Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện chương mỹ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.47 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐẮC HÙNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐẮC HÙNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS,TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài “Áp dụng hình phạt theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên
cứu trong Luận văn là của tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Đắc Hùng


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT ............................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của áp dụng hình phạt ........... 6
1.2. Nội dung của áp dụng hình phạt .............................................................. 15
1.3. Những yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt ........................................ 30
1.4. Các hình phạt thuộc thẩm quyền áp dụng của Tòa án nhân dân cấp
huyện ............................................................................................................... 36
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................. 39

2.1. Khái quát kết quả áp dụng hình phạt tại huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội ...................................................................................................... 39
2.2. Thực trạng quyết định hình phạt tại huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội ............................................................................................................. 42
2.3. Thực trạng miễn hình phạt tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội .......... 54
2.4. Thực trạng giảm hình phạt đã tuyên tại huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội ...................................................................................................... 55
2.5. Thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội ....................................................... 56
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG HÌNH PHẠT TẠI HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................ 61
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng hình phạt tại huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội ............................................................................................................. 61
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tại huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội ..................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADHP

:

Áp dụng hình phạt

BLHS

:


Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

TAND

:

Toà án nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng 2.1: Tình hình thụ lý và xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến 2017 ............... 40
Bảng 2.2: Tình hình xét xử vụ án hình sự và áp dụng hình phạt chính
của Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội từ năm
2013 đến 2017 ......................................................................................... 42
Bảng 2.3: Tình hình xét xử vụ án hình sự và áp dụng hình phạt bổ sung của
Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến
2017 ......................................................................................................... 47
Bảng 2.4: Tình hình áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm của Tòa
án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến
2017 ......................................................................................................... 49
Bảng 2.5: Tình hình áp dụng hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
của Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội từ năm
2013 đến 2017 ......................................................................................... 51
Bảng 2.6: Tình hình giảm hình phạt đã tuyên của Tòa án nhân dân
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến 2017 ............... 55
Bảng 2.7: Tình hình áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội của Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội từ
năm 2013 đến 2017 ................................................................................. 56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Việt Nam, TAND được
xác định là trung tâm, xét xử là trọng tâm của nền tư pháp; việc nâng cao chất
lượng hoạt động xét xử của TAND được coi là khâu đột phá của quá trình cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai
đoạn hiện nay.
Hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND là một giai đoạn trong
toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Khác với hoạt động xét xử các loại án khác

như án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, xét xử án hình sự của TAND là
một giai đoạn chuyển tiếp sau các giai đoạn điều tra, truy tố. Cũng trong giai
đoạn xét xử, hoạt động áp dụng hình phạt (ADHP) hướng vào quyết định những
chế tài hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu, trong trường hợp mà pháp
luật quy định miễn hình phạt cũng như giảm hình phạt đã tuyên đối với người
phạm tội nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mỗi
người dân trước nguy cơ bị xâm hại trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cũng
như từ chính các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần duy trì trật tự xã hội và tạo
môi trường ổn định, lành mạnh, thuận lợi cho cuộc sống của người dân, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
Trong bối cảnh tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội nói
chung và trên địa bàn huyện Chương Mỹ nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp,
tính chất, mức độ, phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và hậu quả của tội
phạm gây ra ngày càng nghiêm trọng hơn. TAND huyện Chương Mỹ trong
những năm qua đã không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động xét xử, trong đó
có hoạt động ADHP. Quá trình ADHP trong xét xử sơ thẩm của TAND huyện
Chương Mỹ đã đạt được nhiều kết quả đáng biểu dương, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững ANQG và trật tự an toàn xã hội ở địa phương; đảm bảo hình
phạt đã tuyên đúng người, đúng tội, công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

1


Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động ADHP vẫn còn bộc lộ một số hạn chế,
đó là: Hoạt động ADHP vẫn chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, điều này do
một số nguyên nhân chủ quan là từ chính bản thân người tiến hành tố tụng (chưa
đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, chưa có kĩ năng giải quyết vụ án…) hoặc
xuất phát từ những nguyên nhân khách quan đó là các quy định của pháp luật còn
chồng chéo hoặc không có tính khả thi trong trường hợp đặc biệt. Để hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng thực sự phát huy được hiệu quả đòi hỏi phải có

sự phối kết hợp của nhiều cơ quan, nhiều cấp, nhiều ngành để khắc phục những
thiếu sót và đề ra nhiệm vụ, phương hướng thực hiện trong tương lai.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của ADHP tại TAND, chú trọng phát huy
những thành tựu đã đạt được, quyết tâm khắc phục những tồn tại, góp phần nâng
cao chất lượng ADHP của TAND, xứng đáng với niềm tin của nhân dân, Đảng
và Nhà nước trong tiến trình cải cách tư pháp. Tôi chọn đề tài “Áp dụng hình
phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội” để làm luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta hiện nay, vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và ADHP trong
hoạt động giải quyết án hình sự nói riêng của TAND luôn luôn là đề tài thu hút
sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý và đã có những bài viết có giá trị.
Những bài viết đó góp phần làm sáng tỏ mối liên hệ giữa lý luận khoa học pháp
lý với thực tiễn, đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần quan trọng trong việc bảo
đảm ADHP của TAND. Thời gian qua có một số công trình nghiên cứu có liên
quan tới hoạt động giải quyết, xét xử của TAND đã được công bố như:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Thân: “Áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay”, năm 2004.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Chu Thị Trang Vân: “Hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam”,
năm 2009.

2


- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Đức Hiệp: “Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình”, năm 2004.
- Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Mạnh Toàn: “Áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự của TAND tỉnh Thái Nguyên”, năm 2008.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Văn Kiểm: “Áp dụng pháp luật trong

hoạt động xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Nam Định”, năm 2010.
- Tác giả Chu Thị Trang Vân với bài: “Vai trò sáng tạo của Tòa án trong
thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự”, Tạp chí Lập pháp, số 27, tháng 9/2007.
- Tác giả Đàm Cảnh Long với bài: “Bàn về tính pháp quyền trong pháp
luật hình sự ở nước ta hiện nay”, Tạp chí TAND, số 22, tháng 11/2010.
Những công trình và bài viết trên đã ít nhiều đề cập đến việc áp dụng pháp
luật trong xét xử nói chung và đề xuất những giải pháp khoa học nhằm bảo đảm
chất lượng ADHP trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay
vẫn chưa có một công trình nghiên cứu độc lập đề cập đến những đặc thù trong tổ
chức và hoạt động ADHP của TAND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận của ADHP; các hình
phạt thuộc thẩm quyền áp dụng của TAND cấp huyện; thực trạng ADHP tại
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp đảm bảo áp
dụng đúng hình phạt tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích những vấn đề lý luận về việc ADHP theo luật hình sự của
TAND cấp huyện, nhất là làm rõ những đặc trưng riêng của ADHP.
- Phân tích thực trạng ADHP tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
trong thời gian 05 năm (từ năm 2013 đến năm 2017); đánh giá những ưu điểm,
hạn chế yếu kém, tìm ra nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế trong hoạt động
ADHP của TAND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

3


- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo ADHP đúng theo luật hình
sự quy định tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, góp phần thực hiện có hiệu
quả công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp nước nhà trong

tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học về ADHP, các quy định của pháp
luật hình sự, thực tiễn ADHP tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội để
nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và
tố tụng hình sự. Các số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài được thu thập từ
thực tiễn ADHP tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội theo các nội dung quyết
định hình phạt, miễn hình phạt, giảm hình phạt đã tuyên, trong thời gian từ năm
2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật, các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo hoạt động
cải cách tư pháp, tư tưởng đổi mới về tổ chức, hoạt động của TAND thể hiện
trong Hiến pháp năm 2013.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử mác xít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, luận văn còn sử dụng một số phương pháp cụ thể: phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp so sánh;

4


phương pháp thống kê, phỏng vấn chuyên gia khi xử lý những nội dung cơ bản

của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về ADHP
theo luật hình sự, nâng cao nhận thức của những người trực tiếp làm công tác xét
xử của TAND, đồng thời làm phong phú thêm cơ sở khoa học về ADHP theo luật
hình sự trong xét xử các vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
6.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ lý luận của bản
thân để áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn công tác; là tài liệu tham khảo có giá
trị nhất định trong việc nghiên cứu và giảng dạy môn Luật Hình sự và Luật tố tụng
hình sự; tạo cơ sở cho việc thống nhất trong nhận thức về áp dụng pháp luật để
giải quyết các vụ án hình sự đạt hiệu quả, đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh
của pháp luật hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt
Chương 2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tại huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng tại
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT

1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của áp dụng hình phạt
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt
Tại Điều 30 BLHS năm 2015 khái niệm hình phạt đã được bổ sung đồng thời
nêu đầy đủ nội dung, bản chất của hình phạt: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do TAND quyết
định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.” [32, tr.9].
Những hình phạt do Nhà nước đặt ra và áp dụng phải tương xứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vốn được cân nhắc kết hợp
nhiều yếu tố như: Nhân thân người phạm tội, quan hệ xã hội bị xâm phạm, thiệt
hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho xã hội, ý thức chủ quan của người phạm tội
khác nhau và ngay trong cùng một loại hành vi phạm tội cũng có các loại hình
phạt khác nhau để áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. Hệ thống hình phạt được
ra đời là để đáp ứng yêu cầu của sự tương ứng giữa hành vi phạm tội với biện
pháp cưỡng chế. Đó là mối quan hệ giữa tội phạm với hình phạt. Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, tức là không có một chế
tài nào nghiêm khắc hơn hình phạt. Dù chỉ là hình phạt cảnh báo hay phạt tiền
với giá trị nhỏ cũng được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn các chế
tài khác như chế tài hành chính, dân sự hoặc kinh tế có mức phạt cao hơn, bởi vì
các chế tài khác không bị coi là có án tích và hậu quả pháp lý của án tích nặng nề
hơn các chế tài khác. Một hành vi bị coi là có tội và bị Tòa án ADHP kéo theo
nhiều hậu quả nặng nề khác cho người phạm tội. Chỉ có chế tài hình sự thì một
người mới bị bắt giam, bị tước quyền tự do, bị cải tạo trong trại giam, thậm chí
tước bỏ cả quyền sống nếu họ bị kết án tử hình.

6


Hình phạt phải được áp dụng đúng mục đích đã được quy định tại Điều 31
BLHS năm 2015: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương

mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại
khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.” [32, tr. 10].
Để tuyên bố một chủ thể có tội và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật nhất định phải thông qua hoạt động xét xử của TAND. Một
người, một pháp nhân bị coi là có tội chỉ khi người đó bị TAND xét xử bằng một
bản án đã có hiệu lực pháp luật. Việc trừng trị hành vi phạm tội như thế nào phải
thông qua hoạt động ADHP của TAND. Hoạt động xét xử của TAND phải tuân
thủ nghiêm ngặt các giai đoạn áp dụng pháp luật của Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ
thể như thụ lý hồ sơ; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; nghiên
cứu hồ sơ để chuẩn bị xét xử; quyết định đưa vụ án ra xét xử; giao các quyết định
của TAND; triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa tổ chức mở phiên tòa;
điều khiển việc xét hỏi, tranh luận; tiến hành nghị án và ra các quyết định, bản án
của TAND.
Khi tiến hành xét xử các vụ án hình sự, TAND phải ra một phán quyết đối
với hành vi phạm tội đã bị xét xử công khai tại phiên tòa. Căn cứ để TAND
quyết định ra hình phạt là quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015.
Quyết định hình phạt là việc TAND lựa chọn hình phạt buộc người bị kết
án phải chấp hành. TAND lựa chọn loại hình phạt nào, mức phạt bao nhiêu phải
tuân theo những quy định của BLHS. Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy
của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngay sau khi đã xác định tội danh đối với
hành vi phạm tội. Nếu định tội là tiền đề, là cơ cở cho việc quyết định hình phạt
thì quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử. Quyết định
hình phạt chính xác có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động xét xử của
TAND đồng thời đảm bảo việc trừng trị và giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Để
quyết định hình phạt chính xác, TAND phải tuân theo những nguyên tắc, những

7



căn cứ về quyết định hình phạt đã được quy định trong BLHS. Ngoài ra TAND
còn phải xem xét, cân nhắc đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của từng địa
phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các yếu tố
khác có liên quan đến việc quyết định hình phạt. Như vậy, quyết định hình phạt
là một hoạt động của ADHP trong quá trình xét xử các vụ án hình sự.
Ngoài nội dung quyết định hình phạt, ADHP còn bao gồm miễn hình phạt,
giảm mức hình phạt đã tuyên.
Miễn hình phạt là trường hợp người bị kết án được TAND quyết định cho
họ không phải chấp hành một phần hoặc toàn bộ hình phạt của bản án đã tuyên
khi họ có đủ các điều kiện do BLHS quy định.
Giảm mức hình phạt đã tuyên được hiểu là trường hợp người bị kết án
đang chấp hành hình phạt được TAND quyết định cho họ được chấp hành hình
phạt với mức ít hơn mức hình phạt của bản án đã tuyên.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm:
Áp dụng hình phạt là một hình thức thực hiện pháp luật thông qua Hội
đồng xét xử là những người được nhà nước trao quyền tuân thủ những quy định
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự để xem xét, đánh giá các tài liệu,
chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhằm xác định sự
thực khách quan về vụ án, trên cơ sở đó lựa chọn loại và mức hình phạt được quy
định trong điều luật cụ thể tại BLHS cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự để ban hành các bản án, quyết định tuyên bố một người, một pháp nhân
có tội và phải chịu hình phạt và trong những trường hợp mà pháp luật quy định,
quyết định miễn hình phạt hay giảm mức hình phạt đã tuyên cho người bị kết án.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng hình phạt
Áp dụng hình phạt trong xét xử các vụ án hình sự là một hoạt động áp
dụng pháp luật, có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ADHP là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do TAND
mà trực tiếp là HĐXX tiến hành.


8


Tính chất quyền lực Nhà nước trong ADHP của TAND trước hết được thể
hiện ở chỗ hình phạt do Nhà nước ban hành và thông qua cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền áp dụng đối với người phạm tội và có tính chất thực hiện bắt buộc
đối với họ. Chủ thể ADHP trong trường hợp này là TAND, cơ quan được thành
lập theo quy định của Hiến pháp, hoạt động mang tính đặc thù theo một trình tự
pháp lý chặt chẽ. TAND thực hiện quyền lực nhà nước thông qua việc tổ chức
các hoạt động giải quyết án hình sự. Chủ thể tiến hành tố tụng trong hoạt động
giải quyết án hình sự là Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký
Tòa án, Thẩm tra viên. BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong qua
trình xét xử vụ án hình sự [35]. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là những
người được nhân danh Nhà nước tiến hành hoạt động xét xử nói chung và hoạt
động ADHP nói riêng. Như vậy, ADHP của TAND là hoạt động nhân danh
quyền lực nhà nước, mà những người tiến hành hoạt động xét xử là hội đồng xét
xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Thứ hai, ADHP là quá trình cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hình sự
đối với hành vi phạm tội và người phạm tội.
Theo nguyên tắc của tố tụng hình sự thì việc xác định sự thật khách quan
của một vụ án thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có
TAND. Tính cụ thể của hoạt động ADHP thể hiện ở chỗ các địa chỉ để ADHP là
xác định, gồm cả sự việc, con người, tập thể, thời gian, không gian; các quyết
định ADHP được ban hành luôn mang tính cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã
hội xác định.
Khi nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị xét xử những người có thẩm quyền xét
xử cần xác định những hành vi phạm tội trên thực tế thực hiện ở giai đoạn nào
(chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành…),
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò của từng bị cáo

trong vụ án (nếu vụ án có đồng phạm)… xác định sự thật khách quan của vụ án

9


bao gồm các việc như xác định các giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm từ
khi bắt đầu cho tới khi kết thúc; xác định hành vi đó là hành động hay không
hành động; hành vi đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không; nếu đủ yếu tố
cấu thành tội phạm thì đó là tội gì, ai là người phạm tội; vụ án có đồng phạm hay
không có đồng phạm; ý thức chủ quan của tội phạm và xác định người thực hiện
tội phạm có lỗi hay không có lỗi; những dấu hiệu về mặt khách quan của tội
phạm có lỗi hay không có lỗi; những dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
như công cụ, phương tiện phạm tội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả của hành vi phạm tội; xác định khách thể
của tội phạm là những quan hệ xã hội nào.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HĐXX phải lựa chọn quy
phạm pháp luật nội dung và vi phạm pháp luật hình thức sao cho phù hợp để áp
dụng và xem xét việc bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố có đúng người, đúng tội hay
không, xem xét các vấn đề về nhân thân, hoàn cảnh xảy ra tội phạm, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Từ đó làm cơ sở cho những
người có thẩm quyền xét xử lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung, quy phạm
pháp luật hình thức để quyết định ADHP đối với bị cáo đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, công bằng và nghiêm minh.
Thứ ba, hoạt động ADHP được thực hiện chủ yếu tại phiên tòa thông qua việc
xem xét, đánh giá chứng cứ thu nhập được trong quá trình điều tra, truy tố xét xử một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để quyết định hình phạt đối với bị cáo; trong
trường hợp pháp luật quy định thì miễn hình phạt đối với họ; chỉ có giảm mức hình
phạt đã tuyên đối với bị cáo được thực hiện trong quá trình thi hành án. [42]
Theo quy định của pháp luật, hoạt động ADHP của TAND được tiến hành
tại phiên tòa thể hiện quyền uy của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, mà cơ

quan đại diện là TAND. Bởi lẽ, phiên tòa xét xử án hình sự không chỉ là nơi tôn
nghiêm của pháp luật mà còn là nơi xét xử công khai, quần chúng nhân dân, các
cơ quan Báo chí, Đài phát thanh truyền hình trực tiếp chứng kiến, ngoại trừ những

10


vụ án vì cần giữ gìn bí mật quốc gia, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc
yêu cầu chính đáng của người bị hại nên pháp luật cho phép TAND được xét xử
kín vẫn phải tuân thủ các trình tự, thủ tục theo quy định của BLHS như một phiên
tòa công khai.
Phiên tòa xét xử hình sự được diễn ra dưới sự điều khiển của HĐXX, mà
trực tiếp là chủ tọa phiên tòa. Tại đây, nguyên tắc tranh tụng được thực hiện một
cách rõ ràng và phải được đảm bảo. Những người tham gia phiên tòa còn phải
chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa, nếu vi phạm thì tùy theo mức độ sẽ
bị chủ tọa phiên tòa xử phạt hành chính theo quy định pháp luật. Các bị cáo được
quyền công khai trình bày ý kiến về việc mình bị truy tố là đúng hay sai; các luật
sư có quyền đưa ra chứng cứ và tham gia tranh luận bảo vệ quyền và nghĩa vụ
hợp pháp của thân chủ mình. Thông qua việc xét xử tại phiên tòa, các cơ quan
công luận đã tham gia việc giám sát trực tiếp đối với cơ quan tòa án trong việc
áp dụng pháp luật.[41]
Phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cũng chính là nơi TAND kiểm
tra công khai tính đúng đắn trong qua trình áp dụng pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng trước đó như Công an, Viện kiểm sát. Bằng việc kiểm tra công
khai các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, các tài liệu chứng cứ xuất trình tại
phiên tòa tại phần xét hỏi, tranh luận. Có như vậy thì việc ADHP của TAND
càng chính xác, khách quan.
Để một văn bản ADHP đạt hiệu quả, đúng pháp luật đòi hỏi ĐHXX phải
tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật. Từ các quy định của pháp luật
chúng ta thấy rằng, ADHP chính là áp dụng các quy định của BLHS, chủ yếu

được tiến hành trong giai đoạn xét xử.
Thứ tư, hoạt động ADHP là hoạt động được tiến hành theo một thủ tục tố
tụng chặt chẽ.
Người tiến hành tố tụng trong giải quyết án hình sự của TAND theo quy
định của BLTTHS gồm có Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm,

11


Thẩm tra viên và Thư ký TAND khi tham gia giải quyết vụ án hình sự. Đối với
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán là người được tuyển chọn bổ nhiệm theo
trình tự chặt chẽ với những tiêu chuẩn nghiêm ngặt để thực hiện nhiệm vụ
thường xuyên là giải quyết, xét xử các loại án theo thẩm quyền của TAND. Hội
thẩm là người được cử hoặc bầu để đại diện cho nhân dân tham gia xét xử cùng
Thẩm phán. Thư ký TAND có nhiệm vụ theo quy định của BLTTHS và theo sự
phân công của Chánh án…
Áp dụng hình phạt là khâu cuối của hoạt động xét xử của Tòa án. Hoạt
động xét xử theo quy định tại BLTTHS bao gồm giai đoạn chuẩn bị xét xử và
phiên tòa hình sự [42]. Nếu TAND vi phạm các thủ tục xét xử do pháp luật quy
định thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, văn bản áp dụng pháp
luật do TAND ban hành sẽ không được công nhận và sẽ bị TAND cấp trên hủy
bỏ, quá trình xét xử đều phải được dự tính trước những vấn đề có thể xảy ra như
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, chẳng hạn áp dụng các
quy phạm tố tụng hình sự để áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn;
quyết định đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án; quyết định triệu tập đến phiên tòa
những người tham gia tố tụng; quyết định phiên tòa xử công khai hay xử kín, xét
xử lưu động hay xét xử tại trụ sở của TAND; xem xét những người được TAND
triệu tập có mặt, vắng mặt tại phiên tòa để quyết định phiên tòa có thể tiếp tục
được tiến hành hay phải hoãn phiên tòa theo quyết định của pháp luật; quyết
định thay đổi những người tiến hành tố tụng; việc xét hỏi, tranh luận tại phiên

tòa, Nghị án và ban hành bản án, quyết định của TAND…
Trong quá trình ADHP, TAND phải tuân thủ triệt để các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật hình sự. Việc áp dụng đúng các quy định
của pháp luật giúp cho các quyền và nghĩa vụ của công dân được bảo đảm thực
hiện một cách nghiêm chỉnh; các bước tiến hành tố tụng được chính xác, khách
quan; các bản án, quyết định ADHP của TAND bảo đảm đúng pháp luật.[48]

12


1.1.3. Mục đích của áp dụng hình phạt
- Áp dụng hình phạt nhằm trừng trị người phạm tội.
Trừng trị người phạm tội là thuộc tính đồng thời cũng là mục đích trước
tiên của hình phạt. Trong Nhà nước ta, hình phạt thể hiện thái độ nghiêm khắc
của Nhà nước đối với người đã thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội. Khi
quyết định hình phạt, Toà án đã nhân danh Nhà nước mà tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội (tước tự do, tước tài sản thậm chí tước quyền
sống của người phạm tội hoặc hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú, tự do kinh
doanh...) Cũng cần thấy rằng, trong Nhà nước ta, hình phạt không hề có tính chất
trả thù, khủng bố. Hình phạt không nhằm làm người bị kết án đau đớn về thể
xác, không nhằm hạ thấp phẩm giá của họ. Thực ra, khi thực hiên tội phạm
người phạm tội ít nhiều đã tự đánh mất phẩm giá của mình và trong khi thi hành
hình phạt, chúng ta tạo điều kiện để họ lấy lại phẩm giá.
- Áp dụng hình phạt còn nhằm giáo dục người phạm tội trở thành người có
ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống
XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. [41]
Ngoài mục đích trừng trị, việc ADHP còn nhằm giáo dục người phạm tội
trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Mục đích giáo dục người
phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và

ngăn ngừa họ phạm tội mới là mục tiêu mà các cơ quan thi hành hình phạt phải
đạt được. Với bản chất của Nhà nước ta, chúng ta tin tưởng rằng trong mỗi con
người phạm tội vẫn còn một phần tốt nhất định, chứ không phải là người vô
dụng. Do đó, khi thi hành hình phạt, trong công tác giáo dục phạm nhân, chúng
ta khơi dậy phần tốt này trong họ, giúp họ vượt qua những thử thách để trở lại
cuộc sống bình thường của xã hội. Việc ADHP sẽ không đạt được mục đích giáo
dục người phạm tội nếu sau khi chấp hành xong hình phạt, người bị phạt không
có biểu hiện tiến bộ, tiếp tục có những hành vi nguy hiểm cho xã hội.

13


- Áp dụng hình phạt không những giáo dục người phạm tội mà còn nhằm
giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Trong xã hội còn có những người không vững vàng, gặp hoàn cảnh khách
quan thuận lợi dễ đi vào con đường phạm tội. Hình phạt nhắc nhở họ từ bỏ ý
định phạm tội, tôn trọng pháp luật.
Nội dung của mục đích này không nhằm vào người phạm tội mà còn
nhằm vào cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe phòng ngừa. Mọi người nhìn vào
hình phạt để có những xử sự đúng đắn, tôn trọng pháp luật, nếu không, họ cũng
có thể bị xử phạt như người phạm tội. Nhà nước đặt ra hình phạt để áp dụng đối
với người phạm tội, đồng thời nhắc nhở mọi người trong cộng đồng xã hội chớ
có phạm tội, nếu đã có ý định phạm tội thì phải dừng lại, nếu không dừng lại ắt
phải chịu hậu quả. Đặt ra mục đích này vừa có tính chất răn đe, vừa có tính chất
giáo dục để mọi người tránh xa nó.
1.1.4. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt
Ý nghĩa của ADHP được thể hiện:
- Thứ nhất: ADHP có ý nghĩa phòng ngừa tội phạm thông qua việc trừng trị
những người có hành vi phạm tội, qua đó bảo vệ và khôi phục các quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của Nhà nước và công dân, bảo vệ tài sản, danh dự, nhân

phẩm, tính mạng, sức khỏe của con người, giữ gìn trật tự trị an và an toàn xã hội, giữ
gìn kỷ cương phép nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Như vậy, ADHP
đúng có ý nghĩa bảo đảm công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm.
- Thứ hai: ADHP có ý nghĩa góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự thấy
rằng: các quy phạm pháp luật hình sự đều được kiểm nghiệm trong thực tiễn cuộc
sống về tính phù hợp hay chưa phù hợp trong đời sống xã hội; về tính đầy đủ, toàn
diện hay chưa đầy đủ, còn có những vướng mắc, bất cập nào trong quá trình ADHP;
phát hiện ra những quy phạm pháp luật hình sự còn chung chung, làm cho mỗi
người có một cách hiểu khác nhau dẫn đến tình trạng ADHP một cách tùy tiện, vi

14


phạm tính thống nhất của pháp luật và nguyên tắc pháp chế XHCN; ngược lại có
những hành vi phạm tội diễn ra có điểm khác với dự đoán của nhà làm luật, từ đó
chủ thể ADHP lúng túng; cũng có khi còn phát hiện ra những nghi phạm mới chưa
được các quy phạm pháp luật hiện có điều chỉnh, những quy phạm pháp luật đã lỗi
thời, không còn phù hợp với tồn tại xã hội cần được thay thế bằng quy phạm pháp
luật mới. Như vậy, có thể nói ADHP trong các vụ án hình sự chính là nơi kiểm
nghiệm các quy phạm pháp luật trong thực tiễn để phát hiện những lỗ hổng của
pháp luật và là nơi nảy sinh những tư duy pháp lý mới góp phần vào việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam.[49]
- Thứ ba: ADHP còn có ý nghĩa trong việc phổ biến và tuyên truyền giáo
dục pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử công khai,
các phiên tòa lưu động, các chủ thể ADHP đã phân tích, giải thích pháp luật, các
biện pháp trừng trị cũng như khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.
Đây chính là một trong những kênh chuyển tải kiến thức pháp luật đến với quần
chúng nhân dân đạt hiệu quả cao. Do đó, việc mở rộng các phiên tòa lưu động
đến tận nơi xảy ra vụ án và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là rất

cần thiết và góp phần quan trọng trong việc nâng cao sự hiểu biết về pháp luật và
ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân dân.
- Thứ tư: Hoạt động ADHP của TAND còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện nghiêm minh, thống nhất, mọi tổ chức và công dân đều
nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật
hình sự về hình phạt chính là cơ sở để bảo vệ pháp chế XHCN.
1.2. Nội dung của áp dụng hình phạt
1.2.1. Quyết định hình phạt đối với người phạm tội
1.2.1.1. Quyết định hình phạt chính đối với người phạm tội
Quyết định hình phạt chính đối với người phạm tội là việc Tòa án lựa
chọn loại và mức hình phạt đã được quy định đối với tội phạm (cấu thành tội

15


phạm) để áp dụng đối với người thực hiện tội phạm đó. Trong số hình phạt chính
đó, có thể là:
- Cảnh cáo (Điều 34 BLHS năm 2015) [32, tr. 10] là hình phạt được áp
dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.
Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước do TAND tuyên đối
với người bị kết án. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất, người bị kết án cảnh cáo
không bị mất đi quyền lợi thiết thân, tuy nhiên họ chịu sự tổn thất về tinh thần.
Người bị ADHP cảnh cáo đã phải chịu sự lên án của Nhà nước về hành vi phạm
tội của mình.
- Phạt tiền (Điều 35 BLHS năm 2015) [32, tr. 11] là hình phạt có tính chất
kinh tế, nhằm vào tài sản của người phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một
khoản tiền để sung quỹ nhà nước. Hình phạt tiền áp dụng với những tội ít nghiêm
trọng, được áp dụng là hình phạt chính khi có điều luật quy định. Ngoài ra phạt tiền

được áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.
- Cải tạo không giam giữ (Điều 36 BLHS năm 2015) [32, tr. 11] là hình
phạt được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, hoặc phạm tội
nghiêm trọng do BLHS quy định, xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã
hội mà giao họ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa
phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục.
- Trục xuất (Điều 37 BLHS năm 2015) [32, tr. 12] là buộc người nước
ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Trục
xuất được TAND áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng
trường hợp cụ thể.
Hiện nay, Nhà nước ta đang chủ trương mở rộng giao lưu và hợp tác quốc
tế, số lượng người nước ngoài vào Việt Nam làm ăn, du lịch, công tác, học tập
ngày càng nhiều và trong đó một số người đã phạm tội ở Việt Nam. Việc bổ
sung hình phạt này với tính chất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung

16


sẽ tạo điều kiện thuận lợi để xử lý người nước ngoài phạm tội một cách hợp lý
hơn. Hình phạt này chỉ áp dụng với người phạm tội là người nước ngoài mà bản
thân họ là mối đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của những người khác tại
Việt Nam.
- Tù có thời hạn (Điều 38 BLHS năm 2015) [32, tr. 12] là hình phạt tước
quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly khỏi cuộc sống xã hội trong
một thời gian nhất định. Người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam, phải
tuân theo mọi chế độ sinh hoạt, lao động cải tạo của trại. Tù có thời hạn có mức tối
thiểu là 3 tháng, tối đa là 20 năm. Với khả năng kết hợp tối đa giữa thuyết phục với
cưỡng chế, giữa trừng trị với giáo dục cải tạo và phòng ngừa tội phạm, tù có thời
hạn là loại hình phạt có tính chất phổ biến và thông dụng nhất trong pháp luật hình
sự Việt Nam. Tù có thời hạn được quy định đối với hầu hết các tội phạm cụ thể

trong BLHS.
- Tù chung thân (Điều 39 BLHS năm 2015) [32, tr. 12] là hình phạt tù
không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng
chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Theo nguyên tắc chung người bị kết án tù chung
thân phải ở trại giam cho đến khi chết, tuy vậy, nếu họ cải tạo tốt thì có thể được
giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Do tính chất nghiêm khắc của tù chung thân,
BLHS Việt Nam không cho phép ADHP này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tử hình (Điều 40 BLHS năm 2015) [32, tr. 12] là hình phạt đặc biệt chỉ áp
dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội
xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma
túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do BLHS quy định.
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, nó tước
bỏ quyền sống của người bị kết án. Khi ADHP tử hình đối với người phạm tội,
Nhà nước đã loại bỏ hoàn toàn sự tồn tại của họ trong xã hội vì lợi ích chung của
cộng đồng xã hội. Ngoài ra, tử hình còn có tác dụng răn đe mạnh mẽ đối với
những phần tử không vững vàng trong xã hội, ngăn ngừa họ bước vào con đường

17


phạm tội, động viên, khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
Đối với mỗi tội phạm, Tòa án chỉ được tuyên một loại hình phạt chính (nếu
đó là chế tài lựa chọn) với mức cụ thể hoặc mức cụ thể tương ứng của một loại
hình phạt trong chế tài tương đối dứt khoát đã được pháp luật hình sự quy định.
Một trong những nội dung mới quan trọng của BLHS năm 2015 là bổ
sung quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Từ Điều 74
đến Điều 88 BLHS năm 2015 quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại phạm tội.
Trong số các hình phạt chính áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm

tội có:
- Phạt tiền (Điều 77 BLHS năm 2015) [32, tr. 26] được áp dụng là hình
phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Mức
tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến
động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng.
- Đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78 BLHS năm 2015) [32, tr. 26] là
tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực
mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con
người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả
năng khắc phục trên thực tế.Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.
- Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (Điều 79 BLHS năm 2015) [32, tr. 26] là
chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực
mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây
thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục
hậu quả gây ra. Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm
thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động.

18


Đối với pháp nhân thương mại, khi quyết định hình phạt chính, Tòa án
cũng chỉ có thể quyết định một hình phạt chính trong chế tài đã quy định, với
mức được quy định.
1.2.1.2. Quyết định hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung, là hình phạt có tính chất hỗ trợ cho hình phạt chính,
hình phạt bổ sung không được áp dụng độc lập mà chỉ được áp dụng kèm theo
hình phạt chính. Nếu như đối với mỗi tội phạm chỉ được áp dụng một hình phạt
chính thì đối với hình phạt bổ sung có thể được áp dụng một hoặc nhiều chứ

không chỉ có một.
Trong số hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội có:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
(Điều 41 BLHS năm 2015) [32, tr. 12] được áp dụng khi xét thấy nếu để người
bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây
nguy hại cho xã hội. Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp
hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt
chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người
bị kết án được hưởng án treo.
Áp dụng hình phạt bổ sung này nhằm tăng cường hiệu quả của hình phạt
chính đã áp dụng đối với người bị kết án củng cố hiệu quả của hình phạt chính
đó bằng cách tước bỏ ở người bị kết án môi trường (cương vị công tác, lĩnh vực
hành nghề….) có thể tạo điều kiện để họ dễ dàng phạm tội.
- Cấm cư trú (Điều 42 BLHS năm 2015) [32, tr. 13] là buộc người bị kết
án phạt tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định.
Thời hạn cấm cư trú là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình
phạt tù.
Hình phạt cấm cư trú chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính là phạt
tù có thời hạn. Đối với các hình phạt chính khác, BLHS không cho phép áp dụng
kèm theo hình phạt bổ sung này.

19


×