Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TỔNG HỢP 5 BÀI “PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỊ TRONG TÁC PHẨM VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.53 KB, 16 trang )

VĂN MẪU LỚP 12: VỢ CHỒNG A PHỦ TÔ HOÀI
TỔNG HỢP 5 BÀI “PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỊ TRONG TÁC PHẨM
VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI”
BÀI MẪU SỐ 1:
Nhà văn Tô Hoài là một người có vốn hiểu biết khá phong phú và sâu rộng về những vùng
miền trên khắp Tổ Quốc nhưng có lẽ hiểu biết nhất vẫn là vùng đất Tây Bắc, không chỉ
khắc nghiệt về khí hậu thời tiết địa hình mà con người ở đây cũng phải chịu những đau
thương của xã hội hủ tục lạc hậu thời bấy giờ. Với văn phong hấp dẫn người đọc bởi lối trần
thuật hóm hỉnh sinh động với biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Tô Hoài đã mang đến
cho chúng ta một hình tượng nhân vật người phụ nữ Tây Bắc điển hình. Điển hình cho số
phận, cho nỗi khổ hạnh phúc lứa đôi và những giá trị hiện thực và nhân đạo qua hình tượng
nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ. Có thể nói tác phẩm này đã mang đến những
cảm xúc cho chúng ta khi thấu hiểu số phận người con gái tên Mị.
Mị xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện với một hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. bằng giọng kể
thoang thoảng hương vị của ca dao cổ tích nhân vật Mị hiện ra báo trước một câu chuyện
buồn sắp tới: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng
nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. đó chính là Mị nhưng tại
sao cô lại buồn đến thế. Vả lại khi người ta hỏi ra mới biết cô chính là con dâu của nhà
thống lý Pá Tra giàu lắm mà tại sao lại phải lầm lũi suốt ngày chỉ một công việc như vậy.
những công việc ấy lặp đi lặp lại hằng ngày và Mị lúc nào cũng trông tư thế như vậy. Mị
sống âm thầm lẽ loi lặng lẽ sống gắn vào với những vật vô tri vô giác. Như vậy có thể thấy
hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với những gì cô đang phải chịu tưởng rằng là con
dâu nhà thống lý một vùng thì là sung sướng nhưng không điều đó hoàn toàn trái ngược với
những gì chúng ta nghĩ. Và cuộc đời mà tác giả chuẩn bị kể ra đây sẽ chứng minh cho sự
trái ngược ấy. Đồng thời chính điều đó đã phần nào nói lên, dự báo trước số phận cuộc đời
của Mị không bằng phẳng đầy uất ức và bi kịch của cõi nhân sinh.
Mị một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp giỏi giang và hiếu thảo với cha mẹ nhưng dưới
chế độ xã hội cũ cơ hội hạnh phúc và thực tế đau khổ sẽ diễn ra với cô như thế nào?
Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp tài năng “Trai
đứng nhắn cả chân vách đầu buồng Mị”. những chàng trai cô gái Mông tài giỏi chỉ cần một
chiếc lá rừng là có thể thổi thành sáo nghe rất vui tai và Mị cũng có tài ấy. không những thế


Mị còn là một cô gái có lòng tự trọng có tình yêu và đã có người yêu, khi cha bị đe dọa rằng
thống lý muốn lấy Mị làm con dâu để gánh nợ cho món nợ từ đời bố mẹ. Bố Mị sót con
nhưng cũng xót nương ngô. Mị thì nói với bố rằng giờ Mị có thể cuốc bẫm trồng ngô nên
xin cha đừng gả Mị cho nhà thống lý. Mị có người yêu rồi, cô yêu cuộc sống tự do và yêu


đời không ham giàu sang phú quý. Thế nhưng những ngày tháng tươi đẹp ấy nhanh chóng
kết thúc vì Mị phải về làm dâu nhà thống lý Pa Tra. Một cô gái xinh đẹp, tài năng hiếu thảo
đến như vậy tưởng chừng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc nhưng ai ngờ hiện thực lại trái
ngược với những gì mà người ta hay đoán.
Trong một đêm tình mùa xuân Mị đã bị A Sử con trai của thống lý Pa Tra lừa gạt và bắt về
nhà. Trong cái đêm định mệnh ấy Mị đang ngồi đợi người yêu của mình đến nhưng A Sử đã
đến và giả vờ giống người yêu Mị, hắn thò ngón tay đeo nhẫn vào vách, Mị tưởng người
yêu bước ra thì một toán người chụp lấy cô và đưa cô về nhà. Bắt đầu từ đấy cuộc sống của
Mị sống trong những ngày tháng đau khổ nhất và cũng là bắt đầu của kiếp làm dâu gạt nợ.
Bề ngoài Mị là con dâu nhà thống lý nhưng thực chất Mị chỉ là thứ để gán nợ mà thôi. Cuộc
sống của Mị không bằng một con ở, nếu như con ở có thể được giải thoát khi đã trả hết nợ
thì kiếp dâu gạt nợ của Mị sẽ không bao giờ được giải thoát.
Kiếp làm dâu gạt nở có thể nói là những ngày tháng đau khổ tủi nhục nhất cuộc đời Mị. cô
bị tra tấn về thể xác lẫn tinh thần. Mị tê liệt lòng yêu đời yêu cuộc sống và tinh thần phản
kháng. Trước đó, cô có tìm đến lá ngón để giải thoát cho mình nhưng nghĩ về cha và những
lời cha nói, Mị lại đành phải ngậm ngùi vứt đám lá ngón trong tay quay trở về nhà thống lý.
Vả lại trong xã hội ngày xưa khi người con gái cúng trình ma nhà chồng thì cả môt đời đến
khi chết chi có thể ở nhà chồng mà thôi, đến khi nào rũ xương ở đó ngay cả khi chồng đã
chết đi. Và từ lần ấy Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa mặc dù cha đã qua đời. Ở lâu
trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là
con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. ” Thế nhưng con trâu con ngựa nhà
thống lý còn sướng hơn cả Mị bởi vì chúng làm nhưng cũng có lúc chúng được đứng gãi
chân nhai cỏ, còn Mị thì hết ngày này qua này qua ngày khác đều làm quần quật không biết
ngày tháng là gì “ Mị tủi thân nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị trở thành một công cụ

lao động đúng hơn là con dâu nhà thống lý, cuộc sống của mình quanh quẩn bằng những
công việc được sắp trước những công việc đó lặp đi lặp lại thành một vòng luẩn quẩn mà Mị
cứ quay mình trong đó không thể thoát ra được “lúc nào cũng nhớ lại những việc giống
nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa
năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài
một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa,
con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào
việc cả đêm cả ngày. ” Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với
thế giới bên ngoài, Mị bị trà đạp về thể xác và tinh thần trói buộc bởi thần quyên và cường
quyền “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở buồng Mị
nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. ”. Có thể nói những ngày
tháng ấy, Mị không được sống là chính mình, cô bị trói buộc và mất đi tinh thần phản
kháng.

Thế nhưng khi những đem tình mùa xuân trên rẻo cao đến thì sức sống tiềm tàng trong Mị
trỗi dậy mãnh liệt. điều đó khẳng định rằng cô gái trẻ Hơ Mông vẫn đã có sự phản kháng


trước thực tại của mình. Đêm tình mùa xuân đã đến những yếu tố ngoại cảnh đã tác động
đến Mị. Mùa xuân đến đất trời Hồng Ngài thay đổi đầy sức sống và xuân sắc. con người
Hồng Ngài cũng rủ nhau đi chơi trên khắp các sân, trẻ con, người lớn đặc biệt là trai gái, họ
rủ nhau chơi pao, chơi quay. Chính những yếu tố đã tác động đến tâm hồn Mị, Mị thấy tâm
hồn phới phới trở lại. Có tiếng sáo gọi bạn tình làm cho Mị bổi hổi bồi hồi:
“Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"
Mùa xuân trên Hồng Ngài như thế, mùa xuân trong nhà thống lý cũng rộn rã không kém,
mọi người ăn bữa cơm cúng trình ma sau đó uống rượu bên bếp lửa. Mị thi lẩm nhẩm theo
lời bài hát mà người đang thổi, rồi lén uống rượu, cô uống ực từng bát như đang cố uống

từng chén cay chén đắng của số phạn mình. Tiếp đó Mị bước vào phòng xắn một ít mỡ cho
đèn sang lên, hành động đó như thể hiện sự thắp sáng chính số phận của Mị, Mị đã bừng
tỉnh. Mị thấy lòng mình phơi phới trở lại Mị còn trẻ và Mị muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc và
với chiếc váy hoa, nhưng hành động đó đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột. Mị đứng
yên trong bóng tối hơi rượu vẫn thoảng làm cho cô tưởng mình không bị trói, tỏng đầu tiếng
sáo vẫn vẳng vẳng. Mị vùng bước đi nhưng không thể bước được, thằng A Sử cột cả tóc Mị
lên khiến Mị không nghiêng cũng không cúi được. Mị quay lại với thực tại phũ phàng và Mị
ước “ nếu lúc này có nắm là ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Dù bị vùi dập nhưng
chúng ta đã thấy được phần nào sức sống tiềm tàng và sư phản kháng của Mị trở lại. điều đó
dự báo cho một cuộc vùng dậy về sau.
Những đêm tình mùa xuân qua đi, Mị lại quay lại với cuộc sống như trước. lại kể lại chuyện
A Sử đi chơi gây gổ và bị một người tên A phủ đánh thương. Nhà thống lý bắt được A Phủ
và đánh đập anh tời bời, đánh xong lại hút thuộc phiện. sau đó chúng trói anh vào một cái
cột. Mị dù bị trói chân tay dã dời nhưng khi chồng về cô vẫn phải gượng sức dậy đi lấy
thuốc về cho chồng, thế nhưng ngay cả khi đau hắn cũng vãn tra tấn cô bằng những cái đạp
vào mặt. Mị lạnh và hằng ngày cô thường hơ lưng vào buổi đêm cho đỡ lạnh. Chứng kiến
cảnh A Phủ bị trói ban đầu Mị dửng dưng vì cảnh tượng ấy diễn ra thường xuyên. Nhưng
sau khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A phủ rơi lấp lánh rơi xuống hai hõm má đã sạm

đen lại. Mị nhớ đến cảnh Mị bị trói đêm đó, nước mắt nước mũi rơi xuống mà không tài nào
lau được. Mị thương mình rồi thương người, Mị quyết định cắt dây trói thả A phủ đi. Đó là
một quyết định nguy hiểm nhưng trong đầu Mị bây giờ không còn nghĩ được gì nữa. Mị
nghĩ mình đã cúng trình ma nhà nó thì sớm muộn gì mình cũng chết, còn người kia làm sai


mà phải chết. Mị cắt dây cho A phủ và cùng anh chạy khỏi Hồng Ngài. Điều đó đó thể hiện
tinh thần phản kháng và sức sống trong Mị. Cô vượt qua nỗi sợ hãi và vượt qua thán quyền
hủ tục để cùng A phủ đi đến một vùng đất mới. từ đó cuộc đời tươi sáng theo cách mạng đã
đến với Mị.
Như vậy có thể thấy Mị là một cô gái điển hình cho số phận những người phụ nữ Mông thời

bầy giờ. Họ có tài năng có nhan sắc nhưng lại bị chính những thần quyền hủ tục và cường
quyền bạo lực trà đạp về thể xác cũng như tinh thần. họ đã biết vùng dậy đi theo cách mạng
để chông slaij những thế lực kia. Qua đây ta cũng thấy được những nét văn hóa của người
Mông đó là thờ ma và có những phong tục đẹp như thổi sáo chơi quay.


BÀI MẪU SỐ 2:
Đặt vấn đề
Có lẽ Tô Hoài là nhà văn đã từng có sự gắn bó sâu sắc với đất và con người Tây Bắc, ông đã
từng phải thốt lên rằng: “đất và người Tây Bắc đã để thương để nhớ trong tôi nhiều quá”.
Chính bởi nỗi niềm đó, ông đã dành riêng một tập truyện viết về núi rừng Tây Bắc đó là tập
“truyện Tây Bắc”. Vợ chồng A phủ là một trong những câu chuyện được rút trong tập đó.
Có thể nói tình yêu thương Tây Bắc được Tô Hoài gửi trọn vẹn trong nhân vật Mị.
Phân tích
Trước khi về làm dâu
Mị được coi là một cô gái với khá nhiều đức tính tốt. Cô là một người con của núi rừng Tây
bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc
sống tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, từ khi sinh ra cô cô đã phải gánh trong mình những
món nợ, món nợ về cường quyền và món nợ về thân quyền đè nặng lên vai cô.
Có lẽ yêu tây bắc như nào thì Tô hoài gửi gắm tình yêu vào nhân vật Mị bất nhiều, ông đã
mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người đàn
bà. Mị xinh đẹp “ những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng
Mị”.Mị có tài thổi sáo khiến “ biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị …. Mị sống
trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu
và hạnh phúc. Cô cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và hiệu gỗ
vách hẹn hò
Bên cạnh vẻ đẹp tài năng trong con người Mị thì bản chất của một người lao động chân
chính vẫn không mất đi trong con người Mị. Cô vẫn là một cô gái của bản làng, của núi
rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ. Mặc dù
vậy cô vẫn luôn yêu đời và yêu tự do, không ham giàu sang phú quý, cô đã từng nói, từng

xin bố rằng “ bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”.
Tuy nhiên, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, cô không thể tự quyết định cuộc đời của
mình được. Mị đã phải bước chân về nhà Thống lý Pá tra ép sống kiếp dâu con mà như thân
phận nô tì để gạt nợ cho cha.
Mới về làm dâu
Đang là một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc và tươi sáng nơi
tương lai, Mị như chết đứng với số phận tại đây. Về nhà thống lý Pá tra làm dâu gạt nợ, Mị
âm thầm chịu đựng nỗi đau “ có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc”. Cô sẵn sàng
quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sống và tháng ngày sau này mình


sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống thật không đáng sống. Đã nhiều lần Mị có ý định
như vậy, cô vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về quy lạy bố để chết.
Nhưng bởi vì một chữ hiếu mà Mị không đành lòng nhìn bố mẹ mình chịu khổ cực. Mị đành
từ bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng hạnh phúc của cuộc đời
mình vậy. Mị đã coi việc làm dâu con trong nhà thống lý pá tra như làm kiếp trâu ngựa để
trả nợ cho cha mẹ năm xưa.
Khi làm dâu đã quen
Người ngoài không biết nhìn vào Mị nghĩ Mị được làm dâu trong nhà giàu có chắc cuộc
sống hạnh phúc và sung sướng lắm. Tuy nhiên thực tế, thân xác và tinh thần của Mị luôn bị
hành hạ. Thời gian và công việc đã làm tê liệt tinh thần của cô, hàng ngày vẫn là công việc
đó, bên cạnh chuồng ngựa khiến tinh thần Mị bị tê liệt. Mị đã quen dần với cái khổ cực nơi
đây.
Mấy năm sau bố Mị mất, giờ thì cô không còn nghĩ đến cái chết nữa “ở lâu trong cái khổ Mị
cũng quen rồi”.


Sức sống của Mị trỗi dậy: khi mùa xuân trời đất đến




Diễn biến tâm lý, hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân

=>> Khát vọng sống , niềm khao khát hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân
vật. Nó giống như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một
làn gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt . Những tác động ngoại
cảnh là không nhỏ nhưng sức mạnh tiềm tàng mới là điều quyết định sức sống của Mị.

Cứu a phủ và cùng nhau chạy trốn: thương tình cho số phận của một người nghèo
khổ cũng như mình, Mị cùng cứu a phủ chạy trốn.


Diễn biến tâm trạng của Mị

+ Dửng dưng thổi lửa hơ tay không quan tâm đến A phủ
+ Dòng nước mắt của A Phủ vô tình mà đầy hữu ý đã làm hồi sinh trái tim đầy thương tích
của Mị.
+ Mị chạy theo Aphủ, hành động tự giải thoát khỏi sợi dây trói vô hình của thần quyền. Sự
trỗi dậy của sức sống tiềm tàng làn này đã giúp Mị đập tan sức mạnh của thần quyền và
cường quyền để tự giải.
Kết bài

Khác với hoàn cảnh trong đêm tình mùa xuân lần này Mị không chỉ có một mình đơn độc.
Cả A Phủ và Mị đều là những người giàu sức sống, khi sức sống tiềm tàng trong mỗi cá


nhân tỏa sáng và kết hợp với nhau sẽ tạo thành sức mạnh giải phóng cho người, khi sự đồng
cảm giữa những người cùng cảnh ngộ kết hợp với ý thức phản kháng đấu tranh tạo thành
sức mạnh đấu tranh giai cấp thì sức sống trong mỗi cá nhân sẽ được nhân lên bội phần tạo ra
những kết quả bất ngờ mà tất yếu. Mấy câu cuối đoạn văn A Phủ nói: “Đi với tôi ! và hai

người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” như chấp chới như cánh chim bay mở
đầu, như hối hả những dòng chảy tung phá, đời người đàn bà ở nợ cất mình khỏi nấm mồ
tăm tối, đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui.


BÀI MẪU SỐ 3:
Đọc “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ta không thể quên được hoàn cảnh cuộc đời của chị Dậucuộc đời của kẻ khốn khó cùng quẫn trong những ngày tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền
nộp sưu cho chồng( thuế thân) và người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị
Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, nhưng người phụ nữ bất hạnh ấy còn có một gia đình đầy
yêu thương… cho đến khi đọc truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài ta mới
nhận thấy rõ hơn, sâu sắc hơn nỗi khổ của người miền núi nói chung và điển hình là nhân
vật Mị. Một cô gái xinh đẹp hiếu thảo nhưng lại là nạn nhân của chế độ phong kiến bất cong
tàn ác. Xã hội ấy đã biến Mị trở thành một con người câm nặng, vô cảm, lầm lũi, nhưng
cuối cùng con người ấy không chịu số phận tự vùng lên cứu người và giải thoát chính bản
thân mình.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô giá Mèo xinh đẹp, thổi sáo hay và
có nhiều chàng trai mê, cô chăm chỉ hiếu thảo với cha già, trong cô luôn luôn khát vọng về
một cuộc sống tự do. Nhưng món nợ truyền kiếp do bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền vay
thống lí Pá Tra năm nào cũng phải trả lãi một nương ngô, đó là sợi dây oan nghiệt đối với
Mị. Hạnh phúc không đến với Mị thời con gái, Mị đã bị A sử con trai thống lí Pá Tra bắt
cóc đem về cúng trình ma Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Mị làm dâu nhưng
thực chất là nô lệ, vùi dập, chà đạp tước đi mọi quyền sống của con người, từ đây Mị sống
kiếp sống của con vật. Ở đoạn đầu của tác phẩm hình ảnh Mị “ một cô gái ngồi quay sợi gai
bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ả cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách
miêu tả này của Tô Hoài đã cho người đọc thấy được các trơ lì, vô cảm của Mị giống như
kiếp con ngựa. Hình ảnh ấy đối lập hoàn toàn với nhà thống lí quyền thế giàu có “có nhiều
nương nhiều ruộng nhiều thuốc phiện nhất làng”. Trong công việc Mị lúc nào cũng cúi mặt
xuống Mị nghĩ “ mình không bằng con trâu con ngựa”. Căn buồn Mị ở như chuồng nhốt thú
kín mít qua ô cửa sổ bằng bàn tay mình nhận ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương

hay nắng. Nó thể hiện sự tù túng âm u lạnh lẽo giống như địa ngục trần gian hãm thể xác và
tâm hồn của Mị. Mị không chỉ bị tước đoạt về sức lao động mà còn bị áp chế về cả tinh thần
“ nó đã bắt mình về trình mà nhà nó rồi thì chỉ còn đợi chết ở đây thôi”. Lúc mới làm dâu
nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc, tủi cực Mị tìm đến cái chết. Mị toan ăn lá ngón
tự tử. Nhưng Mị thương cha già “mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ.
Mày chết rồi thì ai làm nương ngô ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Không
được con ơi!” Mị ném nắm là ngón xuống đất. Mị quay trở lại với kiếp sông trâu ngựa
“sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Những chi tiết gây ám ảnh ngột ngạt bức bối về
một nhà tù rùng rợn về số phận, kiếp người, cuộc đời bị áp bức nơi địa ngục trần gian. Nhà
văn đã cất lên tiếng nói đòi nhân quyền của con người. Tố cáo tội ác của xã hội phong kiến
miền núi tàn ác vô nhân đạo đã làm tàn lụi niềm vui sống của con người. Nhưng điều đau
xót nhất với Mị là phải sống với người chồng mà mình không thương yêu lại còn bị đánh


đập hành hạ. Những đêm tình mùa xuân lại trở về trên núi cao, tiếng sáo tiếng khèn gọi bạn
tình Mị muốn đi và nhẩm theo lời bài hát, Mị uống rượu. Nhưng khát vọng của Mị chưa
được thực hiện thì bị A sử chặn đứng lại dùng một thúng sợi đay A sử trói đứng Mị suốt
đêm trong căn buồng u tối. Dây trói xiết chặt làm cho da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra từng
mảng, đau đớn xót xa Mị nghĩ “ kiếp mình không kiếp ngựa”.
Sau khi A Phủ đánh A sử bị thương, Mị được cởi trói để đi lấy lá thuốc cho chồng “Mị
cũng thức suốt đêm im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình,
thì những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp đi. Khi đó, A sử
bèn đạp chân vào mặt Mị. Mị choàng thức, lại nhặt nắm là thuốc xoa đều trên lưng chồng”.
Những đêm đông trên núi cao dài và buồn nếu như không có bếp lửa làm bạn thì Mị sẽ chết
tàn chết héo, mỗi đêm Mị trở dậy hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Có đêm A sử
chợt về thấy Mị ngồi đấy hắn liền đánh Mị ngã ngay xuống bếp lửa. Hành động của Asử
cho thấy hắn là một kẻ vũ phu, những quan niệm lạc hậu của xã hội phong kiến miền núi
vẫn còn tồn tại.
Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không để cho Mị sống mãi kiếp ngựa trâu mà còn phát
hiện ở Mị cái khả năng thay đổi cuộc đời. Khả năng ấy bắt nguồn từ quy luật “ có áp bức có

đấu tranh”. Đó là việc Mị cởi trói cứu A Phủ Với Mị là vậy còn với A Phủ những hành động
ấy còn tàn ác dã man hơn. Trước hết điều đó được thể hiện ở màn xử kiện phạt vạ. Mở màn
là hình ảnh đầy ám ảnh A Phủ bị trói, bị đánh đập một cách tàn nhẫn “ người thì đánh,
người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ chửi, lại hút”. Tất cả cứ như một
vòng tuần hoàn “ cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng
chửi, càng hút”. Hành động tàn ác ấy đã khiến “ mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giâp
chảy máu”. Tất cả đâu chỉ có vậy, sự tàn ác còn được thể hiện khi A Phủ làm mất con bò để
hổ ăn thịt, A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra trói đứng vào cột ở giữa núi rừng mùa đông
Hồng Ngài. Sương muối giá buốt lại bị bỏ đói. Chỉ là mất con bò thôi mà bọn chúng đã coi
mạng sống của con người như một con động vật rẻ mạt, không có giá trị
Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm”Tắt đèn” của Ngô Tất Tố,
chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong truyện ngắn “ Vợ chồng A
Phủ” này cả hai nhân vật đều chịu sự chi phối ràng buộc của thần quyền. Đó chính là
phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu
với thân phận đàn bà, lại đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị không còn cách nào khác
chỉ biết sống tiếp “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi” và từ đấy Mị sống trong danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là thân phận nô lệ.
Chính nỗi đau bất hạnh của Mị và A Phủ cùng với sự tàn nhẫn độc ác của cha con thống lí
Pá Tra đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối. Tình thương tiềm
ẩn trong Mị không chết, cũng như sức sống của Mị không thể bị tê liệt hoàn toàn. Trong
đêm đông rẻo cao ấy sức sống của Mị đã hồi sinh khi Mị bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ


“ một ngọn lửa sưởi vừa bùng lên Mị né mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở,
một dòng nước lấp lánh đang bò xuống hai hõm má xám đen lại”. Giọt nước mắt của người
đàn ông tràn đầy sức sống giàu can đảm nhưng ở đây đang ở thết tuyệt vọng và oan ứ đã có
tác động sâu sắc tới Mị. Giọt nước mắt ấy đã khiến Mị từ cõi quên đến cõi nhớ. Nhớ lại A
sử đã trói Mị không quên cảm giác uất hận đau đớn và từ đây trái tim Mị không cô đơn nữa.
Mị đã thấy được kẻ thù “ chúng nó thật độc ác” quá phẫn lộ “ cơ chừng này chỉ đêm mai
người kia sẽ chết,chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Cách ngắt nhịp ngắn và điệp từ “

chết” đã diễn tả những căm phẫn và xót thương đang ào ạt dâng lên trong lòng Mị. Bởi hơn
ai hết Mị hiểu thế nào là chết đau, chết đói, chết rét, trên cơ thể kia. Trỗi dậy trong lòng Mị
lúc này là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, tình thương đã đem lại chó Mị sức mạnh khiến
Mị từ người phụ nữ vô cảm, cam chịu nô lệ trở thành người phụ nữ can đảm mạnh mẽ. Mị
toan định cởi trói cho A Phủ, nhưng Mị nghĩ đến biết đâu A Phủ chạy trốn được Mị bị trói
thay vào đó và chết ở đó thì sao? Nhưng dù nghĩ như vậy nhưng Mị cũng không thấy sợ bởi
lòng can đảm và sức mạnh trong Mị đã trở lại. Nó đã dẫn đến hành động táo bạo rút dao cắt
đứt dây trói. Đây là hành động bất ngờ đến với cô nhưng lại là kết quả tất yếu của sức sống
tiềm tàng mãnh liệt trong Mị. Mị đã chạy băng trong đêm tối theo người đàn ông xa lạ với
khát vọng một tương lai tươi sáng hơn. Hành động quyết liệt và mạnh mẽ của Mị trong đêm
ấy không chỉ giải phóng cho A Phủ mà còn giải phóng cho chính bản thân mình. Cùng lúc
đó Mị đã phải vượt lên hai sức mạnh của cường quyền và thần quyền để có sức mạnh tự do
đi theo con đường cách mạng. Điều đó chứng tỏ rằng giai cấp thống trị có thể đày đọa người
lao động nhưng không thể dập tắt được khát vọng sống và khát vọng tự do của họ.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật rất độc đáo, các kể chuyện đi từ hiện tại đến quá khứ rồi lại
đến hiện tại, cách kể chuyện như vậy để cho thấy được số phận cực khổ luôn sống trong đày
đọa. Hơn thế chuyện còn sử dụng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc đặc
biệt trong đêm tình mùa xuân và trong đêm cứu A Phủ. Tô Hoài đã thành công khi sử dụng
hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ để coi đó là động lực cho Mị vùng dậy đấu tranh. Từ đó
đến bước ngoặt cuộc đời của hai nhân vật
Viết về cuộc đời và số phận của nhân vật Mị, nhà văn nhân danh quyền con người để nên
án, tố cáo tội ác của bọn thực dân và phong kiến đã áp bức đọa đày tước đoạt quyền sống,
quyền làm người của họ. Nhà văn không chỉ thương cảm sâu sắc với nỗi đau khổ con người
mà còn đồng tình với khát vọng giải phóng, đồng thời còn mở ra cho họ con đường tươi
sáng. Từ đó thấy được chiều sâu nhân đạo của nhà văn.


BÀI MẪU SỐ 4:
Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác
phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày.

Tác phẩm Vợ chồng A phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị sâu
sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng
có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, giám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho
mình.
Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho
người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung
ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. “Ai ở xa về,
có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng
đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi
hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” .
Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu
ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười
rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức
mạnh tiềm tàng .
Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một tâm
hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều người yêu và cô cũng
đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết.
Nhưng số phận may mắn không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải
chịu một cuộc đời bạc mệnh . Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu
sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con dâu nhưng cô đã
phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu
ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ,
đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .
Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau tinh thần không lối
thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông
bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là
sương hay là nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li
tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô . Tiếng nói tố cáo chế độ
phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên

án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những
con người vô cùng đáng sống .


Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố
sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ, như
một đồ vật không cảm xúc. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống
không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là
sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay
cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .
Cuộc sống của Mị cứ thể lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người
thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một
con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng
quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan.
Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên,
thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .
Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người
Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã
góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác
nhân quan trọng là hơi rượu . Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát ,
“uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi . Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về
nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng , người hát mà không nghe,
không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày
trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người,
vẫn có cái quyền sống của một con người : “Mị vẫn còn trẻ . Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu
người có chồng cũng đi chơi ngày Tết . Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau” .
Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ.
Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ . Mị đã thức
dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận . Cho nên trong thời khắc âý, ta mới

thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn . Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào
buồng , ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống
trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi .
Hòa mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần
được sưởi ấm, nó lướn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới
khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” .
Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du : quấn lại tóc , với thêm cái
váy hoa, rồi rút thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt
nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.


Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ,
đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi
dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du . Cái
cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay
chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng
vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau
nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo
chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí
của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước .
Sức sống le lói của mi đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói cho A
Phủ . Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va
chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã
đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người con vốn
sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng : bị trói
đứng . Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị
. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá
trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô . Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với
hiện thực trước mắt : “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi” . Câu văn như một minh
chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt :“Đêm ấy

A Phủ khóc . Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen” . Và giọt nước
mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước . Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi
nhớ . Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt
chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được . A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt
của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình .
Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã phải chịu
đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên
giới hạn thương mình : “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn
người kia việc gì mà phải chết ”. Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn
và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên
trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật , một
con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận .
Phải nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu sâu sắc về cuộc song của con người Tây Bắc, có sự
cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới có thể phát hiện ra cái
vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy


Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp bức,
bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy Tô Hoài đã
ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những con người nghèo
khổ ấy, đồng thời thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc Việt trong
những khó khăn gian khổ.


BÀI MẪU SỐ 5:
Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi
với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu
chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức,
bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh đối với
người đọc.

Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy
ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai
bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô
Hoài đã rất khéo ló khi gợi tả hình ảnh của Mỵ qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó.
Một sự đối lập đến đau long giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của
người con gái bí hiểm đó.
Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi
thường đang được nhen nhóm trong long của Mỵ.
Mỵ vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc
sống của Mỵ sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mỵ với nhà thống lý đã
khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho
than phận hẩm hiu của mình mà Mỵ đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống lý trong tủi nhục và
đau khổ.
Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mỵ tại nhà thống lý, một cuộc sống cơ cực,
không khác gì than trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mỵ lại bị dối xử không khác gì nô lệ,
thậm chí than trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đem
nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc
cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mỵ ngày càng rơi vào cảnh
bế tắc, tuyêt vọng.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng trạng thái lầm lũi, một kẻ
sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó của, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn
tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mỵ, khiến cho cuộc đời
một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chon vùi nơi đây.Thống lý Pá Tra là hiện than
của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không
thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp
nhận và chịu đựng.


Đã có lúc Mỵ muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản than mình nhưng nghĩ đến cảnh người

cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực.
Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mỵ dường như đã không còn. Mỵ
chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết.Bên trong Mỵ vẫn còn tiềm ẩn sức sống
rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.
Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người
đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực
trong cuộc sống. Mỵ đã lén uống rượu, trong cơn say, Mỵ đã ý thức được bản than mình
muốn gì “Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhieu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi.
Huống chi Mỵ và A Sư, không có long với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mỵ đã ý thức
được những khát khao trong long mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một
trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mỵ từng có.
Nhưng chính hành động này của Mỵ đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mỵ vào cột và
bỏ đó đi chơi. Mỵ vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dư dội.
Tuy nhiên thực tại đã kéo Mỵ lại với những gì mà Mỵ đang đối mặt: đau đớn và tủi nhục,
khắp mình mẩy đau nhức.
Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mỵ cởi trói cho A phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ
sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mỵ Mỵ đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi
hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ của đêm hôm ấy đã đánh thức tình
cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mỵ “Đêm hôm ấy Mỵ khóc, một dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mỵ
về sau.
Chi tiết Mỵ cởi trói cho A phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh
thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong long Mỵ đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mỵ đã có thể tự
lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mỵ tự đáu tranh, Mỵ không thể mãi chịu cảnh bị
người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của MỴ. Đây chính là sự
thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đăc biệt hình tượng
nhân vật MỴ để lại trong long người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất




×