Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tiểu luận chiếc áo dài Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA VŨNG TÀU

TIỂU LUẬN
Tên đề tài: ÁO

DÀI VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN:
MSSV:
LỚP:
VŨNG TÀU 2018

Trang 1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU:................................................................................................
CHƯƠNG I: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ SỰ TÍCH VỀ CHIẾC ÁO DÀI
VIỆT NAM..............................................................................................................
I.1. NGUỒN GỐC LỊCH SỬ CỦA ÁO DÀI...............................................
I.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH..........................................................................
I.3. SỰ HÌNH THÀNH...............................................................
I.4 CÁC KIỂU ÁO DÀI..............................................................
CHƯƠNG II: SỰ PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG NÉT MỚI, SỰ CÁCH TÂN
CỦA CHIẾC ÁO DÀI QUA TỪNG GIAI ĐOẠN...................................................
II.1. SỰ PHÁT TRIỂN...............................................................................
II.2. SỨC HẤP DẪN CỦA ÁO DÀI..........................................................
III.3. NHỮNG NÉT MỚI VÀ SỰ CÁCH TÂN. ...............................................
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN.........................................................................


Trang 2


LỜI MỞ ĐẦU
" Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân", có lẽ từ rất lâu đời con người ta đã ý thức được
vai trò rất quan trọng của trang phục. Theo thời gian, trang phục cũng thay đổi theo quá trình
phát triển của lịch sử. Đối với mỗi một quốc gia, trang phục cũng trở thành một yếu tố quan
trọng tạo nên nét đẹp văn hóa riêng biệt qua từng thời kỳ, mang tính đậm đà và vẻ đẹp của
mỗi dân tộc.
Việt Nam cũng không ngoại lệ, và chiếc Áo Dài chính là loại trang phục truyền thống
và đặc trưng của người dân Việt Nam, gồm phần áo mặc bên ngoài có hai tà và quần dài.
Trang phục thường được che thân từ cổ đến quá đầu gối, qua thời gian chiếc áo dài đã
trải qua nhiều sự phát triển, cải tiến.
Bộ áo dài nguyên thủy là áo ngũ thân rất rộng và không bám sát vào người như áo dài
hiện nay.
Hiện nay Việt Nam chúng ta đa dạng trang phục với nhiều kiểu dáng và màu sắc khác
nhau. Nhưng khi nói đến người phụ nữ Việt Nam chúng ta lại nghĩ hoặc liên tưởng ngay đến
hình ảnh chiếc áo dài.
Là người Việt Nam em thật tự hào và kiêu hãnh khi được nói tới chiếc áo dài Việt
Nam-một nét đẹp về trang phục truyền thống của người Việt từ thời xa xưa. Bộ trang phục
này thường được mặc trong các dịp trọng đại như: đám cưới, lễ tết, lễ hội,... vì nó mang vẻ
đẹp thướt tha trang nghiêm thùy mị...và hơn nữa trang phục áo dài cả nam và nữ đều có thể
mặc được, nó ngày càng trở nên phổ biến và trở thành nét đẹp về thuần phong mỹ tục của dân
tộc Việt Nam.
Là sinh viên năm thứ ba của trường Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu em mong muốn được
tiếp thu, học hỏi và lĩnh hội những nét đẹp văn hóa trong đời sống của chính người dân Việt
Nam.
Chính vì những lý do trên, em quyết định chọn đề tài với tên gọi:”Áo dài Việt Nam”

Trang 3



CHƯƠNG I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ SỰ TÍCH VỀ CHIẾC ÁO DÀI
VIỆT NAM.
I.1- Nguồn gốc lịch sử của Áo dài:
Biểu trưng mạnh mẽ cho dân tộc Việt Nam của tà áo dài. Trải qua nhiều thăng trầm,
chiếc áo dài trở thành một hình ảnh gắn liền và là niềm tự hào của người Việt. Để có được vị
trí như hôm nay, áo dài cũng đã trải qua một bề dày lịch sử với nhiều mốc đáng nhớ.
Mọi người dân Việt Nam đều biết áo dài là trang phục truyền thống của quốc gia
mình. Nhưng nếu hỏi về nguồn gốc của áo dài thì có lẽ không phải ai cũng biết và hiểu sâu
sắc. Trước tiên ta phải tìm hiểu về tên “áo dài”. Nếu theo giọng Nam, áo dài sẽ được đọc là “
Ao yai”, còn ở miền Bắc thì được đọc là “ ao Zai”. Đối với người dân Việt Nam cái tên “Áo
dài” đã trở nên thân thuộc từ lâu.
Thật ra cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thuỷ ra đời từ lúc nào và hình
dáng ra sao vì không có nhiều tài liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo
những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách đây khoảng vài nghìn năm cho thấy
hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh đã viết: “ Theo sách sử ký
chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên của chúng ta, mặc áo dài về bên tả ( hình thức tả
nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dung
kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đỏ chép thì ta có thể suy luận rằng trước
hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chiếc người Trung Quốc mới mặc
gài về tay phải. Vì thế có thể coi kiểu sơ khai của áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự
như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại, áo mặc phủ
ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả.
Không thể xác định niên đại chính xác của áo dài, bởi ngay tà áo được coi là quốc phục
của người Việt cũng phải trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, thời gian, du nhập nhiều nền
văn hóa qua nhiều giai đoạn mới có ngày hôm nay. Tuy nhiên, ngay trên những tranh khắc của
Trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm đã thấy thấp thoáng bóng dáng của tà áo dài,
tranh khắc trang phục của phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ.


Trang 4


Tại sao nói trang phục với hai tà áo xẻ lại là bóng dáng của áo dài, vì nét đặc trưng
mạnh mẽ nhất của áo dài chính là hai tà áo. Cho dù trải qua bao nhiêu ngàn năm với bao
nhiêu biến thể, nét duy nhất còn nhận ra được trang phục truyền thống của người Việt không
bị lai tạp với các nền văn hóa khác chính là hai tà áo dài.Có nhiều người cho rằng áo dài Việt
là một bản khác của sườn xám của phụ nữ Trung Quốc, nhưng chiếc sườn xám chỉ xuất hiện
vào khoảng 1920, còn tà áo dài Việt đã có từ rất lâu trước đó. Điều đó chứng tỏ áo dài là một
nét văn hóa của riêng Việt Nam, chỉ người Việt mới có. Và khi nói đến khía cạnh thẩm mỹ,
văn hóa và trang phục truyền thống của người Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay đến tà áo
dài và chiếc nón lá, thật vậy, trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cùng với những diễn biến
của quá trình phát triển lịch sử, tà áo dài Việt Nam tồn tại cùng với thời gian, được xem là
trang phục truyền thống mang tính lịch sử lâu đời của người Việt.

I.2 – Lịch sử hình thành:
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng
khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ
đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu,
đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng.
Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mangguốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc
buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa
trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra
ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của
người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh
gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách
tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các.
Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành
vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình

không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân
phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo.
Trang 5


Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng
trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học
Đông phương.

1. I.2.2 Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát

Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình
chiếc áo dài Việt Nam.Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 16 lối ăn
mặc của người Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới
thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn
người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn với
nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng. Trước làn
sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban
hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành.
Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt
Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng
hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy
đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép ..." (sách
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết "Chúa Nguyễn
Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy".
Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố
định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương
(1739-1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm, áo dài
viết bằng chữ Nôm là 襖襖.
Trang 6



Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng
riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong thành
quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải với người khách
trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau
thấy quần hai ống khêu gợi quá, Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài của
người Chăm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài
của phụ nữ Thượng Hải (chiếc sườn xám) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam. Chiếc
áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Thật ra chiếc sườn xám cũng chỉ
ra đời quãng thập niên 1930, và quan điểm trên quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên
vô hình chung đề cao vai trò của Vũ Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên".
1. I.2.3Thời vua Minh Mạng
Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách
Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "...
áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục
như thế...". Vậy có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (18021819). Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể mặc
váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt
phải mặc quần hai ống.
1. I.2.4 Đời sống mới
Các bộ phận của một chiếc áo dài kiểu mới

Năm 1947

trong bối cảnh

Việt Nam mới tuyên

bố độc lập và các


phong trào "diệt giặc

đói, giặc dốt" đang

được phát động,

nhằm phát động

phong trào tiết kiệm,

ngày 20 tháng 3

năm 1947, Hồ Chí

Minh, với bút hiệu

Tân Sinh, đã viết một

cách vắn tắt rõ

ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để
thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn
vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200
triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới. Cuộc vận động này
Trang 7


dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ
Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.
1. I.2.5Áo dài Le Mur


"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên
1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt
trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển
chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể
người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía
trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn.
Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng"
thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc
cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc
bóp đầm. Lối tân thời này đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được
phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).
Theo tài liệu thu thập được thì hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường là người đầu tiên đã cải tiến
chiếc áo dài cho phụ nữ Việt Nam. Ông sinh năm 1912 tại Sơn Tây.Năm 17 tuổi, ông trúng
tuyển vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội và tốt nghiệp vào năm 1934.
Ông là người đã đóng góp rất nhiều trong việc sáng chế các kiểu quần áo cho phụ nữ
Việt Nam. Vào đầu thập niên 1930, chiếc áo dài thuần tuý của Việt Nam bắt đầu thay đổi, giới

Trang 8


phụ nữ bắt đầu mặc áo mầu và năm 1934, hoạ sĩ Cát Tường đã tung ra một loạt các loại mẫu
áo dài tân thời trong tập san Đẹp 1934 và báo Phong Hoá thời bấy giờ, dưới cái tên “Lemur”.
Sau đó, ông tiếp tục thiết kế nhiều mẫu áo dài cho phụ nữ, nữ sinh và áo ngắn mặc trong nhà.
Ngoài chuyện cải tiến áo dài cho phụ nữ, và đóng góp vào việc thiết kế các kiểu y phục thích
hợp với thân hình, lại làm tăng vẻ đẹp của phái nữ, hoạ sĩ Cát Tường còn cải tiến và mỹ thuật
hoá chiếc xích lô đạp thời bấy giờ và được dân chúng ủng hộ nhiệt tình.
Tiếc thay, vào ngày 17 tháng 12 năm 1946, ông bị dân quân bắt tại Hà Nội và đưa đi
biệt tích.Mặc dù họa sĩ đã ra đi một cách bất ngờ gần 75 năm trước, nhưng bóng dáng của
chiếc áo dài mà hoạ sĩ tài ba Cát Tường thiết kế vẫn tiếp tục xuất hiện tại Việt Nam và nhiều

nơi trên thế giới. Tà áo dài tha thướt, nhã nhặn, kín đáo và duyên dáng làm tăng thêm vẻ đẹp
của người phụ nữ Việt Nam, và là niềm hãnh diện cho người Việt.
1. I.2.6 Áo dài Lê Phổ

1.

Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le
Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt
dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này
quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ
đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao
thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.
2. I.2.7 Áo dài với tay giác lăng
Trang 9


Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách
ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo
dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài
được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp
tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến
chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ
theo đánh giá của một số nhà thiết kế.
1. I.2.8 Áo dài miniraglan

Nữ
sinh mặc áo dài đến trường

Trang 10



Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay
raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm
này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương.
1. I.2.9 Áo dài cổ thuyền

Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam
Cộng Hoà, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền,
cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu
áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc
ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền
nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học tức giận và lên án nó
không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay
và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.

I.3- Sự hình thành:
I.

I.3.1Một biểu tượng của Việt Nam

Trang 11


Áo dài nam, nữ truyền thống và khăn, trong đám cưới
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa
truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại
một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học,
mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này
không hề rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải
mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô

dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây
phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này.
Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân
nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo khiến
cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn
thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo.
Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một
người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà" cho chiếc áo
dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ
nữa mới hoàn thiện.

I. I.3.2 - Trong thơ ca và hội họa

Trang 12


Áo dài màu đỏ (thường là áo dài dùng trong lễ cưới, lễ ăn hỏi của người Việt)Hình ảnh
phụ nữ/con gái Việt Nam với chiếc áo dài truyền thống đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi
bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đông"
của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ
phim điện ảnh cùng tên, với những câu:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...
Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên:
Tháng giêng em bikili
Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Nguyện theo tà lụa cả phương Đông (Tháng giêng, chim)
đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Masoeur)
Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:

Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh)

Trang 13


Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc
áo dài trắng nữ sinh:
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).

Tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân
Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một
trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một
cô gái mặc áo dài trắng ngồi bên một bình hoa huệ tây(hoa loa kèn).
Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc
Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung
của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng.
Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn:
Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)
Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên
1940:
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng
cười... (Quê nghèo)
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Trang 14



Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường
phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...
Nhạc sĩ Sỹ Luân cũng có bài "Áo dài ơi" vui tươi :
Có chiếc áo dài tung tăng trên đường phố
Những lúc buồn vui vu vơ nào đó
Ánh mắt hồn nhiên vô tư dễ thương á hà…...
...Áo dài vui áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Áo dài vui vui áo dài hát hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói nói áo dài cười cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường với ca khúc "Em trong mắt tôi":
Em đẹp không cần son phấn… xinh thật xinh… thật xinh... rất hiền...
Không quần jeans… giầy cao gót… em chọn riêng mình em áo dài… duyên dáng...
Giống như hoa kia bên thềm… ngát hương không khoe sắc màu… ngàn đóa hoa đang
rực rỡ không sánh bằng...
Nhẹ nhàng tung bay tà áo dài... Em phụ nữ Việt…
Ánh lên bao rạng ngời người Phương Đông…
Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ
Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng:
Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ trông thấy nhau(Ngàn thu áo tím)

I.4 – Các kiểu Áo dài:
1. Áo dài nữ giới:
Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày nay chiếc váy đó
chỉ còn rải rác ở một số vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở

thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam.
Như lịch sử còn ghi lại cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài gần 200 năm. Ở miền
Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì, ở Miền Nam các chúa Nguyễn miệng nói thuần phục nhà Lê
song thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của đằng trong để củng cố địa vị cho sự
nghiệp: “ Vạn đại dung thân”. Năm 1744 trong dân gian miền Nam bỗng lưu truyền một câu
sấm “ Bát đại thời hoàn trung đô” (tức là ở lại kinh đô Thăng Long ngay). Câu sấm này làm
Trang 15


cho chúa Nguyễn Phúc Khoát giật mình. Triều thần của Nguyễn Phúc Khoát đã họp bàn để
tìm ra hướng giải quyết “ hoàn” Trung Đô. Một thời gian sau các đại quan đã trình bày với
chúa Nguyễn rằng “ Muốn thực sự có một vương quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi
lễ nhac, thay đổi văn hoá”. Văn hoá đó là trang phục.Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn
giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và

áo may sát người dài đến mắt cá chân
Riêng ở miền Bắc khoảng năm1910 - 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết
phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ
hơn và cũng để diện chuỗi hột trang sức nhiều vòng.
Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùng
thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một
áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa
phải, với đũng thấp. Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài,
trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loại
quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần
sẽ xòe rộng thêm.
Và kể từ đó phân biệt với phụ nữ hai miền thì phụ nữ miền Bắc mặc váy phụ nữ miền
Nam mặc quần có đáy ( hai ống) như đàn ông. Với con mắt phong kiến, võ vương thấy phụ
nữ mặc quần hai ống trông khêu gơi quá nên ông bèn cho triều thần nghiên cứu tham khảo áo
dài của người Chăm (Giống áo ài Việt Nam ngày nay nhưng không xẻ nách) và chiếc áo dài

thượng Hải ( xẻ đến đầu gối) để từ đó chế ra áo dài Việt Nam. Vì thế có thể coi chiếc áo dài
của người phụ nữ đầu tiên giống như chiếc áo dài của ngừời Chàm nhưng có xẻ nách. Chiếc
áo dài ngày nay hội tụ cả hai yếu tố của phương Bắc và phương Nam tạo nên sự cân đối hài
hoà.
Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm
thân hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo.
Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay.
Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xưa
chỉ dệt được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may
rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80
cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng
phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu.
Thời kỳ này, gấu áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Từ đây và
tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen
Trang 16


dành cho những phụ nữ đã lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện,
nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương Tây dệt có khổ rộng hơn vải
ta. Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố
Hàng Da và một số ở khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường
đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi là Le Mur mang mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn
giữ nguyên phần áo dài may, không nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có
khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may bồng, tay nối ở vai; khuy áo
may dọc trên vai và sườn bên phải. Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ
sỹ hay ăn chơi “thời thượng” lúc đó mới dám mặc.
Nhưng chỉ đến khoảng năm 1943 thì loại áo này đã bị lãng quên.Đến khoảng những
năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết eo. Các nhà may lúc đó đã cắt áo lượn theo
thân người. Thân áo sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông để áo ôm theo thân dáng

mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao lên trong khi gấu được hạ thấp xuống.
Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lượng đông đảo các nhà tạo mẫu áo dài, với đủ các loại
chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo đưa ra những mẫu mốt mới...Chất liệu
mới cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường
nét thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa văn trên
áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo “công thức” cũ, nghĩa là không khác gì nhiều với
cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII.

2. Áo dài nam giới:
Có lẽ sẽ thật là thiếu sót nếu không đề cập tới trang phục áo dài dành cho nam giới. Theo
nhà nghiên cứu Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu
cũng là một trang phục truyền thống của phái nam. Tuy nhiên theo sắc dụ ban hành từ thời
chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thông thoáng
hơn. "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc
hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông
không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này). Từ
thập niên 1930 trở đi mới xuất hiện áo dài nữ phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam phục hai vạt
cũng phải xuất hiện khoảng thời gian đó.

Trang 17


Cụ già mặc áo dài the cúng Tất Niên nhân dịp Tết Nguyên Đán

Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và
khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát
trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Theo sắc dụ ban hành từ
thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn,
"Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp
tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông

không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này).
Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về
quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn
mặc của người khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay
vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy
Anh, đã chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải
(thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn
đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ
có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ
hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay
đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục.
Kể từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam, thủ tướng Trần Văn Hữu đã ấn định quốc
phục cho các viên chức hành chánh trong chính phủ: nếu buổi lẽ mang tính cách tôn giáo hay
lịch sử thì lễ phục là áo dài chẽn, khăn đen, quần lụa trắng. Vậy nếu nói đến quốc phục truyền
thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản
pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy
định của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục).

Trang 18


Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến chiếc
áo dài nữ phục.Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục.
Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam, vận
chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang
đậm nét truyền thống Việt Nam hay là lễ cưới, khi làm lễ ra mắt gia tộc. Đặc biệt tại tuần lễ
cấp cao APEC 2006 được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà
lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà.
Ngày nay, ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh thanh niên mặc áo dài, chỉ những người có tuổi
trong trang phục áo dài truyền thống. Ta có thể đưa ra lí do giải thích cho điều này: Phải

chăng áo dài nữ phục có quá trình hình thành và phát triển lâu hơn. Hơn nữa áo dài nữ được
quy định bởi văn bản pháp quy ( sắc dụ của chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc
rõ ràng hơn ( Chiếu quy định của Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh của áo dài nữ phục).
Do đó khi nói tới áo dài người nước ngoài và người ngoài nước thường nghĩ đến chiếc
áo dài nữ giới.

3. Áo dài trẻ em

Trẻ em Việt Nam thường mặc áo dài trong dịp lễ tết, đám cưới.Trang phục áo dài của
các em thường có màu sáng như màu đỏ,màu hồng,và thường đội khăn xếp tượng trưng cho
sự trong sáng,hồn nhiên.Qua đó muốn gửi gắm thông điệp về một cuộc sống hạnh phục tươi
đẹp.

Trang 19


Nhân dân ta mỗi khi nói đến ngày cưới vẫn thường cho rằng : “Trăm năm mới có một
lần” có lẽ do đó mà từ trước đến ngày nay những bộ trang phục trong ngày cưới bao giờ cũng
hết sức đặc biệt.
Thời xưa bộ trang phục mà các co dâu mặc trong ngày cưới cũng chính là trang phục các cô
mặc trong ngày lễ hội cổ truyền của dân tộc: Áo tứ thân, áo ngũ thân, áo dài.
Cho đến khi áo dài chính thức trở thành trang phục truyền thống của Việt Nam thì trong
ngày cưới cô dâu thường mặc áo dài đỏ và trắng. Màu trắng biểu hiện sự tinh khiết cả về thể
xác lẫn tâm hồn, còn màu đỏ thể hiện ước mơ hai vợ chồng sẽ trăm năm hạnh phúc, son sắc,
thuỷ chung. Nhưng cho đến ngày nay áo dài chỉ được thấy trong các đám hỏi, nạp tài, dạm
ngõ. Còn trong các ngày cưới chính thức các cô dâu thường chọn cho mình chiếc váy âu cách
tân sang trọng.

b, Áo dài trong tang lễ
Đối với người Việt Nam chọn trang phục để mặc trong tang lễ là điều rất quan

trọng.Vì không gian tang lễ khác hoàn toàn so với các không gian khác. Đến tang lễ không
chỉ là chia buồn với gia đình người đã mất mà còn phải thể hiện sự tôn kính trân trọng đối với
người đã khuất. Từ xưa đến nay trang phục trong tang lễ là bộ đồ xô gai. Tuy vậy áo dài vẫn
được lựa chọn để mặc. Và một điểm đáng chú ý ở đây nữa là áo dài phải là những người thân,
hàng xóm đến chia buồn cùng gia quyến.

I.5 – Sự tích về chiếc Áo dài
Từ xa xưa, phụ nữ trên đất Việt ta đều mặc váy cả, từ Bắc xuống Nam. Đến ngày nay chiếc
váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng quê đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc
áo dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Thế thì nó đã có tự bao giờ?
Sự tích áo dài Việt Nam. Xa xưa, người dân Việt Nam từ già đến trẻ rất quí chiếc áo
dài Việt Nam. Thời nay, trên các diễn đàn quốc tế, nhất là trong các cuộc thi hoa hậu, chiếc áo
dài Việt Nam mang đậm tình quê hương, vừa chân chất giản dị, vừa bác học tô điểm vẻ đẹp
người con gái vùng lúa nước mênh mông sông Hồng và ruộng cò bay thẳng cánh sông Cửu
Long…
Người phụ nữ xưa mặc áo dài tứ thân cùng với yếm đào, váy lụa Hà Đông, nón quay thao
qua nhiều giai đoạn “cách tân” cho đến ngày nay là một quá trình chọn lọc không mấy dễ
dàng. Áo dài tứ thân, ngũ thân là tiền thân của áo dài nhị thân, quí cô, quí bà rất tự hào khi
trình diễn với thiên hạ. Những năm 30-40, ở thị thành xuất hiện áo dài kiểu tân thời Lơ Muya
(Le Mur) biệt danh của họa sỹ Lê Cát Tường cho nữ giới: áo dài màu vàng quá gối, có cổ cao
viền xanh, quần trắng, hai ống tay có viền vải xanh…(trích từ trang 45 Tự Điển Bách Khoa
Việt Nam -tập 1- Hà Nội xuất bản năm 1995).
Trang 20


Áo tứ thân xưa có bốn vạt rộng, thường có màu thẩm, bên trong có yếm đào liền với váy
thâm xuất hiện trong đời sống người dân Kinh Bắc, với giọng ca quan họ lâu đời. Yếm đào áo cánh - váy thâm có từ thời Hậu Lê, áo cánh khoác ngoài yếm, chỉ dài ngang lưng thon. Nay
ở phố Hàng Đào cổ (Hà Nội), có đình Đồng Lạc lưu giữ dòng chữ Hán Đồng Lạc quyến yếm
thị (quyến yếm thị đình) là nơi bán yếm lụa với nghề dệt lụa truyền thống.
Vào thế kỷ XVIII, chiếc yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét tròn làm

cổ, hai đầu của cổ yếm đính mẫu dây để cột ra sau gáy gọi là yếm cổ xây, yếm cổ xẻ có cổ
hình chữ V, với ba đường chân chim gọi yếm cổ nhạn…

Áo dài từ thân ngày xưa
Nhớ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, gây bao thảm họa nồi da xáo thịt, gần hai trăm
năm, phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài. Khi xét thấy Đàng Trong đủ mạnh, đủ sức chống
chọi với Đàng Ngoài. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1736-1765) ra chỉ dụ: “Phụ nữ phải ăn mặc
cải cách, mặc quần thay váy, trên phần đất cai quản xứ mình có y phục giống nhau.” Cuộc cải
cách bất thành, phụ nữ chống lại lệnh chúa để bảo vệ thuần phong mỹ tục, từ xưa ông bà
truyền lại.
Đến đời vua Minh Mạng năm thứ 7 (1828), sai phán bộ Lễ: Dư đồ nước nhà đã hỗn hợp
làm một, văn hóa phép tắc cũng giống nhau, nhưng y phục dân gian còn cách biệt, không hợp
với công việc cùng quê quán. Hạ lệnh cho dinh thần Quảng Bình, truyền khắp dân gian trong
châu, mặc quần áo theo đúng nghi thức…
Trang 21


Lệnh vua ban chẳng thiêng, dân phương bắc vẫn ung dung mặc váy cùng với áo tứ thân,
yếm đào, nón quai thao..
Đến thời Pháp thuộc, ít nhiều có ảnh hưởng Tây hóa, chiếc áo tứ thân, ngũ thân còn
may rộng chưa có EO, sau đó áo tứ thân chuyển thành áo nhị thân có EO, dần đến áo có hoa
văn trước ngực, muôn màu muôn vẻ, nổi bật tiềm ẩn tuổi trẻ trung, khó mờ phai.
Hà nội-Thăng Long, ngàn năm văn vật, có làng Trạch Xá, huyện Ứng Hòa, quê hương
“Áo lụa Hà Đông”, nay là Hà Nội, có nghề may áo từ thời nhà Đinh. Tiếng lành đồn xa, được
triều đình Huế triệu về may áo cho vua. Thợ ngắm nhìn vua “từ xa,” cắt may ngay được bộ áo
quần vừa ý.
Quận Hoàn Kiếm (Hà Nội), có hai phố Lương Văn Can và phố Cầu Gỗ, có thợ may
gốc gác người làng Trạch Xá. Với những kỹ xảo đo rất chuẩn: đường kéo cắt cho ngang cạnh
thẳng sợi, đường viền cũng phải thật phẳng, không vênh đường tà. Mũi kim chỉ khâu tròn nhỏ
xíu như trứng nhện. Người khéo tay luồn tà bằng chỉ trắng vào áo đen, ít người nhìn thấy gọi

là trong dán hồ, ngoài phô trứngnhện là câu nói đầu miệng của thợ may Trạch Xá.
Chiếc áo dài Trạch Xá xưa, bao giờ cũng mềm mại hơn, tha thướt hơn. Ngày nay đất
nước thống nhất, đổi mới khắp mọi miền, áo dài lụa Hà Đông, áo dài tím Huế, áo dài tân thời
Tp. Hồ Chí Minh hòa chung tên gọi áo dài ViệtNam với nhiều nét hoa văn lộng lẫy, uyên bác
và sống động, không những chiếm được sự tin yêu của phụ nữ Việt Nam mà cả khách quốc tế.
Tháng 4-1898, Toàn quyền Paul Doumer ( Pôn Đu-me) làm lễ đặt viên đá đầu tiên
xây dựng cầu lớn có chiều dài vắt qua hai bờ 1.680m, chia làm 19 nhịp cao 13,50m so với
mặt nước. Ngày khánh thành chiếc cầu vĩ đại này vào năm 1902, có bốn thiếu nữViệt Nam
trong tà áo dài xinh đẹp duyên dáng đứng trên cỗ xe do hai con bò kéo, đã tham dự buổi diễu
hành, đặt tên: cầu Pôn Đu-me.
(Đoạn văn này trích trong cuốn Le grands Dessier de L’illustration xuất bản tại Pháp
năm 1987).Sau Cách mạng Tháng 8/1945, Bác Hồ tuyên bố Độc lập (2-9-1945), ta xóa bỏ tên
cầu Pôn Đu-me, toàn quyền thực dân Pháp cũ, đặt tên mới: cầu Long Biên.
Năm 1988, báo Tiền Phong tổ chức thi Hoa hậu đầu tiên trong sự “lạ lẫm” của nhiều người
Đến nay, đã qua nhiều cuộc thi hoa hậu tôn vinh phụ nữ Việt Nam, có nhiều hoa hậu áo dài
đẹp nhất.Vẻ vang thay! Áo dài Việt Nam với tà áo tung bay khắp Pari, Luân Đôn với năm
châu bốn biển cho trời đất hãnh diện là người Việt Nam.

CHƯƠNG II. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG NÉT MỚI, SỰ CÁCH TÂN
CỦA CHIẾC ÁO DÀI QUA TỪNG GIAI ĐOẠN
II.1 – Sự phát triển:
Trang 22


Cũng không ngạc nhiên khi một người Việt Nam trả lời rằng tà áo Dài là một trong những
hình tượng tiêu biểu ở đất nước này. Thật khó mà dịch từ "áo Dài" sang bất cứ ngôn ngữ nào
vì không ở đâu có một tà áo Dài như ở Việt Nam.
Áo Dài, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, ôm sát cơ thể, có cổ cao và dài
khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở hông. Áo Dài vừa quyến rũ lại vừa gợi cảm, vừa kín đáo
nhưng vẫn biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn lịch

sử khác nhau, những vùng địa lý khác nhau, trang phục áo dài đều có những nét đặc sắc
riêng.
Vào khoảng từ năm 1618 đến năm 1623, một vị giáo sư người Italia có tên Cristoforo
Borri, sống ở vùng Quảng Nam đã nhận xét trong một cuốn sách của ông rằng: “Người Việt
Nam xưa nay thường có tính kín đáo. Tuy là một nước nhiệt đới, nhưng người Việt ăn mặc rất
kín đáo, có thể là kín đáo nhất so với các dân tộc khác trong vùng”. Có lẽ người Việt xưa đã
phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm cách phối hợp những nguyên tắc thẩm mỹ với
quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc. Chẳng hạn, do đặc thù về nhân chủng
học, người Việt có cái cổ thường không cao, người xưa đã biết may cổ áo thấp xuống và ôm
sát cổ, trong khi tóc được vấn cao lên, để lộ gáy... Và vì thế, cái cổ của một phụ nữ Việt Nam
có nhan sắc trung bình vẫn trở nên thanh tú và cao sang hơn. Phải chăng đó là tiền đề cho
phần cổ của chiếc áo dài?
Áo dài của người Việt vẫn có tiếng là gợi cảm. Người Trung Quốc gọi loại áo này là “bì
bào”, có nghĩa là áo mặc sát vào da. Đến nay, vẫn chưa có ai khẳng định được chiếc áo dài
Việt Nam xuất hiện từ bao giờ và như thế nào? Tuy nhiên, chuyện được biết nhiều nhất là
việc chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong, khi xưng vương (năm 1744) đã bắt quan, dân
phải mặc lễ phục lấy mẫu từ “Tam tài đồ hội” của nhà Minh, Trung Quốc. Vì thế mà có giả
thuyết cho rằng, áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc. Tuy nhiên, áo dài hay “bì bào”
không phải là lễ phục. áo dài chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để tiếp
khách hay đi chơi. Loại “bì bào” độc nhất ở Trung Quốc thường được gọi là “xường xám”, có
nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện vào những năm của thập niên 1930 tại Trùng Khánh và Thượng
Hải.
Vào năm 1776, sau khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chiếm được kinh đô Phú Xuân của xứ
Đàng Trong, quan Hiệp Chấn Thủ Lê Quý Đôn đã ra lệnh cho dân ở đây phải ăn mặc theo lề
lối của Đàng Ngoài. Theo lệnh này, về thường phục thì: “Từ nay trở đi, đàn ông và đàn bà chỉ
được mặc loại áo ngắn tay có cổ đứng...”. Tức là tay áo chỉ dài đến cổ tay, thay vì dài gấp đôi
chiều dài của cánh tay như trong áo lễ. Trong cuốn sách của giáo sỹ Borri (như đã nói ở trên)
có tên: “Tường thuật về sứ mệnh mới của các linh mục Dòng Tên ở Nam Kỳ - năm 1631” đã
miêu tả cách ăn mặc của người Việt Nam đầu thế kỷ 17 như sau:“Người ta mặc năm, sáu cái
Trang 23



áo dài, áo nọ phủ lên kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân, những cái áo
khác ở ngoài ngắn dần...”. Đấy là vị giáo sỹ đã nói đến chiếc áo mớ ba, mớ bảy của phụ nữ
Việt Nam còn thấy ở các làng Quan Họ ở Bắc Ninh hay còn lác đác ở Huế. “Đàn ông cũng
mặc năm, sáu lớp áo dài lụa... Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành
những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông rất đẹp mắt... khi có gió thổi, các
dải áo bay tung lên như cánh chim công thật ngoạn mục...”. Thực ra, mấy lớp áo bên ngoài bị
cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng mà giáo sỹ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen,
hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài
áo dài. Xiêm có ba hoặc bốn lớp dải lụa, gọi là cánh sen may chồng lên nhau. Bức tượng Bà
Ngọc Nữ được tạc từ thế kỷ XVII ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh là minh chứng rõ nhất
cho cả áo dài, các dải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sỹ Borri đã miêu tả. Cái áo dài đó
cũng như cách vấn khăn không có nhiều khác biệt so với bây giờ.
Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân
hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm
vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay. Sở dĩ
áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xưa chỉ dệt
được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra
từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu,
cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ
nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu. Thời
kỳ này, gấu áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Từ đây và tiếp tục cho
đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho
những phụ nữ đã lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện, nhưng họ mới
chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn
may nối.
Thời đó, Hà Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và một
số ở khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường đã tung ra một

kiểu áo mới có tên gọi là Le Mur mang mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần
áo dài may, không nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có khi áo được gắn
thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may bồng, tay nối ở vai; khuy áo may dọc trên vai
và sườn bên phải. Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ sỹ hay ăn chơi
“thời

thượng”

lúc

đó

mới

dám

mặc.

Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết eo. Các nhà may
lúc đó đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông
Trang 24


để áo ôm theo thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao lên trong khi
gấu được hạ thấp xuống.
Vào những năm 1960, áo dài được thay đổi nhiều nhất vì cái nịt ngực được sử dụng ngày
càng phổ biến hơn, nên áo dài phải được may chiết eo, thậm chí người phụ nữ mặc rất chật để
tôn ngực. Eo áo cắt cao lên để hở cạp quần; gấu áo cắt ngang thẳng và dài gần đến mắt cá
chân. Năm 1960, vì muốn thấy có cảm giác cổ phụ nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại
áo dài cổ thuyền, được gọi là áo bà Nhu và sau này còn có người may áo dài với cổ khoét

tròn. Vào cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, để thích ứng với thời trang váy ngắn,
quần loe của thanh niên theo lối hippy, áo dài mini đã xuất hiện và ngay lập tức trở thành mốt
thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng ra và không chiết eo,
nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể; cổ áo may thấp xuống còn 3 cm; vai áo bắt đầu được
cắt lối raglan để ngực và tay áo ôm hơn; quần khi đó được may rất dài, gấu rộng đến 60 cm.
Sau thời kỳ này trở về đến năm 1990, áo dài không thay đổi nhiều lắm so với truyền thống,
thỉnh thoảng cũng có vài mẫu đổi mới, chẳng hạn như quần áo đồng màu nhưng không phổ
biến.
Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lượng đông đảo các nhà tạo mẫu áo dài, với đủ các
loại chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo đưa ra những mẫu mốt mới...Chất
liệu mới cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những
đường nét thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa
văn trên áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo “công thức” cũ, nghĩa là không khác gì
nhiều với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII.

II.2 – Sức hấp dẫn của chiếc Áo Dài
Áo dài đại diện cho nước Việt ta đã tồn tại từ bao đời, qua những thăng trầm của lịch
sử, nhưng cho đến tận ngày nay nó vẫn còn vẹn nguyên nét thuần khiết và đằm thắm của
người phụ nữ Việt Nam.Quốc phục được tôn vinh với tất cả niềm kiêu hãnh từng đi vào bao
áng văn chương, ẩn hiện qua nhiều câu hát và sống dậy ở đời thực vẫn chưa bị bào mòn theo
thời gian. Những thế hệ con rồng cháu tiên mãi mãi tự hào với vẻ đẹp truyền thống của tà áo
dài dân tộc.
Nói bao nhiêu cũng không thấy đủ, đong bao nhiêu cũng không thấy vừa bởi sức mạnh trên
từng tà áo là điều đã được kiểm chứng theo suốt chiều dài lịch sử. Chiếc áo dài thời xa xưa
còn khá giản đơn trong thiết kế nhưng vẫn tôn vinh nét duyên dáng của người mặc. Không bó
sát vào những đường cong cơ thể, áo dài cổ xưa được may hơi rộng, phủ bên trong một lớp áo
yếm lót. Giai đoạn tiền sử của áo dài cũng chỉ ra rằng có sự phân biệt đẳng cấp ở chất liệu vải
dệt, màu sắc thì chủ yếu là các gam trầm, một màu không pha chế thể hiện sự kín đáo, đoan
trang của người thiếu nữ.
Trang 25



×