Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích các mâu thuẫn xã hội trong từng thời kỳ của lịch sử của nhà nước la mã và phương thức giải quyết các mâu thuẫn đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.16 KB, 17 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM:
MÔN LUẬT LA MÃ
Đề bài 01:
Phân tích các mâu thuẫn xã hội trong từng thời kỳ của
lịch sử của nhà nước La Mã và phương thức giải
quyết các mâu thuẫn đó.

Lớp: N03
Nhóm:


0


HÀ NỘI

1


A/ Giới thiệu về nhà nước La Mã:
B/ Các Mâu thuẫn xã hội qua từng thời kỳ:

2
3

I. Thời kỳ Vương Chính (753 – 510 TCN).

3



II. Thời kỳ Cộng Hòa (510 TCN – 44 SCN).

5

III. Thời kỳ Đế Chế độc quyền (30 TCN – Thế kỷ VI):

8

C/ Kết luận:
TÀI LIỆU THAM KHẢO

10
11

MỤC LỤC

2


A. GIỚI THIỆU VỀ NHÀ NƯỚC LA MÃ:
La Mã cổ đại từng là một quốc gia rộng lớn tồn tại từ khoảng thế
kỷ thứ 1 TCN cho đến khoảng thế kỷ thứ 5 hay thế kỷ thứ 6 SCN,
gồm phần đất những nước vây quanh Địa Trung Hải ngày nay. Ban
đầu La Mã được thành lập từ 3 bộ lạc sinh sống bên dòng sông Tiber,
ở đây có một hòn đảo nhỏ có thể lội qua sông, vì vậy thành La Mã
nằm ở vị trí quyết định của giao thông buôn bán. Dù nhà nước La Mã
hình thành từ rất sớm nhưng hệ thống luật vô cùng công phu và chặt
chẽ. Ănggen đã nhận xét: “Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn
thiện nhất. Trong xã hội tư hữu thì không có một xã hội nào có luật

hoàn chỉnh hơn luật La Mã”. Bên cạnh đó người dân La Mã cũng có
nhận thức pháp luật rất cao, họ đã biết cách sử dụng luật pháp để bảo
vệ quyền lợi của mình. Có thể nói xã hội La Mã vô cùng tiến tiến
trong thời điểm bấy giờ.
Xuyên suốt khoảng thời gian tồn tại xã hội La Mã đã trải qua
nhiều mâu thuẫn, trong từng thời kì các mâu thuẫn luôn được các nhà
cầm quyền cố gắng dung hòa bằng nhiều biện pháp, cũng do vậy mà
xã hội La Mã đã trải qua nhiều hình thái nhà nước khác nhau qua
nhiều thời kỳ. Chính những mâu thuẫn, những cuộc cách mạng trong
xã hội La Mã đã gây ra nhiều biến động cho xã hội La Mã, dựa vào
đây ta có thể chia lịch sử phát triển của nhà nước La Mã thành ba giai
đoạn như sau: Thời Vương chính (753 – 510 TCN), Thời kỳ Cộng
Hòa (510 TCN – 44 SCN), Thời kỳ Đế Chế độc quyền (30 TCN – Thế
kỷ VI).

3


B. CÁC MÂU THUẪN XÃ HỘI
QUA TỪNG THỜI KỲ:
I. Thời kỳ Vương Chính (753 – 510 TCN):
Thời Vương chính (753 – 510 TCN), mở đầu bằng sự kiện
Romulus thành lập thành Roma ngày 21/4/753 TCN. Ở thời kỳ này, bộ
máy chính quyền có 3 cơ quan chính:
+ Đại hội nhân dân (Curie) là cơ quan quyền lực tối cao, thành
phần tham gia Đại hội chính là tất cả những người đàn ông của 300 thị
tộc. Đại hội có quyền quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến
vận mệnh của đế quốc La Mã như tuyên chiến, hòa bình, xét xử, tế lễ
và bầu cử Vua La Mã.
+ Viện nguyên lão (Senat) có thành phần là 300 thủ lĩnh đứng đầu

mỗi thị tộc, do mỗi thị tộc bầu ra. Viện nguyên lão có quyền quyết
định các vấn đề quan trọng của nhà nước. Ngoài ra trong một số
trường hợp nhất định Viện Nguyên Lão được thảo luận, phê chuẩn
hoặc phủ quyết các nghị quyết, quyết định của Đại hội nhân dân nên
cũng có ý kiến lại cho rằng Viện Nguyên Lão mới là cơ quan quyền
lực cao nhất.
+ Vua (Rex): Vua không được thế tập, mà được Đại hội nhân dân
bầu ra. Vua của người La Mã thời kì này chỉ được hiểu theo nghĩa là
thủ lĩnh về mặt quân sự, là người chỉ huy quân đội, tăng lữ và là quan
tòa ở La Mã cổ đại.
Nói đến thời kì Vương chính là thời kì đầu tiên của Nhà nước La
Mã thì mâu thuẫn xã hội nổi lên thời kì này chủ yếu là giữa người
4


ngoại lai và người gốc La Mã. Người ngoại lai là những người ngoại
tộc hay người La- ting đến sống ở La Mã. Người gốc La Mã là những
người sinh ra, lớn lên ở La Mã và có bố mẹ là người La Mã hoặc có
mẹ là người La Mã.
Như đã nêu ở trên La Mã nằm ở vị trí quan trọng của hoạt động
giao thông buôn bán, việc xuất hiện nhiều người ngoại lai từ nhiều
vùng đất khác nhau đến đây làm ăn là điều tất nhiên. Mỗi người ngoại
lai mang theo kiến thức, kinh nghiệm, vốn liếng,…, họ có thể là
thương nhân, thợ thủ công lành nghề, lái tàu dày dạn kinh nghiệm...
Với các điều kiện trên người ngoại lai đã góp phần phát triển đa dạng
các ngành nghề ở La Mã thậm chí có người còn cho rằng các hoạt
động sản xuất chủ chốt ở La Mã do bộ phận người ngoại lai thực hiện.
Ngoài ra theo tư tưởng của người La Mã cổ đại về việc chinh
chiến để mở rộng lãnh thổ, để đem về thêm của cải, chiến lợi phẩm
cho đế chế giàu có hùng mạnh của mình. Người La Mã lo sợ những

người ngoại lai này sẽ có ý đồ xâm lược lại chính La Mã cho nên
người gốc La Mã luôn coi bộ phận người ngoại lai là “kẻ thù tiềm
tàng”. Người ngoại lai phải nộp thuế và thực hiện nhiều nghĩa vụ khác
nhưng không có quyền hạn về chính trị - kinh tế và bị phân biệt đối xử
so với người dân La Mã chính gốc. Về sau, khi phát triển dần về thế
và lực, họ đã lớn mạnh và sinh ra mâu thuẫn với bọn quý tộc thị tộc
(Patrici). Do mâu thuẫn này mà người Plebs đấu tranh liên tục, đòi
quyền bình đẳng với công dân La Mã chính gốc.
Như vậy mặc dù người ngoại lai có vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế, xã hội nhưng họ lại bị người La Mã chính gốc miệt
5


thị, dè dặt, dề phòng trong giao tiếp. Điều này đã là cho bộ phận người
ngoại lai lên tiếng đấu tranh.
Đồng thời về phía nhà cầm quyền. Tullius đã tiến hành tổ chức
lại công xã La Mã theo nguyên tắc địa vị và tài sản (chia xã hội thành
6 đẳng cấp căn cứ trên tài sản gắn chặt với tổ chức quân đội), chứ
không căn cứ vào địa vị và huyết thống. Ba bộ lạc trước kia bị phá bỏ
và xáo trộn thay vào đó là 4 bộ lạc mới được xác lập. Đến sau năm
509 TCN, Vua Tarvinha kiêu ngạo bị trục xuất, từ đây này thay vì bầu
ra Vua (Rex), Viện Nguyên Lão bầu ra 2 vị quan chấp chính (Consul)
hai quan chức tối cao trong hệ thống quản lý nhà nước. Sự thay đổi cơ
cấu bộ máy nhà nước như vậy đã xoa dịu được xung đột giữa tầng lớp
bình dân và tầng lớp quý tộc La Mã. Thời kì Vướng Chính kết thúc, xã
hội La Mã tiếp tục bước đi dưới chế độ Cộng Hòa, tuy nhiên tương
ứng với cơ cấu bộ máy nhà nước mới thiết lập lại có tầng lớp bóc lột
cầm quyền mới ra đời.
II. Thời kỳ Cộng Hòa (510 TCN – 44 SCN):
Thời kỳ này gồm có 3 mâu thuẫn chính: Bình dân – Quý tộc, Chủ

nô – Nô lệ, và mâu thuẩn trong nội bộ giai cấp quý tộc.
Đầu thời kỳ Cộng hòa, dưới cải cách của Servius Tulius, xã hội
La Mã được chia thành 6 đẳng cấp trong đó: Đẳng cấp thứ nhất: gồm
những người có mức tài sản trên 100.000 đồng axơ (những người giàu
có nhất), được cung cấp 98/193 đại biểu Centurie vào Đại hội nhân
dân, tương đương với 98/193 số phiếu bầu trong Đại hội. Các đăng
cấp thứ 2, 3, 4, 5 được cung cấp số lượng đại biểu Centurie ít hơn,
tương ứng có ít phiếu bầu hơn trong Đại hội nhân dân. Đẳng cấp thứ 6
6


gồm những người đàn ông ít của cải nhất được miễn làm nghĩa vụ
quân sự và miễn đóng thuế. Đẳng cấp này được cung cấp 1 Centurie
tức là có 1 phiếu bầu trong Hội đồng nhân dân.
Do sự chênh lệch về tài sản và cách phân chia Centurie như vậy
dẫn đến những người giàu có chiếm được đa số phiếu trong Đại hội
nhân dân (Comitia Centuriata). Sự mất bình đẳng trong quá trình bầu
cử đã xảy ra, tính dân chủ lúc này chỉ là giả hiệu vì trong 6 đẳng cấp
được phân chia dựa theo số lượng Centurie, đẳng cấp thứ nhất đã
chiếm 98 trên tổng số 193 Centurie - tức là đã quá nửa. Còn đẳng cấp
thứ 6 với một lá phiếu duy nhất, họ gần như không có khả năng đóng
góp gì trong các quyết định của Đại hội. Bởi vậy, Đại hội nhân dân chỉ
nhằm tạo quyền lực cho tầng lớp quý tộc dựa trên tính chất của dân
chủ giả hiệu và những người giàu có trong xã hội dường như có quyền
quyết định mọi việc, Cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước nằm
trong tay họ, họ chính là luật pháp. Từ đây mâu thuẫn giữa người
bình dân (Pleb) và tầng lớp quý tộc (Patricia) nảy sinh và ngày càng
gay gắt.
Tầng lớp bình dân (Pleb) đã tự lập ra một “Nghị viện” của riêng
mình (Concilia plesbis tribute) và bí mật hoạt động. Phong trào đấu

tranh nổi lên, nhiều cuộc nội chiến đã nổ ra vào những năm 88, 83
TCN. Về sau dưới sức ép đấu tranh của họ, chính quyền La Mã đã
chấp nhận và quyết định tổ chức lại cơ cấu nhà nước gồm 3 cơ quan
đại hội tồn tại đồng thời: đại hộ của tầng lớp quý tộc, của tầng lớp
bình dân và đại hội chung.

7


Đến thế kỷ thứ V TCN, người ở tầng lớp bình dân đã có quyền kết
hôn với tầng lớp quý tộc La Mã. Đến năm 445 TCN, đạo luật Canules
cho phép bình dân được quyền tự do kết hôn với người ở tầng lớp quý
tộc; và năm 450TCN, luật 12 bảng ra đời đã quy định nhiều quyền lợi
hơn cho người ở tầng lớp bình dân. Đến năm 367 trước CN, 1 người
thuộc giới bình dân được bầu làm quan chấp chính. Bộ luật Lex
Licinia Sextia quy định ít nhất 1 trong 2 quan chấp chính phải là người
thuộc giới bình dân. Cuối cùng, chiến thắng quyết định về mặt quyền
lực vào năm 287 trước CN, năm mà các quyết định và luật pháp của
chính phủ bình dân được áp dụng cho toàn bộ cộng đồng La Mã, bao
gồm cả giới quý tộc.
Mâu thuẫn giữa Chủ nô - Nô lệ:
Ở thời kỳ trước nô lệ chủ yếu là những người lính, những chiến
binh của vùng lãnh thổ mà người La Mã chiếm được. Với tư tưởng
chinh phục những vùng đất mới để làm giàu cho đất nước của mình,
trong mắt người La Mã, những người nô lệ này từng là những chiến
binh chiến đấu dũng cảm., người La Mã cũng có sự tôn trọng nhất
định với những chiến binh dù cho đó là những chiến binh ở bên kia
chiến tuyến. Do vậy những người nô lệ ở thời kỳ trước vẫn có được sự
tôn trọng nhất định từ chủ nô.
Nhưng tới giai đoạn này: nền kinh tế, công thương nghiệp La Mã

ngày một phát triển, đòi hỏi số lượng lớn lao động, cùng với sự thay
đổi của quy định pháp luật; nô lệ có thể dược cung cấp từ hai nguồn
nữa đó là những tội phạm bị giáng xuống làm nô lệ và những nô lệ da

8


màu được đưa tới từ các châu lục khác để buôn bán. Nười La Mã nhận
ra rằng:
- Những nô lệ này có màu da khác biệt với người La Mã.
- Nhận thức, ý thức về pháp luật, xã hội của những nô lệ này quá
thấp so với người La Mã.
Từ đây người La Mã trở nên khinh thường nô lệ, thậm chí coi nô
lệ không phải là con người mà chỉ là tài sản biết nói. Tình trạng tập
trung đông đảo nô lệ và việc bóc lột thậm tệ sức lao động nô lệ đã làm
cho mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ ngày càng trở nên quyết liệt, gay
gắt. Từ thế kỉ II đến thế kỉ I TCN đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh, khởi
nghĩa của nô lệ, từ hình thức giản đơn, tự phát phá hoại công cụ sản
xuất, phá hoại mùa màng đến những cuộc khởi nghĩa vũ trang trên
bình diện rộng với quy mô lớn đã làm lao đao giới thống trị La Mã.
Những cuộc nổi dậy của nô lệ mang tính chất tự phát, không có tổ
chức chặt chẽ nên không đem lại hiệu quả, tuy nhiên cũng đã có giúp
ích cho phong trào đấu tranh của tầng lớp bình dân chống lại tầng lớp
quý tộc bóc lột.
Ngoài mâu thuẫn giai cấp có biểu hiện rõ ràng như trên, trong
nội bộ giai cấp quý tộc chủ nô còn xảy ra một mâu thuẫn ngay từ
buổi đầu của nền Cộng hòa:
- Quý tộc chủ nô ruộng đất mà trụ cột là Viện Nguyên lão hiện
vẫn đang nắm trong tay rất nhiều ruộng đất. Để bảo vệ quyền lợi đối
với ruộng đất hiện tại quý tộc chủ nô cố tình bảo thủ, chủ trương phản

đối chính sách cải cách ruộng đất.

9


- Tầng lớp quý tộc chủ nô công thương kỵ sĩ lại có quyền lợi
tương đồng với tầng lớp bình dân, do vậy đã lấy Đại hội nhân dân làm
chỗ dựa, chủ trương hạn chế quyền lợi của Viện Nguyên lão, mở rộng
quyền công dân, giải quyết phần nào vấn đề ruộng đất cho người bình
dân.
Giới bình dân đã vô cùng chán ghét Viện Nguyên Lão nhưng
không đủ sức tự nổi dậy. Quân đội chuyên nghiệp chỉ trung thành với
vị tướng của mình hơn là với chính quyền. Các điều kiện đã sẵn sàng
cho sự kết thúc của nền cộng hòa. Julius Caesar – thuộc phe quý tộc
chủ nô công thương - là người tận dụng được những yếu tố kể trên.
Ông chiếm được nhiều đất đai ở nước ngoài, có được lòng trung thành
tuyệt đối của binh lính. Sau đó ông hành quân về chiếm thành Rome,
ép buộc Viện Nguyên Lão tăng số đại biểu lên 900 người để cho giới
bình dân tham gia. Vậy là phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sĩ do
Caesar dẫn đầu chiến thắng, Caesar được quân đội và dân chúng tôn
thờ, nhân đó ông thu gom hết quyền hành về trong tay mình và thiết
lập nên chế nền độc tài.
Tuy nhiên, ông đã chiếm lấy quá nhiều quyền lực một cách quá
nhanh. sau đó Caesar bị ám sát trong một âm mưu được tổ chức bởi
phe quý tộc chủ nô ruộng đất vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN nhưng
người cháu của ông là Octavian hoàn thành sự nghiệp của ông, trở
thành Hoàng đế đầu tiên của La Mã. mở đầu cho thời kì Đế chế độc
quyền. Ba mâu thuẩn chính trong xã hội La Mã vẫn âm ỷ tồn tại.
III. Thời kỳ Đế Chế độc quyền (30 TCN – Thế kỷ VI):


10


Cái chết đột ngột của Caesar này đã tạo ra bước ngoặt lớn cho lịch
sử La Mã, Octavianus trở thành kẻ thống trị duy nhất ở đế quốc rộng
lớn này. Octavianus đã nắm trong tay những quyền hạn của ông hoàng
thực thụ, ông được Viện nguyên lão suy tôn là “quốc phụ”.
Octavianus thực sự là người có uy quyền lớn nhất cả về quân sự, dân
sự và cả tôn giáo. Tuy vậy, Octavianus cũng không dám coi thường
truyền thống dân chủ đã hình thành nhiều thế kỉ từ thời cộng hòa, ông
không dám tự xưng là hoàng đế, chỉ dám coi mình là người số một
trong danh sách công dân – Princeps.
La Mã tuy vẫn khoác cái áo ngoài của chế độ cộng hòa nhưng
thực chất đã chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế, Viện nguyên
lão vẫn tồn tại nhưng không còn giữ được vai trò của một tổ chức nhà
nước của nền cộng hòa như trước, mà đã trở thành công cụ của chính
quyền quân chủ chủ nô. Bởi thế, chế độ chính trị thời này được gọi là
chế độ nguyên thủ (Principalis). Chính thể quân chủ chuyên chế chủ
nô vừa là sản phẩm của thời kỳ suy vong và sụp đổ của chế độ chiếm
hữu nô lệ, vừa là công cụ thống trị của giai cấp chủ nô của đế quốc La
Mã.
Trong thời kì này, vẫn tiếp tục tồn tại các mâu thuẫn giống thời kì
Cộng Hòa, đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc với bình dân, giữa
chủ nô và nô lệ, mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp quý tộc.
Lúc bấy giờ, số lượng nô lệ ngày càng ít vì những cuộc chiến
tranh không diễn ra ồ ạt như giai đoạn trước; phương thức sản xuất
chiếm hữu nô lệ không thể làm cho kỹ thuật canh tác tiến bộ lên; công

11



cụ sản xuất vẫn thô kệch, nặng nề, nô lệ bất bình với chủ nô… Do vậy
chất lượng và khả năng lao động của nô lệ giảm sút nghiêm trọng
Chế độ nô lệ ở La Mã ngày càng khủng khoảng trầm trọng. Để
khắc phục tình trạng đó, giai cấp địa chủ chủ nô phải thay đổi cách
bóc lột: họ đem ruộng đất chia cho người lao động nông nghiệp để thu
địa tô. Việc đó dẫn tới sự ra đời của một tầng lớp xã hội mới gọi là lệ
nông - tiền thân của nông nô thời trung đại sau này. Lệ nông so với nô
lệ được chút ít tự do, có quyền công dân và có tinh thần tự nguyện sản
xuất hơn. Tuy nhiên khi chế độ lệ nông phổ biến thì địa vị của lệ nông
lại càng sút kém. Từ đây, trong xã hội LA Mã thời kì này lại xuất hiện
thêm mâu thuẫn mới đó là mâu thuẫn giữa chủ nô và lệ nông, giữa lệ
nông và nô lệ.
Phong trào đấu tranh của quần chúng lao động ngày càng mạnh
mẽ và rộng khắp, chính quyền trung ương ngày thêm rệu rã, không
còn đủ sức chi phối các thế lực cắt cứ ở địa phương. Các mâu thuẫn
giai cấp sâu sắc bên trong và những cuộc thất trận liên tiếp bên ngoài
đã dần dần làm cho nền kinh tế trong cả nước lâm vào tình trạng bế
tắc, nhà nước cũng không còn đủ khả năng thống trị một đế quốc rộng
lớn. Năm 395, hoàng đế Teododius đã chia La Mã thành hai phần:
đông La Mã và tây La Mã cho hai người con cai quản.
Vào thế kỉ thứ V, đế quốc La Mã “già cỗi” đang trên bờ vực suy
vong thì bị các bộ lạc người Giecmanh bên ngoài ồ ạt tràn vào. Những
người dân La Mã trước sự o ép, bóc lột của chính quyền; đã coi những
người Giecmanh này như đấng cứu thế, cứu họ khỏi sự bóc lột. Vì vậy
họ giúp đỡ các bộ tộc Giéc manh tiêu diệt đế quốc Tây La Mã. Năm
12


476, lãnh tụ quân sự của người Gecman là Odoacer đã phế truất vị

hoàng đế cuối cùng của Ðế quốc La mã Romulus, rồi tự xưng làm
vua. Sự kiện đã đánh dấu sự diệt vong của Tây bộ La Mã trong lịch
sử. Cho tới năm 1453, Đông La Mã bị Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục.

13


C. KẾT LUẬN:
Xuyên suốt khoảng thời gian tồn tại, nhà nước La Mã đã trải qua
nhiều mâu thuẫn xã hội và chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh của các
giai cấp, tầng lớp và trong nội bộ giai cấp thống trị. Các nhà cầm
quyền La Mã đã nhận ra những mâu thuẫn này, cố gắng dung hòa
chúng bằng nhiều biện pháp khác nhau: cải cách, ban hành pháp
luật… những biện pháp này đã kịp thời xoa dịu các mâu thuẫn. Vì vậy,
Nhà nước La Mã có khả năng liên tục cải cách để thích ứng, và tồn tại
khá lâu. Có thể thấy đấu tranh giai cấp trở thành phương thức, động
lực của sự phát triển trong xã hội.
Tuy nhiên, do giai cấp thống trị không bao giờ có thể từ bỏ quyền
lợi của mình, các mâu thuẫn không được giải quyết triệt để. Đó là
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự sụp đổ của các chế độ và cuối cùng là
sự diệt vong của nhà nước La Mã. Việc hiểu rõ về những mâu thuẫn
xã hội điển hình trong từng giai đoạn cụ thể là một phần quan trọng
trong việc nghiên cứu, đánh giá, học hỏi về pháp luật La Mã. Những
thành quả về nhà nước và pháp luật của thời kỳ La Mã vẫn còn được
nghiên cứu, học hỏi, vận dụng và phát triển đến tận ngày nay.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật La Mã, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2001.
2. Nguyễn Ngọc Đào, Luật La Mã, Nxb. Đồng Nai, 2000.
3. Bài viết: “Đế quốc La Mã”
Nguồn:.. />%E1%BB%91c_La_M%C3%A3
4. Bài thuyết trình: “ThMâu thuẫn xã hội trong từng thòi kỳ của
lịch sử nhà nước La Mã”
Nguồn:

/>
trong-tung-thoi-ky-cua-lich-su-nha-nuoc-la/

15


16



×