Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến thời trần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ THỊ THANH THOẢNG

PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN THỜI TRẦN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ THỊ THANH THOẢNG

PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN THỜI TRẦN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 82 29 001

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ HƯƠNG GIANG

HÀ NỘI, năm 2018



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ, ngoài những nỗ lực của bản thân còn có sự
giúp đỡ tận tình của quý Thầy Cô, sự động viên to lớn từ gia đình và bạn bè thân thiết.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô - Tiến sĩ Đỗ Hương Giang, người
đã hết lòng giúp đỡ cũng như tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô của Học viện Khoa học xã hội đã tận tình truyền
đạt kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, các anh chị đồng
môn, bạn bè đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt khoảng thời gian 02
năm vừa qua.
Hà Nội, ngày 03 tháng 06 năm 2018
Tác giả

Lý Thị Thanh Thoảng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các kết quả được công bố trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Lý Thị Thanh Thoảng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................................ 6

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG
HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO THỜI TRẦN ................................ 6
1.1. Khái quát điều kiện hình thành, phát triển Phật giáo thời Trần ........................... 6
1.1.1 Điều kiện Lịch sử ......................................................................................... 6
1.1.2 Điều kiện Kinh tế ......................................................................................... 7
1.1.3 Điều kiện Chính trị - Xã hội ...................................................................... 10
1.1.4 Điều kiện Văn hóa – Giáo dục .................................................................. 12
1.2. Những tiền đề tư tưởng hình thành, phát triển Phật giáo thời Trần ................... 14
1.2.1. Truyền thống yêu nước, tín ngưỡng bản địa và tư tưởng tam giáo.......... 14
1.2.2. Những nhà tư tưởng tiêu biểu của Phật giáo thời Trần ........................... 23
Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 28
Chương 2: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO THỜI TRẦN VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN THỜI KỲ NÀY Ở VIỆT NAMError! Bookmark
not defined.
2.1. Một số nội dung cơ bản và đặc điểm của Phật giáo Việt Nam thời Trần .......... 30
2.1.1. Nội dung cơ bản của Phật giáo thời Trần ................................................ 30
2.1.2. Đặc điểm của Phật giáo thời Trần ........................................................... 48
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo thời Trần đến Kinh tế, Chính trị, Văn hóa – Xã hội
của thời kỳ này ở Việt Nam ...................................................................................... 55
2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến Kinh tế ..................................................... 55
2.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến Chính trị - Xã hội ..................................... 56
2.2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo đến Văn hóa – Giáo dục ................................. 59
Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 65
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo sư Trần Văn Giàu từng nhận định: “Bình minh của dân tộc ta đã gắn liền
với Phật giáo. Phật giáo là ngọn đuốc văn minh ở xứ ta” [16, tr. 15]. Thật vậy, Phật

giáo du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên, trải qua hơn 2000 năm
lịch sử - một chiều dài thời gian khá đủ để cho đạo Phật, dù là truyền từ Ấn Độ hay từ
Trung Hoa sang, đều được bản địa hóa, Việt Nam hóa, để những giá trị tinh hoa của
Phật giáo biến thành sở hữu thực sự của dân tộc Việt Nam. Với mục đích hướng con
người đến sự giải thoát, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Phật giáo đã minh chứng
được giá trị cũng như sức sống của mình trong lòng dân tộc. Trong xu thế hội nhập
ngày nay, nếu không biết chọn lọc trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị tinh
thần văn hoá dân tộc, thì người Việt Nam có nguy cơ bị mất gốc. Khẳng định mối
quan tâm đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã nói: “Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng vững chắc,
sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển” [13, tr. 75 -76].
Phật giáo trong mối quan hệ với văn hóa dân tộc được biểu hiện hết sức đa
dạng và phong phú trên nhiều bình diện và tầng lớp. Tuy nhiên, phải đến thời Trần,
mối quan hệ giữa Phật giáo và văn hóa Việt Nam mới đạt đến đỉnh cao của sự hỗn
dung. Triều Trần (1226 – 1400) là một trong những triều đại lớn nhất của lịch sử
trung đại Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của vua quan nhà Trần, nhân dân Đại Việt đã
ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi, bảo vệ nền độc lập của đất
nước, ghi một dấu son vàng trong lịch sử phát triển của dân tộc ta. Nhắc đến nhà
Trần không chỉ riêng gì những chiến công vang dội trước quân xâm lược hung hãn
mà gót giày xâm lược đã đặt đến các miền khác nhau của lục địa Á Âu, mà hơn hết,
đó là nói về nghệ thuật lãnh đạo toàn dân kháng chiến của vua quan nhà Trần. Có
điều khi nói đến nhà Trần mà chỉ đề cập đến những thành tựu quân sự thì chưa đủ.
Bởi vì, bên cạnh những chiến công vang dội về quân sự thì văn hóa giai đoạn này

1


cũng đạt được những thành tựu nhất định. Một trong những đỉnh cao góp phần

mang bản sắc riêng biệt của văn hoá Đại Việt đó là sự phát triển của Phật giáo lên
ngang tầm thời đại. Ngày nay, nếu chúng ta tiếp thu được những nét đẹp tuyệt vời
của Phật giáo nói chung và tư tưởng Phật giáo thời Trần nói riêng, chắc chắn Phật
giáo sẽ là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại thoát khỏi những xung đột, hận thù, chiến
tranh, khổ đau để xây dựng một ngôi nhà chung an vui, hòa bình trên thế giới [27, tr. 311].
Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc
ta trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc trong cuộc sống
hôm nay là việc làm vừa có ý nghĩa lý luận lâu dài vừa có tính thời sự cấp bách.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phật giáo thời Trần nổi lên như một dấu son, góp
phần khắc họa khá đậm nét bản sắc, cốt cách tâm hồn người Việt nói chung và đặc
trưng của triết học Phật giáo nói riêng trong suốt quá trình phát triển. Việc dung hợp
các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú, sâu sắc, thâm
trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự kế thừa có chọn lọc, các
nhà tư tưởng thời Trần đã xây dựng nên hệ tư tưởng Phật giáo hoàn chỉnh góp phần
kiến tạo nên mạch nguồn về vai trò của Phật giáo và sự đồng quy hài hòa giữa tam
giáo, làm nên những nét đẹp thiết yếu của bản sắc văn hóa trong chiều sâu tâm thức
dân tộc, để lại một ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đến các giai đoạn phát triển về sau
của dân tộc.
Do đó, tác giả đã chọn vấn đề: “Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến thời
Trần ở Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Phật giáo nói chung và tư tưởng Phật giáo thời Trần nói riêng từ trước đến nay
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến, với nhiều chủ đề và màu sắc, các vấn
đề nghiên cứu có thể được khái quát như sau:
Thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về Phật giáo thời Trần trên phương
diện lịch sử. Tiêu biểu cho chủ đề này phải kể đến các tác phẩm lớn như: Đại Việt
sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998; Đại cương lịch sử Việt

2



Nam do Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2005,… các công trình khoa học trên đã trình bày và phân tích khá
khái quát và sâu sắc điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như các tiền đề lý luận
hình thành tư tưởng Phật giáo thời Trần.
Thứ hai: đó là các công trình nghiên cứu về Phật giáo thời Trần dưới góc độ
lịch sử tư tưởng văn hóa, tôn giáo. Liên quan đến chủ đề này phải kể đến các công
trình như: Thơ văn Lý - Trần, do Viện Văn học biên soạn, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1989; Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Triết học cho xuất bản quyển Lịch sử
Phật giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên. Công trình này bàn về Phật giáo
Việt Nam từ Ấn Độ du nhập sang vào thế kỷ thứ II cho đến thế kỷ XIX; Quyển Lịch
sử Phật giáo Việt Nam, tập III (từ Lý Thánh Tông đến Trần Nhân Tông) của Lê
Mạnh Thát được Nxb. TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 2002. Quyển Tư tưởng Việt
Nam thời Trần của Trần Thuận được Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh xuất bản
năm 2014,…tất cả các công trình thuộc chủ đề này giúp ta thấy rõ giá trị về văn hóa,
tư tưởng, tôn giáo mà Phật giáo thời Trần đã đóng góp cho lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về Phật giáo thời Trần dưới góc độ
tư tưởng triết học như các tác phẩm của Nguyễn Đăng Thục: Thiền học Việt Nam,
Lịch sử tư tưởng Việt Nam (nhiều tập), Lịch sử triết học Phương Đông (nhiều tập)…
bàn về Thiền tông Việt Nam và tính kế thừa của nó qua nhiều thời kỳ; Năm 1995,
quyển Thiền học đời Trần do Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản, gồm 28
bài viết của nhiều tác giả xoay quanh vấn đề tác phẩm, tư tưởng của các thiền gia
đời Trần; Nguyễn Hùng Hậu viết Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I, từ
khởi nguyên đến thế kỷ XIV, Nxb. Khoa học Xã hội, năm 2000; Trương Văn Chung
xuất bản cuốn Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần năm 1998,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Gần đây nhất, có thể kể đến là cuốn Triết học
Phật giáo Việt Nam thời Trần của Đỗ Hương Giang, được Nxb. Khoa học Xã hội ấn
hành năm 2017, cuốn sách đã trình bày cụ thể quá trình hình thành và phát triển của
Phật giáo thời Trần, cũng như nội dung tư tưởng và các đặc điểm của triết học Phật

giáo Việt Nam thời kỳ này. Các công trình trên đã thể hiện nội dung của triết học

3


Phật giáo thời Trần qua việc phân tích hành trạng và tác phẩm của từng nhân vật
như: Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền
Quang.
Quả thật, các công trình khoa học trên thực sự là những tài liệu bổ ích để tác
giả học tập, kế thừa, phát triển trong luận văn của mình. Tiếp tục thành quả của các
công trình nghiên cứu đó, trong phạm vi đề tài của mình, tác giả sẽ nghiên cứu sâu
hơn sự tác động của Phật giáo đến mọi mặt đời sống xã hội nhà Trần cũng như sự
phản ánh của cuộc sống đương thời đến việc hình thành những đặc điểm Phật giáo
riêng biệt chỉ có ở thời đại này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích
Từ việc nghiên cứu nội dung, đặc điểm tư tưởng Phật giáo Việt Nam giai đoạn
1226 - 1400, phân tích ảnh hưởng của nó đến đời sống Kinh tế, Chính trị - Xã hội,
Văn hóa – Giáo dục thời Trần.
Nhiệm vụ
- Trình bày, phân tích các cơ sở xã hội và những tiền đề tư tưởng hình thành nên
tư tưởng Phật giáo Việt Nam thời Trần.
- Trình bày, phân tích những nội dung, đặc điểm của Phật giáo thời Trần và ảnh
hưởng của những tư tưởng đó đến các mặt của đời sống xã hội bấy giờ để chỉ ra giá
trị của Phật giáo đối với sự hình thành và phát triển của thời đại nhà Trần trong dòng
chảy của lịch sử dân tộc.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan
và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đồng thời, tác giả còn sử dụng tổng hợp các phương pháp sử học, hệ thống cấu trúc,

lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh và đối chiếu,…
để nghiên cứu và trình bày luận văn. Luận văn được tiếp cận dưới góc độ triết học
lịch sử và triết học tôn giáo.

4


5. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phật giáo, đặc biệt là thiền tông và ảnh hưởng của nó đến
các lĩnh vực Kinh tế, Chính trị - Xã hội, Văn hóa – Giáo dục của thời đại nhà Trần ở
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Thiền tông Việt Nam thời Trần
Thời gian: Phần nội dung chính, tác giả luận văn tập trung vào giai đoạn nhà
Trần (1225 – 1400). Tuy nhiên, các tiền đề hình thành thì sẽ liên quan đến thời gian
trước đó. Đồng thời, tác giả cũng không tránh khỏi việc phải tìm hiểu, nghiên cứu
những nhận xét, đánh giá của các nhà tư tưởng cũng như các nhà nghiên cứu từ sau
thời nhà Trần đến hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần hệ thống lại quá trình hình thành Phật giáo ở Việt Nam và
những ảnh hưởng của hệ tư tưởng này đến sự hình thành và phát triển của thời Trần ở
Việt Nam, thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam, từ đó giúp người đọc tìm hiểu
một cách sâu sắc về giá trị của Phật giáo trong mọi mặt của đời sống xã hội thời Trần.
Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến toàn bộ quá trình
hình thành và phát triển của thời Trần, có thể rút ra những bài học lịch sử bổ ích góp
phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong công cuộc đổi mới
và hội nhập quốc tế hiện nay. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử tư tưởng Việt Nam cho

sinh viên và học viên cao học các ngành Triết học, Tôn giáo học, Văn hóa học, Sử
học trong các trường Cao đẳng và Đại học.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 2
chương, 4 tiết và 11 tiểu tiết.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI TRẦN
1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của thời Trần ở Việt Nam
Trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã chứng minh
được rằng: để trường tồn và phát triển trên mảnh đất đầy hiểm họa xâm lăng và có
nguy cơ bị đồng hóa, ông cha ta phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
để thực hiện quyền độc lập, tự do của mình. Một trong những sức mạnh tổng hợp đó
chính là bản sắc văn hóa truyền thống, giá trị tinh thần dân tộc. Do đó, việc nghiên
cứu tư tưởng Phật giáo thời Trần chính là đi tìm một trong những khía cạnh bản sắc,
giá trị tinh thần của dân tộc để hiểu và tin tưởng vào truyền thống văn hóa tốt đẹp,
lâu đời của dân tộc ta. Trên cơ sở đó, biết chọn lọc để đáp ứng được nhiệm vụ mà
Đảng ta đã đề ra cho lĩnh vực văn hóa là: xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Trong phạm vi đề tài, tác giả bắt đầu từ việc khái quát các điều
kiện hình thành của Phật giáo ở thời đại nhà Trần.
1.1.1 Điều kiện Lịch sử
Mùa đông năm 938, với chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền trên Bạch
Đằng giang đã chứng minh tinh thần yêu nước quật cường, sức đấu tranh bền bỉ và
mưu lược tài ba của quân, dân ta. Đánh dấu một trang sử mới – trang sử độc lập, tự
do của dân tộc. Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại sau chặng đường đấu tranh hơn
mười thế kỷ nhằm thoát khỏi sự đô hộ của giặc phương Bắc là tài nguyên cạn kiệt,

nhân dân mệt mỏi sau thời gian dài bị áp bức, cộng thêm những hậu quả của âm
mưu đồng hóa,… đã đặt ra cho thế hệ đi đầu một nhiệm vụ vô cùng cấp thiết.
Nhưng chính trên đống hoang tàn ấy, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,…
bằng ý chí kiên cường, tinh thần quật khởi, dân tộc ta đã từng bước xây dựng một
nhà nước phong kiến độc lập ngày càng hùng mạnh. Mặc dù vậy, lịch sử dân tộc
cũng không tránh khỏi những cuộc nội chiến với âm mưu thay thế triều đại, cụ thể
sau thời kỳ hoàng kim, từ khoảng giữa thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIII, triều đình
nhà Lý bước vào giai đoạn suy tàn. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội

6


trầm trọng. Tình trạng nông dân và những người tự do ngày càng tồi tệ bởi một mặt,
họ bị quan lại bóc lột nặng nề, sưu cao thuế nặng. Mặt khác, thiên tai, mất mùa, đói
kém, dịch bệnh hoành hành khắp nơi làm cho nền kinh tế ngày càng sa sút dẫn đến
tình trạng ở nhiều địa phương, các thế lực địa chủ phong kiến đã tập hợp lực lượng
nổi dậy chống phá triều đình. Nổi bật trong số các thế lực cát cứ thời bấy giờ là tập
đoàn quân sự của anh em họ Trần ở vùng Hải Ấp (Thái Bình). Do có công giúp nhà
Lý dẹp loạn, lập lại trật tự, gia tộc họ Trần được triều đình trọng dụng đã thao túng
quyền bính và dần thâu tóm mọi quyền lực trong tay.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Chiêu Thánh vừa mới
bảy tuổi, rồi lên làm Thái Thượng hoàng và sau đó xuất gia đi tu ở chùa Chân Giáo,
lấy hiệu là Huệ Quang đại sư. Theo sự dàn xếp của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng đã
kết hôn với Trần Cảnh. “Mùa đông, tháng 12, ngày 12 năm Ất Dậu (1225) nhận
thiền vị của Chiêu Hoàng, lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung” [37, tr. 7]
dưới sự giúp đỡ, ủng hộ của Trần Thủ Độ và họ hàng. Nhà Trần trải qua các triều
vua đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm phát triển các mặt kinh tế, chính trị, xã hội,
thúc đẩy xã hội tiến lên một bước đáng kể. Dưới triều Trần Thái Tông và Trần Nhân
Tông, nước ta ba lần chiến thắng quân Nguyên – Mông xâm lược, góp phần nâng
cao vị trí nhà Trần trong lịch sử.

Với sự khôn khéo của Trần Thủ Độ, chính quyền nhà Lý nhanh chóng chuyển
sang họ Trần như một tất yếu vốn có của lịch sử. Do sự suy thoái của nhà Lý, sự tiếp
nối của triều đại nhà Trần nhằm trả lời những câu đố mà lịch sử đặt ra cho con dân
Đại Việt như: giải quyết tình trạng cát cứ, ổn định tình hình xã hội, chăm lo phát triển
kinh tế, văn hóa – giáo dục. Và đó cũng chính là cơ sở quan trọng cho các nhà tư
tưởng tiêu biểu của Phật giáo thời Trần xây dựng một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh.
1.1.2 Điều kiện Kinh tế
Cũng như thời Lý, các vua Trần chú trọng đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, đặc
biệt là chế độ sở hữu ruộng đất. Các hình thức sở hữu ruộng đất cơ bản thời kỳ nhà
Trần là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Có hai
bộ phận cấu thành ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: Một là, ruộng đất do nhà nước

7


trực tiếp quản lý, nó tồn tại như tài sản của bản thân nhà vua và hoàng cung, một
loại “tư hữu” đặc biệt mà những hoa lợi bóc lột là của riêng hoàng đế. Bộ phận
ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý có sơn lăng, tịch điền và quốc khố. Hai là,
ruộng đất công của thôn làng: ruộng công các làng xã thời bấy giờ được gọi là quan
điền hay quan điền bản xã. Còn ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân được hình thành từ
chính sách ban cấp ruộng đất của chính quyền nhà Trần, nét khác biệt cơ bản về tổ
chức nhà nước so với triều Lý. Ruộng đất và bổng lộc của nhà Trần ban cấp được
gọi là thái ấp. Việc ban cấp thái ấp là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ
sở xã hội cho chính quyền nhà Trần. Nguồn đất ban đầu của thái ấp thuộc quyền sở
hữu nhà nước, nhưng khi ban cấp thành thái ấp thì thuộc chiếm hữu tư nhân của các
quý tộc. Thái ấp thời Trần cũng là nơi ở bền vững của quý tộc và mãi mãi được lưu
truyền, như lời Trần Hưng Đạo đã nói trong Hịch tướng sĩ rằng: “thái ấp của ta mãi
mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng” [41, tr. 392]. Ngoài
thái ấp thì năm 1266, do nhu cầu khẩn trương mở rộng diện tích canh tác và thực
hiện chủ trương xây dựng, củng cố thêm thế lực của quý tộc Trần, nhà Trần đã cho

các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập những người xiêu tán không
có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn đất hoang lập điền trang. Vương hầu có điền
trang thực sự từ đấy.
Về công cuộc trị thủy, để phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm diện
tích canh tác. Triều đình đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp,
trong đó có tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Nhà Trần đã cho xây dựng
hệ thống đê đỉnh nhĩ và các dòng kênh tiêu úng. Năm 1248, Trần Thái Tông đặt cơ
quan hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách việc đê điều ở các lộ. Đây là công việc
quan trọng, một bước ngoặt to lớn trong lịch sử thủy lợi nước ta. Đắp đê ngăn mặn
cũng là công cuộc mới mẻ ở thời Trần, các nhà quý tộc thường cho nô tỳ đắp đê ở
bãi biển lập điền trang. Công cuộc xây dựng thủy nông cũng được nhà Trần chú ý, ở
những vùng Thanh Hóa và Nghệ An là nơi có nhiều công trình thủy nông. Năm
1248, Trần Nhân Tông lại cho đào sông Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở
Thanh Hóa, đây cũng là công việc tốn sức, tốn của. Năm 1256, triều đình cho khơi

8


lại sông Tô Lịch nhằm đảm bảo giao thông, đồng thời, để tưới tiêu cho các vùng
xung quanh kinh thành. Sang thế kỷ XIV nhiều công trình thủy nông vẫn tiếp tục
được xây dựng.
Về kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp, thủ công nghiệp nhà Trần bao
gồm thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp tư nhân. Thủ công nghiệp nhà
nước với nhiều ngành nghề như: sản xuất đồ gốm, dệt, chế tạo vũ khí. Các nghề
thiết yếu như nghề làm gốm, rèn, đúc đồng, làm giấy và khắc bản in, mộc, xây dựng
và khai khoáng thuộc về loại hình thủ công nghiệp tư nhân.
Mạng lưới thương nghiệp và thành thị ngay từ đầu đã được nhà Trần quan tâm,
qua việc xây dựng nên một hệ thống giao thông thủy bộ trong cả nước. Hệ thống
giao thông biển và trên bộ thời Trần phục vụ cho yêu cầu quân sự nhưng cũng có
nhiều tác dụng tốt cho thương nghiệp. Đường bộ, đường thủy cho yêu cầu quân sự

không còn do các địa phương và nhân dân tự phát xây dựng mà là công tác của
chính quyền địa phương, của triều đình trực tiếp tổ chức, xây dựng. Đây được xem
là bước tiến lớn so với thời Lý. Để phát triển lưu thông hàng hóa các vua Đại Việt
thời Lý - Trần đều đúc tiền. Ngoài ra, trên thị trường còn sử dụng nhiều tiền Trung
Quốc. Nhà Trần đã mở rộng việc mua bán đất bằng tiền, nộp tiền để lấy quan chức,
việc đúc tiền do quan xưởng đảm nhiệm. Quan hệ tiền tệ đã thâm nhập vào đời sống
chính trị và tín ngưỡng. Nhà nước thu tô thuế bằng tiền, cũng đã thể hiện chức năng
thanh toán của tiền tệ thời Trần đã phát triển rộng lớn. Thương nghiệp thời Trần tuy
có bước phát triển mới nhưng chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự cung, tự cấp. Tổ chức
các phường thủ công ở Thăng Long còn rất đơn giản, còn gắn chặt với sản xuất
nông nghiệp. Ngoại thương do nhà nước độc quyền, hàng hóa trao đổi chủ yếu vẫn là
sản phẩm của nền kinh tế tự nhiên, ít có sản phẩm thủ công. Đến cuối thế kỷ XIV, khi
nông nghiệp sa sút và nhà nước kiểm soát khắc khe việc buôn bán, sản xuất thủ công
thì nền kinh tế hàng hóa rơi vào chỗ bế tắc.
Với các chủ trương lớn nhằm mục đích khôi phục và phát triển kinh tế sau suy
thoái. Chính quyền tôn thất họ Trần đã tạo ra những biến đổi trong thượng tầng kiến
trúc nhà nước, góp phần thúc đẩy văn hóa, tinh thần, tư tưởng phát triển, tạo ra cho

9


xã hội một sinh khí mới, một sức mạnh mới có thể đương đầu với các cuộc ngoại
xâm.
1.1.3 Điều kiện Chính trị - Xã hội
Nét độc đáo trong cơ chế chính trị thời Trần là chế độ “Lưỡng đầu” đã đạt đến
mức hoàn chỉnh. Khi thái tử đã khôn lớn thì cho nối ngôi chính thống ngay, còn vua
cha lui về ở cung Thanh Từ, xưng là Thượng hoàng, cha con vẫn cùng nhau giữ
chính quyền trong nước. Thực ra, việc truyền ngôi vua chỉ là để đề phòng lúc có
chuyện, còn các công việc đều do thượng hoàng quyết định. Các vua Trần tập trung
trong tay các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với một số sự chỉ đạo thống

nhất, trong đó quyền lực hành pháp lớn nhất là quyền bổ nhiệm phong cấp, bãi miễn
quý tộc và quan lại trong hệ thống quan chức triều đình. Ngoài ra, nhà Vua còn có
quyền tối hậu trên các phương diện giáo dục - văn hóa. Nhà vua là người đề xướng
ra đầu bài thi, cũng như tuyển duyệt người thi đỗ trong các kỳ thi Đình.
Cũng như thời Lý, thời Trần, người trong nước gọi quốc hiệu là Đại Việt, còn
các triều đình Trung Quốc (Tống, Nguyên) thì gọi là An Nam quốc và phong cho
vua Trần làm An Nam quốc vương. Kinh đô Đại Việt đặt tại Thăng Long. Năm
1397, theo ý muốn của Hồ Quý Ly, Thuận Tông dời đô về An Tôn (Thanh Hóa) gọi
là Tây Đô. Chế độ chính trị nhà Trần được thiết lập theo kiểu nhà nước quân chủ tập
quyền phương Đông. Cơ chế quân chủ tập trung của nhà Trần đã thể hiện sư phát
triển cao hơn hẳn so với nhà Lý về nhiều mặt, cả quy mô lẫn trình độ quản lý, cũng
như trong việc củng cố bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thời
Trần, việc tuyển dụng nhân tài qua khoa cử ngày một quy củ hơn. Các quan lại Nho
học dần dần thay thế các tăng quan trong triều. Bộ máy nhà nước thời Trần đã có sự
phân công, phân cấp khá rõ ràng, đã có sự chuyên môn hóa giữa các tổ chức, cơ
quan, các chức sắc quan lại,… Tổ chức nhà nước và các quy chế hành chính cũng
được quy định khá chặt chẽ. Bộ máy nhà nước được xây dựng thành một hệ thống
hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương so với thời Lý đã phát triển hơn hẳn một
bước. Tầng lớp nắm địa vị cao nhất trong bộ máy nhà nước là quý tộc Trần. Nhưng
bên dưới là cả một bộ máy quan lại phức tạp từ trung ương đến các địa phương.

10


Về tổ chức quân đội: do đặc điểm và yêu cầu của điều kiện lịch sử nên triều
đại nhà Trần rất coi trọng binh pháp và kỹ thuật quân sự. Nhà vua, đồng thời là tổng
tư lệnh quân đội, trực tiếp chỉ đạo trong việc chọn tướng tài, luyện tập quân sỹ, đóng
thuyền chiến, chế tạo khí giới. Cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước để ổn
định xã hội, củng cố chính quyền phong kiến trung ương tập quyền, nhà Trần đã ra
sức xây dựng một tổ chức quân đội hùng mạnh đủ sức bảo vệ nền độc lập của dân

tộc. Quân đội nhà Trần là một đội quân thiện chiến, được trang bị, tổ chức và huấn
luyện tốt, có nhiều kinh nghiệm bởi đã trải qua các cuộc kháng chiên chống giặc
Nguyên – Mông. Lực lượng quân sự thời Trần bao gồm các thành phần chủ yếu:
1. Quân chủ lực của triều đình; 2. Quân của lộ, châu; 3. Quân của quý tộc tôn thất;
4. Lực lượng dân binh (hương binh) trong làng, xã, động, bản. Hơn nữa, do chủ
trương kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và tổ chức vũ trang (ngụ binh ư nông) khá
sáng tạo mà trong chiến tranh, nhà Trần có thể tập hợp được lực lượng quân đội lớn
mạnh, đông đảo khi cần thiết.
Về pháp luật: nếu thời Lý chỉ có duy nhất bộ Hình thư ban hành vào năm
1042, thì ở thời Trần, bên cạnh những chiếu, lệnh, các văn bản đơn hành,… đã có
tới năm bộ luật căn bản điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Cụ thể như: Quốc
triều thông chế (20 quyển) quy định về tổ chức chính quyền. Sau đó được sửa chữa,
bổ sung lại ban hành bộ Quốc triều hình luật. Bằng việc hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, nhà Trần đã khẳng định và củng cố sự phân chia đẳng cấp rõ rệt nhằm mục
đích bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp quý tộc tôn thất họ Trần.
Về ngoại giao: kế thừa những tiền lệ cũ của thời kỳ trước để xây dựng chiến
lược ngoại giao hòa hảo đã giúp thời Trần giữ được sự bình yên cho đất nước và
nhân dân. Đồng thời, cũng thể hiện được tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ trong
quan hệ với các nước láng giềng.
Về sự phân chia đẳng cấp xã hội, đất nước ta bước vào thời đại nhà Trần trên
nền tảng xã hội được xây dựng ổn định và vững chắc từ thời Lý. Trong quá trình
xây dựng chính quyền quý tộc quân chủ vững mạnh, đồng thời củng cố, phát triển
kinh tế, văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, xã hội thời Trần đã diễn ra sự phân hóa

11


mạnh mẽ. Một xã hội mới với những đẳng cấp mới dần được hình thành. Nhìn
chung, trong gần hai thế kỷ, xã hội thời Trần đã hình thành và tồn tại ba đẳng cấp
chính: Đẳng cấp quý tộc, tôn thất – quan lại trong chính quyền quân chủ; Đẳng cấp

những người bình dân, chủ yếu là nông dân các làng xã, thợ thủ công và thương
nhân, địa chủ; Đẳng cấp nô tỳ.
1.1.4 Điều kiện Văn hóa – Giáo dục
Về văn hóa
Văn học ở thời Trần, ngoài các nhà sư còn có quý tộc và nho sỹ tham gia vào
lực lượng sáng tác. Với chủ đề sáng tác được mở rộng, thơ văn nhà Trần không
những xoay quanh vấn đề của đạo Phật, mà còn đề cập đến những vấn đề của Nho
giáo, Lão giáo. Nhưng nổi bật hơn cả là những áng văn thơ thể hiện tinh thần yêu
nước và chủ nghĩa anh hùng, lòng tự hào dân tộc của nhân dân ta qua các cuộc
kháng chiến chống Nguyên – Mông. Sự xuất hiện chữ nôm vào năm 1282 là nét
điển hình của Việt Nam hóa trong ngôn ngữ, Việt Nam hóa chữ Hán mà qua chữ
viết, cách nói của người Việt, tinh thần độc lập tự cường được khắc họa một cách
sinh động và rõ nét nhất. Tiêu biểu có thể kể đến Hịch tướng sỹ; Binh thư yếu lược
của Trần Quốc Tuấn,… Ngoài ra, với nội dung phản ánh nhân sinh quan và thế giới
quan Phật giáo, loại thơ “Thiền” đặc biệt phát triển được sáng tác bởi các vua và các
thiền sư thời Trần đã làm phong phú thêm văn học thời kỳ này.
Sử học: nếu việc viết sử được bắt đầu từ thời Lý thì đến thời Trần hoạt động
biên soạn những bộ sử của đất nước đã được chú trọng hơn. Cùng với việc thành lập
Viện quốc sử, nhiều bộ sử đã ra đời như: An Nam chí lược, Việt sử cương mục, Đại
Việt sử ký toàn thư, Lĩnh Nam chích quái,…
Trong thời Trần, các ngành nghệ thuật sân khấu, ca vũ nhạc cũng có những
tiến bộ đáng kể. Nhạc cụ phong phú, tuồng chèo trở thành loại hình nghệ thuật được
đa số tầng lớp ưa thích. Ngành kiến trúc và điêu khắc đã đạt được những thành tựu
quan trọng khi hiện thực tính siêu nhiên trừu tượng trong Phật giáo thời Lý bằng
việc mọc lên của các hoàng thành, cung điện, chùa chiền bề thế và đẹp đẽ.

12


Cùng với những nhà thiên văn và lịch pháp nổi tiếng như Đặng Lộ, Trần

Nguyên Đán, sự xuất hiện của nhà y học và dược học lỗi lạc Tuệ Tĩnh (tức Nguyễn
Bá Tĩnh) đã làm cho nền y học của dân tộc ta dưới thời Trần đạt được những thành
tựu đáng kể.
Về giáo dục
Năm 1253, nhà nước cho lập Quốc học viện để đào tạo nhân tài. Ngay sau đó,
ở Thăng Long và các địa phương trong nước, trường lớp được dựng lên khá nhiều.
Năm 1281, Trần Nhân Tông lập thêm nhà học ở Phủ thiên Trường. Song song, các
trường lớp do nhà nước tổ chức, một số trường tư ra đời và đều có vị trí trong đời
sống xã hội của đất nước. Tiếp tục những chính sách của thời Lý, nhà Trần mở khoa
thi để chọn quan lại. Ngoài ra, những người không đỗ đạt nhưng có tài vẫn được sử
dụng. Phan Huy Chú (sử gia thế kỷ XIX) có nhận xét: “Triều Trần dùng người thật
là công bằng, tuy đã đặt khoa mục mà trong việc kén dùng chỉ cốt tài là được, cho
nên những nho sĩ có chí hướng thường được trổ tài của mình, không đến nỗi bó
buộc hạn chế về tư cách…, chỉ cần người dùng được chứ không câu nệ ở đường
xuất thân. Nhân tài văn học được thịnh cũng nhờ thế chăng?” [7, tr. 22]. Nội dung
học và thi cử của thời Trần bao gồm một số vấn đề về chính trị, đạo đức của Nho
giáo và Phật giáo. Bên cạnh đó, do sự phát triển cực thịnh của Phật giáo, nhất là thời
Trần Nhân Tông mà triết lý đạo đức nhân sinh Phật giáo không chỉ trở thành nội dung
giáo dục của khoa cử mà còn là nền tảng đạo đức xã hội.
Sự phát triển của Nho học và nền giáo dục khoa cử thời Trần đã góp phần phổ
cập Nho giáo trong nhân dân với các quan niệm phổ biến về tam cương, ngũ
thường, trung quân. Cùng với đó, sự thịnh hành Phật giáo trên cơ sở phát triển của
nhà Lý, các vua Trần đã sử dụng Phật giáo như một công cụ tư tưởng vì mục đích tu
dưỡng đạo đức, củng cố khối đại đoàn kết nội bộ vương hầu quý tộc, cố kết xã hội
xung quanh nhà nước quân chủ chuyên chế họ Trần, mà tiêu biểu là sự hình thành
và phát triển của thiền phái Trúc Lâm mang đậm màu sắc dân tộc. Phật giáo bắt đầu
hòa trộn vào xã hội, ăn sâu bám rễ vào làng xã như một lẽ đương nhiên. Vào cuối
thời Trần, tình hình chính trị mất ổn định đã làm cho Phật giáo mất đi vẻ trang

13



nghiêm thanh tịnh. Để thay đổi cục diện, nhà nước phải tổ chức thi các thầy chùa,
tiến hành kiểm soát, sa thải tăng đạo để trao chức tăng đường, đầu mục và tri cung,
tri quản, tri tự cho người thông hiểu đạo Phật.
1.2. Những tiền đề hình thành, phát triển Phật giáo thời Trần
1.2.1. Truyền thống yêu nước, tín ngưỡng bản địa và tư tưởng tam giáo
Truyền thống yêu nước
Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, trong bối cảnh thường xuyên phải
đấu tranh chống lại những kẻ thù xâm lược cậy vào sức mạnh quân sự, kinh tế của
mình, thì tinh thần yêu nước luôn là nhân tố quan trọng kết thành sức mạnh đại đoàn
kết để dân tộc Việt Nam giành chiến thắng. Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “tình
cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân
tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt
Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu lộ đầy đủ và tập trung
nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh
của người Việt Nam” [17, tr. 100 – 101].
Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên thế
giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được hình thành
sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện cũng
như chiều hướng phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của
từng dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm
tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau
thương mà hào hùng của dân tộc ta. Lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam
là lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập từ tay kẻ thù xâm lược. Chính vì
vậy, mà tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, tư tưởng của mỗi người dân
Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta
đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đâu.
Qua đó, ta thấy rằng, chính lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc đã tạo nên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đồng thời, nó lại trở thành sức

mạnh, là động lực chủ yếu, quyết định nhất cho thắng lợi của quân và dân ta trước

14


mọi kẻ thù xâm lược. Từ thế kỷ thứ III TCN, dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược
đầu tiên của bọn phong kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 TCN
đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc. Đây là thời kỳ
đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường, sự
vươn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt.
Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan
quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên – Mông,… Trong những cuộc
chiến tranh tàn khốc đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt Nam đã được thể hiện
ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên
lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải
phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân
tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước hay đã anh dũng
hy sinh nơi chiến trường. Đây là sự hy sinh to lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu
nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy nhiêu thôi cũng đã đủ để có thể thấy rằng, tư
tưởng yêu nước không đơn giản là một triết lý, nó là kim chỉ nam cho hành động,
đem lại một sức mạnh to lớn, thúc đẩy dân tộc ta tiến lên.
Trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt đã thể hiện tinh thần yêu nước hùng
hồn:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẵng hành khan thủ bại hư!” [39, tr. 321].
Hay với Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn: “ta thường tới bữa quên ăn, nửa
đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn
gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc

trong da ngựa, cũng nguyện xin làm” [41, tr. 387]. Tiếng vang vọng nghìn năm hô
vang “Đánh! Đánh!” ở Hội nghị Diên Hồng; những nỗi niềm thấm đẫm trong Bình
Ngô đại cáo; niềm kiêu hãnh trong lời kêu gọi “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng
chi hữu chủ”,...

15


Từ thế kỷ thứ XV, Nguyễn Trãi đã từng khẳng định rằng, nước Đại Việt ta thật
là một nước văn hiến và hào kiệt không bao giờ thiếu. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh
thì nói: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần ái quốc của bọn đế
quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế” [26, tr. 172]. Tinh thần
yêu nước được hình thành từ sớm, lại được thử thách, khẳng định qua bao nhiêu
thăng trầm của lịch sử, được bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát
triển của dân tộc và thời đại, tinh thần yêu nước đó trở thành chủ nghĩa yêu nước,
trở thành một trong những giá trị truyền thống cao quý nhất, bền vững nhất của dân
tộc ta. Yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần mà theo Giáo sư Trần
Văn Giàu vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan trọng
là tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi món vũ khí
tinh thần ấy.
Tín ngưỡng bản địa
Với một bề dày quá trình khai thiên lập địa đã hình thành nên một nền văn hóa
lớn ngay trên mảnh đất này. Đó chính là nền văn minh Sông Hồng và các hình thức
nhà nước sơ khai, như nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc ở nửa cuối thiên
niên kỷ thứ I TCN. Nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu khi nghiên cứu những giá trị
truyền thống của dân tộc Việt Nam đã từng viết: “Trình độ văn hoá khá cao, có xã
hội tổ chức thành quy củ, tồn tại lâu dài hình thành hàng ngàn năm” [18, tr. 106].
Các phong tục tập quán, ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo, công cụ kỹ thuật cùng với
các hình thức sinh hoạt, văn hóa tinh thần phong phú được hình thành từ rất sớm.
Các nền văn hóa Phùng Nguyên (2000 - 1500 TCN), Đồng Đậu (1500 - 1100 TCN),

Gò Mun, Đông Sơn, (khoảng thế kỷ III TCN) được “…biểu hiện bằng các món
dụng cụ, trang sức, trống đồng, thạp đồng, mũi tên đồng... mà người Việt Nam hiện
rất tự hào” [19, tr. 27].
Bên cạnh đó, người Việt cổ đã biết chế tạo đồ đá, sau đó là đồ đồng và sắt.
Hơn thế, là biết trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc. Việt Nam vốn là một xứ sở gắn
liền với nghề nông nghiệp trồng lúa nước, nên con người sớm nảy nở tín ngưỡng tôn
thờ các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp… quan niệm về Lạc Long

16


Quân - Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng hay tục thờ cúng các vị thần mùa màng. Mặt
khác, ở người Việt còn thờ trời đất hay gọi là thờ thổ công, thổ địa. Họ cho rằng, các
vị thần này đều có quyền năng ban thưởng hoặc gián phạt đến mọi người.
Cùng với đó, tín ngưỡng thờ thần cũng phát triển phổ biến ở cấp độ làng xã.
Thần làng, ấp là những vị có công đánh giặc ngoại xâm, những vị có công lập làng
khai hoang mở đất, những vị tổ nghề hay thần còn là hồn thiêng sông núi. Còn một
số nhà sư trở thành thần thánh và được thờ trong chùa, theo kiểu “tiền Phật hậu
Thánh”. Mặt khác, trong đời sống tâm linh người Việt, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
diễn ra sâu rộng nhất so với các loại hình tín nguỡng kể trên. Thờ cúng tổ tiên mang
ý nghĩa là nhớ về cội nguồn, biết ơn cha mẹ là người nuôi nấng, dạy dỗ, sinh thành ra
ta hay thần linh phù hộ cho ta trong cuộc sống thường ngày. Đặc biệt hơn là triết lý
“mẹ sinh” [11, tr. 233]. Tín ngưỡng mẹ sinh hình thành từ thời nguyên thủy khi hái
lượm là phương thức sinh sống của con người.
Khi Phật giáo du nhập vào nước ta đã bén rễ hỗn dung ngay vào tư tưởng này.
Sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa tạo nên cái mà người ta gọi là
“dòng Phật giáo dân gian” và nó cũng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử Việt Nam.
Chính tính chất sâu sắc về mặt tình cảm của tín ngưỡng bản địa và tính cao thâm, hệ
thống của Phật giáo là ưu thế để hai dòng tư tưởng không loại trừ nhau mà còn bổ
sung cho nhau. Chính điều đó đã góp phần tạo nên giá trị truyền thống của văn hóa

Việt. Vì vậy, Phật giáo ngày càng ăn sâu vào đời sống tâm linh của người Việt.
Tư tưởng tam giáo
Hơn một nghìn năm các triều đại phong kiến phương Bắc từ nhà Triệu đến nhà
Đường biến nước ta thành nơi để vơ vét, bóc lột bằng việc thực hiện chính sách
đồng hóa về văn hóa tư tưởng với dã tâm xóa bỏ độc lập chủ quyền dân tộc. Ở giai
đoạn này, tam giáo (Nho, Phật, Lão) được truyền vào nước ta như một phương
thuốc xoa dịu lòng dân để dễ bề cai trị. Tuy nhiên, bằng vó ngựa xâm lược của kẻ
thù, Nho giáo, Lão giáo tuy có chỗ đứng trong chính trị nhưng vẫn chưa thể đi sâu
vào đời sống xã hội của nhân dân bằng sự dung dị của Phật giáo. Hơn thế, Phật giáo
du nhập vào nước ta từ rất sớm, vì vậy đã đặt nền móng lâu đời trong suốt chiều dài

17


phát triển của lịch sử dân tộc. Ở thời Trần, Phật giáo sớm trở thành hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hưng thịnh và suy vong của chính
quyền quý tộc nhà Trần.
Mặc dù vậy, các vị vua thời Trần đã biết kết hợp nhuần nhuyễn cũng như phát
huy vai trò của Nho giáo lẫn Lão giáo trong sự nghiệp trị quốc của mình. Chính vì
thế, nghiên cứu Phật giáo thời Trần không thể không tìm hiểu về quá trình hình
thành, du nhập và thích ứng của Nho giáo, Lão giáo (hay còn được xem là tam giáo
đồng nguyên) trong đời sống xã hội Đại Việt lúc bấy giờ.
Nho giáo
Nho giáo hay còn gọi là đạo Khổng, được Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng
lập và các môn đệ của ông là Mạnh Tử (372 - 289 TCN), Tuân Tử (313 - 238 TCN),
Đổng Trọng Thư phát triển. Khổng giáo là một trong những trường phái triết học
chính của Trung Quốc thời cổ đại, đó là những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể
chế cai trị vốn đã có cơ sở ở Trung Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối thời Xuân Thu
thì được hoàn chỉnh bởi thầy trò nhà Khổng.
Vấn đề trung tâm của Nho giáo là tư tưởng về con người. Nho học quan niệm

tính thiện của con người gồm năm đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín hay còn gọi là
ngũ thường. Với học thuyết “Chính danh” làm cho con người chấp nhận sự tồn tại
lâu dài của chế độ phong kiến, là nguyên nhân của sự trì trệ, chậm phát triển của các
nước phuơng Đông. Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người, hướng vào rèn luyện
đạo đức con người, đề cao giáo dục, giáo dục làm con người ác thành thiện. Đây
thực sự là quan điểm hết sức tiến bộ của Nho giáo.
Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang,
Nhâm Diên, Lý Thiện, Sĩ Nhiếp.. tích cực truyền bá từ đầu công nguyên. Nhưng
Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở
tầng lớp quan lại xung quanh chính quyền ngoại bang thì Phật giáo đã thâm nhập
vào các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước.
Ở thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu Công,
Khổng Tử (1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức. Chính vì

18


vậy, mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (Nhà Lý cùng thời với nhà
Tống ở Trung Hoa) chứ không phải Hán Nho, Đường Nho…
Sang thời Trần, Nho giáo từng bước phát triển mạnh mẽ. Đến giữa thế kỷ XIV,
Nho giáo lấn át Phật giáo, dần dần chiếm địa vị độc tôn và từng bước đi sâu vào
sinh hoạt tinh thần của nước Đại Việt trên nhiều lĩnh vực. Tầng lớp Nho sĩ ngày
càng đông đảo và đẩy lùi dần thế lực của tầng lớp tăng lữ trên lĩnh vực chính trị
cũng như thi cử. Quan lại xuất thân từ nho học ngày càng chiếm ưu thế trong bộ
máy chính quyền và nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình [33, tr. 36].
Cuối triều Trần, cuộc xung đột giữa Phật giáo và Nho giáo bắt đầu. Vấn đề có
nhiều lý do, nhưng lý do chính có lẽ là do nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục
nước ta khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai
con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đủ mà cần phải bổ sung một phương thức
đào tạo và tuyển lựa quan lại mới. Phương thức này chỉ có thể đạt được bằng con

đường phát triển giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài.
Nho giáo đã có đầy đủ lý thuyết và quy chế về giáo dục, khoa cử tất nhiên phải đảm
đương nhiệm vụ lịch sử ấy. Do đó, Nho giáo có cơ hội vượt qua Phật giáo để bám rễ
sâu vào đời sống chính trị xã hội của nhà nước Đại Việt.
Mặc dù, là hệ tư tưởng phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến nhưng Nho
giáo đã đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức
cao cả, dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nhưng nó vẫn là một
điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh
thần trách nhiệm cao cả với xã hội, là yếu tố tạo nên truyền thống hiếu học, truyền
thống khí tiết của kẻ sĩ, làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ. Bên cạnh
những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác động tiêu cực. Đầu
tiên, quan hệ của con người trong Tam cương có tính phiến diện, mặc dù Nho giáo
có nói đến nghĩa vụ và cách đối xử của hai bên, nhưng thực tế thì trước sau chỉ lên
án những kẻ làm tôi, làm con, làm vợ mà thôi. Thực tế, đó là mối quan hệ độc đoán
một chiều. Hai là, quy toàn bộ quan hệ xã hội của con người vào Tam cương, Ngũ
thường là không đủ. Đặc biệt, Nho giáo coi thường người phụ nữ, đã quy định trói

19


buộc người phụ nữ vào người đàn ông. Vì vậy, Nho giáo đã không giải đáp được
vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người, làm cho chủ nghĩa giáo điều và
bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và giáo dục khoa cử đương
thời.
Phật giáo
Dựa vào truyện Nhất dạ Trạch trong Lĩnh Nam Trích quái của Vũ Quỳnh và
Kiều Phú biên soạn thì Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ VI và đầu
thế kỷ V trước công nguyên. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết. Một số quan điểm khác
lại cho rằng Phật giáo vào nước ta khoảng thế kỷ thứ nhất, khi nước ta bị nhà Hán
đô hộ. Khi đó Việt Nam có Trung tâm Phật giáo nổi tiếng là Luy Lâu, được thành

lập do sự viếng thăm của các nhà buôn và tăng sĩ Ấn độ, trực tiếp bằng đường biển
chứ không phải là bằng đường bộ từ Trung Quốc xuống. Trong Thiền uyển tập anh,
phần tiểu sử Thiền sư Thông Biện có đoạn nói rằng Tùy Văn Đế muốn hỗ trợ tam
bảo, đã xây dựng tháp xá lợi thờ 49 nơi, làm 150 ngôi chùa tháp. Ông muốn làm
chùa tháp ở Giao Châu bèn sai pháp sư Đàm Thiên chọn một số danh tăng sang đó
để giáo hóa, khiến mọi người đều biết đạo Bồ đề. Pháp sư Đàm Nhiên tâu: “Xứ Giao
Châu có đường biển thông trực tiếp với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang
Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới 20 ngôi bảo tháp, để được hơn 500 vị tăng và
dịch được 15 quyển kinh rồi” [38, tr. 91 – 92]. Điều đó đã chứng tỏ Phật giáo đến
Giang Đông chưa đầy đủ thì Luy lâu đã trở thành Trung tâm Phật giáo ở Giao Châu
(Đại Việt).
Phật giáo với những tư tưởng như: vô thường, vô ngã, nhân quả, nghiệp báo,
luân hồi và triết lý nhân sinh từ, bi, hỷ, xã... đứng về phía người nghèo khổ, trong
học thuyết Tứ Diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát Chánh đạo gần gũi và phù hợp
với triết lý nhân sinh cũng như phong tục tập quán của người Việt, như quan điểm
phúc đức nhân ái, vị tha, hòa hiếu. Vì vậy, Phật giáo đã được người Việt tiếp nhận,
với một số vị thiền sư có công truyền bá và tu tập như Khương Tăng Hội, Mâu Bác,
Ma Ha Kỳ Vực,…Khương Tăng Hội là người giới thiệu và viết tựa cho các tác
phẩm Lục Độ Tập Kinh, An ban Thủ Ý và cũng được coi là người khởi đầu hay là

20


×