Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

việc làm và giải quyết vấn đề việc làm trong xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.69 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
B. NỘI DUNG...................................................................................................2
I. Khái quát chung về vấn đề việc làm............................................................2
1. Khái niệm và đặc điểm của việc làm...........................................................2
1.1. Dưới góc độ kinh tế - Xã hội.......................................................................2
1.2. Dưới góc độ pháp lí.....................................................................................3
2. Ý nghĩa của việc làm.....................................................................................4
2.1.Trên bình diện kinh tế - xã hội......................................................................4
2.2.Trên bình diện chính trị - Pháp lý..............................................................4
2.3.Trên bình diện quốc gia – quốc tế..............................................................4
II. Thực trạng của vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay.................................5
1. Thành tựu....................................................................................................... 5
2. Hạn chế ........................................................................................................7
III. Trách nhiệm và phương pháp giải quyết vấn đề việc làm của
Nhà nước......................................................................................................... 9
1. Trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề việc làm của Nhà nước.

.. 9

1.1. Chính phủ:..................................................................................................10
1.2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: ........................................................................11
2. Phương pháp giải quyết vấn đề việc làm của Nhà nước..........................11
C. KẾT LUẬN.................................................................................................16
D. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................17


A. MỞ ĐẦU
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối
với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là một trong những nhu cầu cơ bản của
con người để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện, là vấn đề cốt lõi và


xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã
hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Quyền lao động và
đảm bảo việc làm của người lao động đã được khẳng định trong Hiến pháp nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đã được cụ thể hoá trong Bộ luật Lao
động đầu tiên ở nước ta. Việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động là một
trong những ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế – Xã hội của
nước ta.
Hiểu được tầm quan trọng của việc làm và giải quyết vấn đề việc làm trong xã
hội hiện nay, nhóm 1 xin đi sâu vào tìm hiểu đề tài này. Rất mong nhận được sự
góp ý của Thầy và các bạn để bài tập của nhóm được hoàn thiện hơn. Nhóm 1 xin
chân thành cảm ơn.

1


B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về vấn đề việc làm.
1. Khái niệm và đặc điểm của việc làm.
Việc làm là vấn đề luôn được nhìn nhận dưới 2 góc độ là góc độ kinh tế - Xã
hội và góc độ luật pháp.
1.1. Dưới góc độ kinh tế - Xã hội
* Khái niệm:
Việc làm có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu
nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận, là hoạt động kiếm sống quan trọng nhất của
thế giới nói chung và con người nói riêng có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo
ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận.
* Đặc điểm:
Thứ nhất, việc là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu mưu sinh của
cá nhân. Người có việc làm là khái niệm dùng để chỉ những người hiện đang tham
gia các hoạt động nói trên. Tùy theo mức độ tham gia và thu nhập từ những hoạt

động đó mà có thể chia đối tượng này làm hai loại là: Người có việc làm đầy đủ và
người có việc làm không đầy đủ (hoặc người thiếu việc làm).
Thứ hai, việc làm là vấn đề của cộng đồng vì con người không sống đơn lẻ và
hoạt động lao động của mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các
hoạt động sản xuất của xã hội. Việc làm và thu nhập không phải là vấn đề mà lúc
nào mỗi cá nhân NLĐ cũng quyết định được. Vì vậy bên cạnh ý nghĩa là vấn đề cá
nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng, của xã hội. Điều này đòi hỏi phải có
những chính sách và biện pháp nhất định phù hợp từ phía Nhà nước nhằm tăng số
lượng việc làm và chất lượng việc làm, đảm bảo đời sống dân cư, kiềm chế nạn
thất nghiệp và thông qua đó mà giải quyết các vấn đề xã hội khác.
Thứ ba, việc làm còn được đánh giá trên các mặt như tính chất cá nhân hay
tập thể, tính chất kĩ thuật, tính chất kinh tế. Dựa trên các tiêu chí này mà người ta
chia việc làm thành các phạm trù nghề nghiệp - Xã hội khác nhau. Việc làm vừa có
tính chất cá nhân (mức độ thành thạo trong công việc của NLĐ) vừa có tính chất
xã hội của việc làm (tính tập thể). Tính xã hội của việc làm đòi hỏi việc làm phải
đáp ứng được các yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận. Điều này lí giải tại
2


sao trong xã hội có nhiều hoạt động lao động tạo ra thu nhập nhưng không được
coi là việc làm cả về phương diện xã hội và luật pháp.
1.2. Dưới góc độ pháp lí
* Khái niệm:
Theo quy định tại khoản 1 điều 9 Bộ luật Lao động năm 2012 thì việc làm
được hiểu là: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp
luật cấm”.
*Đặc điểm:
Như vậy, có thể khẳng định rằng dưới góc độ pháp lí, việc làm được cấu tạo
thành bởi 3 yếu tố: Là hoạt động lao động, tạo ra thu nhập, hoạt động đó phải hợp
pháp.

Thứ nhất, là hoạt động lao động: Đây là hoạt động thể hiện sự tác động của
sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Tuy nhiên, hoạt
động lao động chỉ là dấu hiệu của việc làm chứ không đồng nhất lao động với việc
làm. Mọi người đều có hoạt động lao động nhưng không có nghĩa đều có việc làm.
Yếu tố lao động trong việc làm khác với lao động thông thường ở chỗ nó phải có
tính hệ thống, tính thường xuyên và tính nghề nghiệp. Vì vậy, người có việc làm
thông thường phải là người thực hiện các hoạt động trong phạm vi nghề nhất định
và trong thời gian tương đối ổn định.
Thứ hai, tạo ra thu nhập: Thu nhập ở đây được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ
là khoản thu nhập trực tiếp mà còn bao hàm cả khả năng tạo ra thu nhập.
Thứ ba, hoạt động đó phải hợp pháp: Không phải mọi hoạt động lao động tạo
ra thu nhập đều được coi là việc làm. Hoạt động lao động tạo ra thu nhập nhưng
phải hợp pháp, phải được pháp luật thừa nhận hay không trái pháp luật mới được
coi là việc làm. Tùy theo điều kiện kinh tế - Xã hội, tập quán, quan niệm về đạo
đức của từng nước mà pháp luật có sự quy định khác nhau trong việc xác định tính
hợp pháp của các hoạt động lao động được coi là việc làm. Vì vậy, có thể ở quốc
gia này hoạt động lao động đó là hợp pháp nhưng nó lại không được thừa nhận ở
các quốc gia khác. Có thể nói dấu hiệu này đã thể hiện đặc trưng pháp lí của việc
làm. Đặc biệt, đối với nhà nước pháp quyền thì đây là một trong cá dấu hiệu không
thể thiếu trong khái niệm về việc làm.
3


2. Ý nghĩa của việc làm
2.1.Trên bình diện kinh tế - xã hội
Về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu quả của việc
giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả của sản xuất. Kinh tế phát
triển sẽ tạo điều kiện để giải quyết tốt vấn đề việc làm và ngược lại, nếu không giải
quyết tốt vấn đề việc làm và thất nghiệp thì đó sẽ là những yếu tố kìm hãm sự tăng
trưởng của kinh tế.

Về mặt xã hội, giải quyết việc làm có mục tiêu hướng vào toàn dụng lao
động, chống thật nghiệp và khắc phục tình trạng thiếu việc làm, bảo đảm thu nhập.
Bảo đảm việc làm là chính sách xã hội có hiệu quả to lớn trong vấn đề phòng
chống, hạn chế các tiêu cực xã hội, giữ vững được kỉ cương, nền nếp xã hội.
2.2.Trên bình diện chính trị - Pháp lý
Việc làm không đơn thuần là vấn đề kinh tế - Xã hội mà còn là vấn đề mang ý
nghĩa chính trị. Chính sách việc làm không phù hợp tất yếu sẽ không hiệu quả đối
với vấn đề lao động - việc làm nói riêng và các vấn đề xã hội nói chung. Hậu quả
là sự gia tăng nạn thất nghiệp và những hệ quả kéo theo nó.
Trên bình diện pháp lí, việc làm là phạm trù thuộc quyền cơ bản của con
người. Mọi người có sức lao động đều có quyền có việc làm, có quyền tiến hành
bất kì hoạt động nào tọa ra thu nhập cho bản thân và gia đình nếu hoạt động đó là
hợp pháp. Bên cạnh đó, vấn đề việc làm còn gắn liền với chế độ pháp lí lao động,
trong đó quan hệ việc làm được coi là quan hệ “Tiền quan hệ lao động”, đóng vai
trò là cơ sở hình thành, duy trì và là nội dung của quan hệ lao động.
2.3.Trên bình diện quốc gia – quốc tế
Đối với mỗi quốc gia, chính sách việc làm và giải quyết việc làm là bộ phận
có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống các chính sách xã hội nói riêng và trong
tổng thế chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Và trong xu thế hội nhập
hiện nay, vấn đề lao động không chỉ còn là cạnh tranh giữa những NLĐ mà nó còn
trở thành vấn đề giữa các quốc gia. Điển hình là việc đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài, đưa người lao động từ nước kém phát triển sang làm việc ở nước phát
triển, từ nước dư thừa lao động sang nước thiếu lao động. Thị trường lao động
4


không chỉ tồn tại trong đường biên giới lãnh thổ quốc gia mà không ngừng được
mở rộng sang các quốc gia khác và trên phạm vi quốc tế.
II. Thực trạng của vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay.
1. Thành tựu

Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta
đã từng bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của kinh
tế hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất, hệ thống chính sách được ban hành ngày càng đầy đủ và hoàn
thiện.
Các chính sách về việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ trong nhiều
lĩnh vực khác nhau như: Chính sách chung về việc làm (quyền và nghĩa vụ của
người lao động về việc làm, trách nhiệm của Nhà nước về việc làm,...); Chính sách
hỗ trợ để tạo và tự tạo việc làm cho người lao động (Chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm, dự án cho vay giải quyết việc làm...); Chính sách hỗ trợ đưa người
lao động đi làm việc ờ nước ngoài (cho vay tín dụng, bồi dưỡng kiến thức, nghề
nghiệp trước khi đi lao động ở nước ngoài,...).
Với hệ thống chính sách việc làm như vậy đã tạo điều kiện thúc đẩy đa dạng
hóa các hình thức kết nối cung cầu lao động thông qua các trung tâm dịch vụ việc
làm. Đến nay, đã có 150 trung tâm giới thiệu việc làm được thành lập, bình quân
mỗi năm tư vấn cho trên 603 nghìn lượt người tìm việc làm. Nhiều địa phương đã
tổ chức sàn giao dịch việc làm có hiệu quả. Việc phát triển thị trường lao động đã
tạo điều kiện cho người dân di chuyển từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm các cơ
hội việc làm tốt hơn.Ước tính mỗi năm có khoảng 200 nghìn lao động nông thôn di
cư tìm việc làm ở đô thị và các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
Thứ hai, thành tựu nổi bật của hệ thống chính sách việc làm là ngày càng tạo
nhiều việc làm cho xã hội.
Theo Báo cáo về tình hình lao động, việc làm quý II và 6 tháng đầu năm 2017
của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính
là 54,52 triệu người, tăng 162,2 nghìn người so với cùng kỳ năm 2016 và tăng 18,6
nghìn người so với quý I/2017. Sự gia tăng này chủ yếu do biến động tự nhiên của
5



dân số. Ở lực lượng này, lao động ở khu vực nông thôn chiếm 67,9% lao động của
nền kinh tế.
Lao động trong độ tuổi lao động quý II/2017 là 47,89 triệu người, tăng 405,3
nghìn người so với cùng kỳ năm 2016. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm
trong quý II/2017 ước tính đạt 53,4 triệu người, tăng 39,7 nghìn người so với quý
trước. Lao động có việc làm qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở lên ước tính
đạt 11,4 triệu, chiếm 21,3% số lao động có việc làm trong toàn quốc. Tỷ lệ lao
động có việc làm đã qua đào tạo của khu vực thành thị chiếm 37,6%, cao gấp gần 3
lần của khu vực nông thôn.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý II năm 2017 ước tính là
1,63%. Trong quý II, lao động ở khu vực nông thôn tập trung thu hoạch lúa, hoa
màu vụ đông xuân và gieo trồng vụ hè thu, do đó, tỷ lệ người thiếu việc làm ở khu
vực nông thôn giảm đáng kể.
Thu nhập bình quân tháng từ công việc chính của lao động làm công hưởng
lương trong quý II năm 2017 đạt 5,3 triệu đồng, giảm 316.000 đồng so với quý I và
tăng 372.000 đồng so với cùng kỳ 2016. Khu vực thành thị cao hơn 1,5 triệu đồng
so với khu vực nông thôn.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, số người thất nghiệp của quý II năm 2017 là
1,12 triệu người, giảm gần 21,1 nghìn người so với quý I. Tỷ lệ thất nghiệp chung
là 2,05%. Theo Tổng cục Thống kê, các giải pháp chỉ đạo của Chính phủ nhằm đạt
mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,7% năm 2017 cũng là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ
thất nghiệp giảm nhẹ. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên cả nước là 7,67% và đặc
biệt cao ở khu vực thành thị với mức 11,95%.
Số lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản ước
tính 6 tháng đầu năm 2017 là 21,6 triệu người, chiếm 40,4% lao động đang làm
việc của toàn bộ nền kinh tế; lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và xây
dựng là 13,7 triệu người, chiếm 25,6% và khu vực dịch vụ là 18,1 triệu người,
chiếm 34%.
Thứ ba, việc làm tăng góp phần giảm nghèo và công bằng xã hội.
Đến hết năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn khoảng 6,72%

(giảm 1,51%% so với cuối năm 2016). Trong đó, bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các
6


huyện nghèo giảm khoảng 5%; hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi
ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu
vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4%. Có 10/291 xã đặc biệt khó khăn
vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
Thứ bốn, chính sách cho vay để giải quyết việc làm ngày càng có hiệu quả rõ
rệt.
Hơn 13 năm cho vay, chương trình cho vay giải quyết việc làm (GQVL) từ
Quỹ quốc gia về việc làm đã thu hút và tạo việc làm cho hơn 3 triệu lao động, góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động từ 5,87% (năm 2003) xuống
2,31% vào cuối năm 2015.
Trong giai đoạn 2013 – 2015, cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm đã
góp phần tích cực giải quyết được trên 443 ngàn lao động có việc làm mới cho xã
hội, góp phần khôi phục các ngành nghề truyền thống, đã hỗ trợ vốn cho các cơ sở
sản xuất kinh doanh và hộ gia đình để mở rộng sản xuất, thu hút tạo việc làm cho
hàng triệu người lao động đặc biệt là lao động bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp, lao động nữ, lao động là người khuyết tật, góp phần làm giảm tỷ lệ
thất nghiệp, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động. Nợ quá hạn liên
tục giảm qua hàng năm, cụ thể đến 31/12/2015 nợ quá hạn là 62 tỷ đồng, chiếm tỷ
lệ 0,95%, giảm 65 tỷ đồng so với năm 2013. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm phản ánh chất
lượng tín dụng Quỹ quốc gia về việc làm không ngừng được nâng lên. Dự án kém
hiệu quả, không thu được nợ ngày càng giảm và nguồn vốn của Quỹ được bảo
toàn.
2. Hạn chế
Thứ nhất, hạn chế lớn nhất là chính sách việc làm hiện nay chủ yếu mới chú
trọng đến tạo việc làm theo chiều rộng, càng nhiều việc làm càng tốt mà chưa chú
trọng đến chất lượng việc làm. Vì vậy, chưa khuyến khích người lao động nâng cao

trình độ và tay nghề.
Theo báo cáo của các chuyên gia tại Hội thảo "Đổi mới công tác đào tạo
nhân lực cho các khu công nghiệp và khu chế xuất" diễn ra tại Thành phố Hồ Chí
Minh vừa qua do Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng Chương trình đổi mới đào tạo
7


nghề Việt Nam (GIZ) đồng tổ chức cho thấy,tính đến năm 2016, tỷ lệ lao động phổ
thông không có chuyên môn kỹ thuật trong toàn xã hội chiếm 81,6% tổng số lao
động, số liệu này khác nhiều so với báo cáo của cơ quan chức năng. Đây thực sự là
vấn đề rất đáng báo động về chất lượng nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu
cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Lực lượng lao động ở nước ta vẫn
trong tình trạng thiếu các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phát hiện và giải quyết
vấn đề; yếu kém về tin học, ngoại ngữ; thiếu hiểu biết về pháp luật; đạo đức nghề
nghiệp chưa cao; thiếu tinh thần và ý thức trách nhiệm trong công việc, tự do, tùy
tiện, chậm thích nghi với môi trường làm việc mới,… Năng lực đổi mới và sáng
tạo khoa học và công nghệ của lực lượng lao động có trình độ cao còn nhiều yếu
kém.
Đa số lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) trẻ, tuổi
đời từ 18 – 25; khoảng 80% người lao động trong KCN, KCX là lao động học hết
THCS, THPT không có chuyên môn kỹ thuật, nhiều doanh nghiệp có tới 60% đến
70% là lao động nữ. Điều này cho thấy số lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ quá
thấp; tỷ lệ nữ làm công nhân ở các KCN, KCX quá cao.
Thứ hai, còn những tồn tại, hạn chế như thông tin thị trường lao động bị chia
cắt, một số chỉ tiêu chưa thống nhất; Thiếu thông tin, báo cáo đánh giá tác động
trong lĩnh vực việc làm; chưa kết nối phần mềm quản lý bảo hiểm thất nghiệp với
cơ quan Bảo hiểm xã hội để giải quyết chế độ cho người lao động...
Thứ ba, công tác dự báo, đánh giá thông tin thị trường bao gồm cả dự báo
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, thị trường lao động còn yếu. Chưa kết nối cung cầu

giữa người lao động với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với thị trường, kết nối
giữa các lĩnh vực với nhau (gồm dạy nghề, việc làm, bồi dưỡng, thị trường lao
động, thanh kiểm tra) còn nhiều chuyện đáng bàn.
Như ở Khu công nghiệp Bắc Ninh, Sam Sung Thái Nguyên… các doanh
nghiệp FDI chỉ tuyển những lao động trẻ mới học xong cấp 3, đào tạo ngắn hạn
vào làm, họ trốn tránh bảo hiểm, chi phí đào tạo ngắn hạn, sau một thời gian họ lại
đào thải, khi đó người lao động không có tay nghề vững, đã quá tuổi, chuyển việc
khác rất khó, từ đó gây ra hệ lụy xã hội…
8


Thứ bốn, tình trạng thất nghiệp của thanh niên tiếp tục là thách thức đối với
nền kinh tế nước ta.
Bởi vì trên 2/3 số người thất nghiệp là thanh niên (chiếm 70,1%), 1/2 số
người thất nghiệp trong nhóm tuổi từ 15-24 tuổi (chiếm 55,3%). Tại thời điểm quý
IV/2016, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên 15-24 tuổi (chiếm 7,28%) cao hơn gấp
3,2 lần tỷ lệ thất nghiệp chung (2,31%). Mức độ thất nghiệp của thanh niên có xu
hướng tăng dần theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên
có trình độ cao đẳng khoảng 18,1%, đại học trở lên là 23%, trong khi tỷ lệ này của
nhóm thanh niên có trình độ sơ cấp và trung cấp thấp hơn (lần lượt 5,3% và
11,8%).
Thứ năm, hệ thống chính sách cho việc xây dựng các thiết chế văn hóa phục
vụ đời sống văn hóa tinh thần của công nhân lao động vẫn còn những khoảng trống
và rào cản lớn.
III. Trách nhiệm và phương pháp giải quyết vấn đề việc làm của Nhà
nước.
1. Trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề việc làm của Nhà nước.
Tại khoản 2 điều 9 Bộ luật lao động năm 2012: “Nhà nước, người sử dụng
lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi
người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”.

Trong cơ chế thị trường, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quyền tự do
lựa chọn việc làm của người lao động (NLĐ) và quyền tự do tuyển dụng lao động
của người sử dụng lao động (NSDLĐ). Nhà nước không và không thể trực tiếp sắp
xếp việc làm cho từng người lao động như trong thời kỳ bao cấp mà bằng các
chính sách vĩ mô, nhà nước chỉ tạo ra những cơ hội, những đảm bảo về mặt pháp lý
và thực tiễn để NLĐ tìm được việc làm. BLLĐ cũng chỉ sử dụng thuật ngữ “Chính
sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển việc làm” để xác định trách nhiệm giải quyết
việc làm của nhà nước.
Pháp luật lao động quy định trách nhiệm trực tiếp thuộc về Chính phủ và các
cơ quan hành chính Nhà nước, trách nhiệm trước hết thuộc về Quốc hội và hệ
thống các cơ quan quyền lực (Hội đồng nhân dân các cấp). Nội dung của việc giải
quyết việc làm cho người lao động bao gồm:
9


- Nhà nước định chỉ tiêu việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
5 năm và hằng năm. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính, cho vay vốn, giảm,
miễn thuế và các biện pháp khuyến kích để người có khả năng lao động tự giải
quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát
triển nhiều nghề mới nhằm tạo nhiều việc làm cho người lao động.
- Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng
lao động là người dân tộc thiểu số.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân
trong và ngoài nước, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư phát
triển kinh doanh nhằm tạo nhiều việc làm cho người lao động. Sử dụng nhiều nhân
công Việt Nam cũng là một trong những điều kiện giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp theo luật pháp hiện hành.
Nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết việc làm cho
người lao động được quy định như sau:
1.1 Chính phủ:

Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát triển kinh
tế xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình giải quyết việc
làm.
Chương trình việc làm bao gồm mục tiêu, chỉ tiêu tạo việc làm mới, các chính
sách, nguồn lực, hệ thống tổ chức và các biện pháp bảo đảm thực hiện chương
trình. Thủ tướng Chính phủ quyết định chương trình việc làm quốc gia do Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội đệ trình. Chính phủ quyết định Chỉ tiêu tạo việc
làm mới trong kế hoạch hằng năm và 5 năm do Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì cùng
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các ngành có liên quan xây dựng đệ
trình. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm hướng dẫn kiểm tra và
báo cáo chính phủ kết quả Chỉ tiêu thực hiện tạo việc làm mới (hằng năm và 5
năm) và Chương trình việc làm quốc gia .
Lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác (trợ
giúp của các nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân nước ngoài; của các đơn vị và cá
nhân trong nước hỗ trợ giải quyết việc làm) . Quỹ quốc gia về việc làm được sử
dụng vào các mục đích sau:
10


- Hỗ trợ các tổ chức dịch vụ việc làm.
- Hỗ trợ các đơn vị gặp khó khăn tạm thời để tránh cho người lao động không
bị mất việc làm.
- Hỗ trợ cho những đơn vị nhận người lao động bị mất việc làm theo đề nghị
của cơ quan lao động địa phương.
- Hỗ trợ quỹ việc làm cho người lao động bị tàn tật và dùng để cho vay với
lãi suất thấp để giải quyết việc làm cho một số đối tượng thuộc diện tệ nạn xã hội
( mại dâm, nghiện hút…)
Phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm : Nhà nước có chính sách triển
khai thành lập và kiểm tra giám sát hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm.
Hằng năm Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia

về vệc làm.
1.2 Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập chương trình và quỹ giải quyết việc làm của
địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và tổ chức thực hiện
quyết định đó, đồng thời có trách nhiệm báo cáo về Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ
Tài chính.
- Định hướng, hỗ trợ và kiểm tra chương trình việc làm của cấp huyện và cấp
xã.
- Lập quỹ giải quyết việc làm (từ các nguồn ngân sách địa phương, khoản hỗ
trợ từ quỹ quốc gia về giải quyết việc làm do trung ương chuyển xuống và các
nguồn khác) để giải quyết việc làm cho người lao động.
- Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra việc
thực hiện các chương trình việc làm, việc sử dụng quỹ giải quyết việc làm trong
phạm vi địa phương theo các quy định của pháp luật.
2. Phương pháp giải quyết vấn đề việc làm của Nhà nước.
Kinh nghiệm 30 năm đổi mới cho thấy, muốn tạo nhiều việc làm và khả năng
thu hút lao động lớn cần phải tăng cường đầu tư và mở rộng sản xuất cả chiều rộng
và chiều sâu các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ chế biến và dịch vụ
phục vụ đời sống dân sinh.
11


Mục tiêu của nước ta giai đoạn 2016- 2020 là: Bình quân mỗi năm tạo việc
làm mới cho 1,5 triệu lao động, trong đó từ Chương trình mục tiêu quốc gia về
Việc làm và dạy nghề và Chương trình việc làm công khoảng 250 nghìn lao động
(có 150 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo); chuyển đổi việc làm cho 800 nghìn
lao động nông nghiệp; mỗi năm đưa khoảng 100 nghìn lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng (có 35 -45 ngàn lao động thuộc hộ nghèo). Đến năm
2020, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm còn 30%, tỷ lệ thất nghiệp chung cả
nước duy trì dưới 3%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%.

Năm 2018, ngành LĐ-TBXH sẽ tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ như:
Giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 4%; Tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt 58-60%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giảm 1-1,3%;
giải quyết việc làm cho 1,6 triệu lao động; tỷ lệ tham gia BHXH trong lực lượng
lao động đạt 26,5-28%; giáo dục nghề nghiệp cho khoảng 2,2 triệu người; 99% hộ
gia đình chính sách, người có công có mức sống cao hoặc bằng mức sống bình
quân của dân cư nơi cư trú…
Để giải quyết vấn đề lao động – việc làm phải đi đôi với cơ cấu lại nguồn lực
lao động cả nước, phục vụ tốt yêu cầu từng bước tái cấu trúc lại nền kinh tế theo
mô hình năng suất cao, tăng trưởng nhanh và bền vững. Đồng thời, phải tiến hành
đồng bộ nhiều biện pháp cơ bản và hữu hiệu:
Thứ nhất, phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2017 và triển khai
nhiệm vụ năm 2018 của Cục Việc làm vừa diễn ra tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ
LĐTBXH Đào Ngọc Dung lưu ý Cục Việc làm cần chú trọng hơn nữa đến việc kết
nối giữa các địa phương có nhu cầu về nguồn lao động với các tỉnh có nguồn lao
động lớn; tăng cường các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm của các Trung tâm
dịch vụ việc làm. Đặc biệt vấn đề thất nghiệp trong sinh viên, thanh niên và người
lao động ở các doanh nghiệp, lực lượng thanh niên tuổi từ 17 - 24 tuổi còn rất cao
nên cần chú trọng giải quyết việc làm cho đối tượng này.
Cùng với đó, Bộ trưởng yêu cầu Cục Việc làm cần khẩn trương thực hiện 4
chức năng mà Bộ trưởng đã giao: Quản lý Nhà nước về việc làm, thị trường lao
động, bảo hiểm thất nghiệp, quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam. Lựa chọn
những khâu đột phá trong thời gian tới, gấp rút tháo gỡ những vướng mắc liên
12


quan để sớm giải quyết triệt để nhằm xây dựng một thể chế chính sách mới đáp
ứng nhu cầu thị trường lao động, việc làm.
Thứ hai, gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch tổng thể
về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững. Chủ động phát

triển có tổ chức các thị trường lao động có tiềm năng và hiệu quả kinh tế cao, nhất
là thị trường lao động chất lượng cao về kinh tế nông nghiêp, kinh tế biển, công
nghệ thông tin và xuất khẩu lao động .
Để nâng cao hiệu lực của chính sách việc làm cần có sự phối hợp đồng bộ các
cấp, ngành và địa phương có liên quan; tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực
hiện chính sách, phát hiện những hạn chế, những ách tắc để xử lý kịp thời, qua đó
để các chính sách đi vào cuộc sống có hiệu quả hơn.
Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm. Hoạt động của các trung tâm giới
thiệu việc làm cần chú trọng đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin
thị trường lao động. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới thiệu
việc làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động.
Thứ ba, chính sách việc làm cần được thực hiện trong đồng bộ và đồng thời,
thậm chí đi trước một bước với các chính sách kinh tế khác. Đặc biệt, công tác đào
tạo nghề cần bám sát nhu cầu thị trường và đi trước, đón đầu các quy hoạch phát
triển kinh tế- xã hội ở các địa phương, nhất là những địa bàn có tốc độ đô thị hóa
và tốc độ tái cấu trúc kinh tế-xã hội nhanh.
Sớm bổ sung các chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như kinh tế nông nghiệp sử dụng công
nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật,
cũng như khai thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về nước sau khi kết thúc
hợp đồng lao động ở nước ngoài. Mặt khác, cần tạo môi trường áp lực cao để
người lao động Việt Nam khắc phục ảnh hưởng của lao động trong nền sản xuất
nhỏ, tiểu nông, manh mún, được học tập và rèn luyện trong các trường dạy nghề
trọng điểm chất lượng cao, trường đại học đẳng cấp quốc tế, được quản lý theo
mục tiêu bảo đảm chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu của xã hội.
13


Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi phát

triển sản xuất, tạo việc làm, chính sách hỗ trợ học nghề, hỗ trợ người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ưu tiên cho người nghèo, người dân
tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn. Tiếp tục
thực hiện chiến lược, các chương trình, đề án về việc làm và dạy nghề, khẩn trương
nghiên cứu xây dựng chương trình việc làm cho người thất nghiệp, thiếu việc làm.
Để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế thực sự, tránh hình
thức và lãng phí xã hội trong quá trình triển khai các đề án đào tạo nghề, cần bảo
đảm đầu tư đủ mức theo yêu cầu dậy và học nghề, tránh tư tưởng bình quân chủ
nghĩa như kiểu “Phát chẩn”, cửu đói. Mặt khác, cần tăng cường công tác tuyên
truyền, linh hoạt và thiết thực về nội dung và phương thức đào tạo nghề, gắn với
thực tế đối tượng học nghề, cũng như gắn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi
địa phương, để các đối tượng lao động nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, nhất là
vùng núi không bị lúng túng trong việc xác định nghề học, sắp xếp thời gian học.
Hơn nữa, cần chú ý dạy nghề theo hướng tạo việc làm tại chỗ, trong đó có đáp ứng
nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc
toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn theo tinh thần “Ly nông bất ly hương”, để
người lao động sống ở nông thôn sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể
tăng khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo lập công việc, thu nhập ngay tại quê nhà,
không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi kinh tế lên các đô thị.
Thứ bốn, chính sách việc làm phải phát huy được các nguồn lực của xã hội
vào việc tạo việc làm và đảm bảo việc làm. Tăng cường huy động các nguồn vốn
của doanh nghiệp và các tổ chức cho đào tạo nâng cao trình độ người lao động.
Thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi (gồm những giải pháp ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về đào tạo nhân lực
chất lượng cao thuộc ngành nghề mũi nhọn) để khuyến khích mạnh mẽ các doanh
nghiệp đầu tư cho đào tạo với các hình thức khác nhau như đặt hàng với các cơ sở
đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào
tạo trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã
hội. Huy động các nguồn vốn của dân để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, tổ chức
các loại quỹ khuyến học, khuyến tài...

14


Thứ năm, tiếp tục mở rộng, phát triển thị trường lao động ngoài nước; hoàn
thiện chính sách tiền lương theo nguyên tắc thị trường gắn với tăng năng suất lao
động và hiệu quả sản xuất kinh doanh; thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu vùng
theo lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, bảo đảm mức sống tối thiểu của
người lao động, hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động.
Thứ sáu, thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2016-2020, tập trung nguồn lực, trước hết vào thực hiện ở
những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để giảm nghèo bền vững; tổng kết các mô
hình giảm nghèo, an sinh xã hội đã và đang thực hiện có hiệu quả ở địa phương để
có cơ sở hoàn thiện và nhân rộng ra các địa phương khác, huy động các nguồn lực
xã hội chung tay vì người nghèo.
Thứ bảy, tiến hành đồng bộ các giải pháp: phát triển thị trường lao động cạnh
tranh và chất lượng cao, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây
dựng chế độ tiền lương, chính sách chăm sóc sức khỏe cho người lao động một
cách hợp lý…
Trên đây là những giải pháp cơ bản cần được tiến hành đồng bộ và có hiệu
quả nhất với sự nỗ lực của toàn xã hội, của toàn hệ thống chính trị trong quá trình
thực hiện chính sách lao động, việc làm của nước ta trong những năm tới, đáp ứng
yêu cầu cơ cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để phát triển nền
kinh tế nước ta, hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.

15


C. KẾT LUẬN.
Việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề kinh tế - Xã hội lớn ở nước ta. Giải

quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc
biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trẻ, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước. Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc
làm ở nước ta đã từng bước được giải quyết theo quy luật khách quan của nền kinh
tế hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt
được nhiều thành tựu to lớn như: Các chính sách về việc làm đã được ban hành
tương đối đầy đủ trong nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo được ngày càng nhiều việc
làm cho người lao động, cơ hội việc làm tăng, giải tỏa sức ép cho người lao động
trong bối cảnh lực lượng tham gia lao động ngày càng tăng…tuy nhiên vẫn còn tồn
tại nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế: Tỉ lệ thất nghiệp tỉ
lệ thiếu việc làm cao, chính sách việc làm chủ yếu mới chú trọng đến tạo việc làm
theo chiều rộng, càng nhiều việc làm càng tốt mà chưa chú trọng đến chất lượng
việc làm, chính sách việc làm ban hành ở nhiều văn bản gây chồng chéo… Vì vậy
mà chúng ta cần phải đưa ra các giải pháp mang tính đồng bộ và hiệu quả nhất với
sự nổ lực của toàn xã hội, của toàn hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại và
sử dụng hợp lý nguồn lực lao động để phát triển kinh tế nước ta, hướng tới mục
tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

16


D. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình luật lao động Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội.
2.Giáo trình luật lao động Việt Nam, trường Đại học Vinh.
3.Bộ Luật Lao động năm 2012.
4.Một số bài viết và trang web khác:
- Ths. Nguyễn Thúy Hà, Trung tâm Nghiên cứu khoa học - Viện Nghiên cứu
lập pháp, Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp, ngày 07/06/2013.

- TS. Nguyễn Đắc Hưng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề, Ban
Tuyên giáo Trung ương, Thực trạng và một số giải pháp nâng cao nguồn nhân lực
hiện nay, Hà Nội, ngày 20/06/2016.
-

/>
theo-quy-dinh-cua-bo-luat-lao-dong/

17



×