạnh các chủ thể kinh doanh là cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp thì hộ kinh doanh cũng đã thu hút đông đảo lực lượng tham gia vào quá

15


trình sản xuất-kinh doanh, giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu nhập góp phần cải
thiện đời sống cho người lao động nói riêng và toàn xã hội nói chung. Hộ kinh doanh
với số lượng lao động lớn, phong phú về loại hình sản xuất kinh doanh, trên thực tế
luôn có mặt ở khắp các địa phương trong cả nước, kể cả các vùng sâu, vùng xa hải đảo.
Ba là, Những hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh không ngừng thúc đẩy nền
kinh tế phát triển năng động, hiệu quả cao trong thực tiễn.
Tính tất yếu của quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường đã đem lại quyền
và lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng, với những đóng góp không nhỏ của mình, HKD
đã hình thành nên các đối trọng trên thị trường trong nước ngày một đa dạng về cung
và cầu. Không những làm tăng số lượng, chủng loại hàng hóa dịch vụ cho nền kinh tế
mà còn hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn như làm đại lý, vệ
tinh cho các doanh nghiệp, giúp tiêu thụ hàng hóa, gia công sản phẩm, cung cấp
nguyên liệu đầu vào. Một số cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động trong các làng nghề
đã góp phần đáng kể vào việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển các ngành nghề truyền
thống, một phần của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Khai thác hợp lý tiềm năng trong
khu vực dân cư như về trí tuệ, tay nghề, sức lao động, bí quyết ngành nghề, thu hút lao
động tại chỗ, phát huy lợi thế của từng vùng, tăng thu nhập của dân cư, góp phần nâng
cao mức sống, cải thiện đời sống của người dân. [28, tr.15]

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thuế và pháp luật thuế
1.1.2.1. Khái niệm thuế và pháp luật thuế
Cho đến nay trong các sách báo kinh tế trên thế giới vẫn chưa thống nhất tuyệt
đối về khái niệm thuế. Đứng trên những góc nhìn khác nhau, theo quan điểm của mỗi

nhà kinh tế khác nhau sẽ có những định nghĩa về thuế khác nhau.
Đứng ở góc độ nhà nước thì “Thuế là khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân
và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử
dụng cho mục đích công cộng.” [20, tr. 78]Có những ý kiến khác lại cho rằng: “Thuế là
một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối
với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành,
không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không
phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định
ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.” [26, tr. 39]

16


Bên cạnh đó, chúng ta cũng từng nghe cụm từ “Sắc thuế” và sắc thuế được hiểu là
một hình thức thuế cụ thể được quy định bằng một văn bản pháp luật, dưới hình thức
luật, pháp lệnh hoặc các chế độ thuế . Khi nhà nước ra đời, để có tiền chi tiêu cho sự
tồn tại và hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra chế độ thuế khóa do dân cư đóng góp
để hình thành quỹ tiền tệ của mình.
Tại mỗi quốc gia, việc quản lý thuế đều do chính quyền thực hiện, ở nước ta
gồm có chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Các cấp chính quyền này
đều có ngân sách riêng và được phân quyền các nhiệm vụ chi cung ứng hàng hóa công
cộng riêng(điều chỉnh bởi luật ngân sách nhà nước số 83/2015/qh13), nên có thuế quốc
gia nghĩa là nộp vào ngân sách trung ương và thuế địa phương là nộp vào ngân sách
chính quyền địa phương; Có một quy tắc có tính khoa học cao trong quản lý đó là
chính quyền quản lý bằng pháp luật, hay nói cách khác, quản lý trong lĩnh vực thuế
phải bằng pháp luật thuế.
Vậy pháp luật thuế là gì? ‘’Pháp luật về lĩnh vực thuế là tổng thể các quy phạm
pháp luật do nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế’’ [27, tr.173].
Nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp lý thì các quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực

về thuế bao gồm quan hệ thu thuế, quan hệ nộp thuế…Nếu như thu thuế là thẩm quyền
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thì nộp thuế là người dân hoặc pháp
nhân, thể nhân có nghĩa vụ nộp một khoản thuế bắt buộc nào đó theo luật định.
1.1.2.2. Đặc điểm của thuế trong nền kinh tế thị trường
Một, thuế có tính bắt buộc, là khoản thu, khoản nộp bắt buộc của Ngân sách nhà
nước.
Tính bắt buộc của thuế xuất phát từ đẩu?. Từ việc nhà nước là người đảm bảo
cung ứng phần lớn hàng hóa công cộng cho xã hội. Nhà nước sử dụng quyền lực của
mình để người dân phải nộp thuế cho nhà nước. Tính bắt buộc của thuế thể hiện nghĩa
vụ đóng góp của mọi công dân đối với lợi ích công cộng của toàn xã hội. Tính bắt buộc
này thường được ghi nhận trong hiến pháp của các quốc gia. Riêng ở nước ta, Hiến
pháp Việt Nam năm 2013 quy định tại điều 47 như sau “Mọi người có nghĩa vụ nộp
thuế theo luật định”. Khi xem xét với chủ thể là cơ quan thuế thì thuế sẽ là khoản thu
bắt buộc, theo Khoản 1, Điều 8, Luật Quản lý Thuế quy định rõ trách nhiệm của cơ
quan quản lý thuế là “Tổ chức thực hiện thu thuế theo quy định của pháp luật”. Nghĩa

17


là cá nhân cán bộ cơ quan thu thuế không được quyền lựa chọn đối tượng nộp thuế, đối
tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế. Phải thực sự lấy pháp luật làm cơ sở duy nhất để thực
hiện. Trường hợp xem xét chủ thể là NNT thì họ phải ý thức được rằng đây là khoản
tiền mà pháp luật thuế quy định, bắt buộc phải nộp vào NSNN. Quá trình động viên
nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận thu
nhập của các pháp nhân và thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà
nước phải dùng quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự
bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và
pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt buộc này là phi hình sự. Vì vậy có
thể nói việc đánh thuế không mang tính hình phạt và tính bắt buộc của thuế là hiển
nhiên, là tính tất yếu đặc trưng của nhà nước và pháp luật cũng như nhà nước với nhân

dân.
Hai, thuế không mang tính đối giá và không hoàn trả trực tiếp
Có thể nhận thấy đặc điểm này đã phản ánh rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí.
Lệ phí được coi là một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công dân thừa
hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải trả một phần thu nhập của
mình cho nhà nước. (Lưu ý, việc trao đổi này thường không tuân thủ theo hình thức
trao đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị trường). Còn thuế là nguồn thu chủ yếu của
NSNN, trong đó lợi ích của NNT được hưởng từ các hoạt động của nhà nước trong
việc tạo ra môi trường chính trị-kinh tế-xã hội an ninh, hạnh phúc, phát triển, hội nhập.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất
hoàn trả trực tiếp, nghĩa là khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không
đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó
như là một khoản vay mượn. Khoản thu này sẽ được hoàn trả lại cho NNT thông qua
cơ chế đầu tư của NSNN cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng. Tóm lại,
nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của lợi của công dân, không thể nói chủ thể nộp thuế
nhiều thì được hưởng nhiều hơn các lợi ích công, bởi vì, trước pháp luật thuế, mọi chủ
thể đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử bất bình đẳng.
Ba, thuế luôn luôn thể hiện quyền lực của nhà nước và chứa đựng các yếu tố kinh
tế xã hội.
Thuế được bảo đảm thực hiện bằng các văn bản luật do cơ quan quyền lực cao
nhất là Quốc hội ban hành. Tính cưỡng chế về mặt hành chính và mặt hình sự của thuế,

18


×