Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.45 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀI NAM

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA
CON NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
•••

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM MINH TUYÊN


ANTT

An ninh trật tự

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự



CSĐT

Cảnh sát điều tra

CSHS

Cảnh sát hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

HSST

Hình sự sơ thẩm

PPHS

Phạm pháp hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

THTT

Tiến hành tố tụng

VKSND


Viện Kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê diện tích, dân cư các đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khoa học, kịp thời,
đúng pháp luật, đảm bảo quyền con người là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố
tụng hình sự ở Việt Nam. Quá trình này đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan khác
nhau được nhà nước trao quyền, thực hiện nhiều hoạt động khác nhau nhằm mục đích
cuối cùng là làm rõ bản chất của vụ án, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm. Một trong những hoạt động giữ vai trò quan trọng trong quá trình tố tụng đó là
hoạt động định tội danh của các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Kết quả hoạt động định tội danh đúng là căn cứ để tiến hành các hoạt động tố tụng
khác, đồng thời tránh tình trạng oan sai trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã xác định phương hướng cải cách tư pháp: “Hoàn thiện chính sách
pháp luật hình sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa...hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công
khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người ’’. Để thực hiện nhiệm vụ này,
một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải tăng cường hiệu quả các hoạt động của
cơ quan THTT, trong đó định tội danh là một hoạt động giữ vai trò hết sức quan trọng.
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, hoạt
động tội phạm trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng,
diễn biến ngày càng phức tạp, có xu hướng ngày càng tăng cả về quy mô,
tính chất và mức độ phạm tội, nhất là các tội phạm liên quan đến trật tự an
toàn xã hội, trong đó tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người xảy ra
phổ biến với nhiều phương thức, thủ đoạn mới, công cụ phương tiện mới,

gây khó khăn không nhỏ cho các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết
vụ án, đặc biệt là quá trình định tội danh với loại tội phạm này. Thực tiễn
quá trình áp dụng các quy định


của Bộ luật hình sự năm 1999 (sủa đổi, bổ sung năm 2009) về các tội xâm phạm sức
khỏe của con người cho thấy có nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử đối với loại tội này.
Mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã cố gắng khắc phục những khó
khăn, vướng mắc để áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm sức khỏe của con người trong quá trình định tội danh và quyết định hình
phạt, đảm bảo đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Song thực tiễn định tội danh các tội
phạm này vẫn để xảy ra sai sót, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh với loại tội phạm
này. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả quá trình điều tra, truy tố, xét xử nói chung và nâng
cao hiệu quả hoạt động định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh trở thành một yêu cầu cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: "Định tội danh các tội
xâm phạm sức khỏe của con người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu vấn đề lý luận chung về định tội
danh cũng như định tội danh với một số tội phạm cụ thể. Các công trình nghiên cứu
dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là
những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên
quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Sách
chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình phạt do GS. Võ Khánh Vinh chủ biên,
Nxb Lao động xã hội, 2010; Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam do TS. Lê Văn Đệ chủ biên, Nxb Công an nhân dân
2004[16]; bên cạnh đó, một số luận văn đã nghiên cứu hoạt động định tội danh trên một

địa bàn cụ thể, điển hình như: Luận văn thạc sĩ “Định tội danh đối với các tội xâm
phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau” của tác giả
Nguyễn Việt Sử [28]; Luận văn “Định tội danh tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự


Việt Nam từ thực tiễn Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” của tác giả Đỗ Tùng
Dương[11]; Luận văn “Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiên huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương” của tác giả Trịnh Quốc
Thịnh[38]; luận văn “Định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của người khác từ thực
tiên tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Nguyễn Thanh Hà[18]....
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo, các số chuyên đề.
Những công trình nghiên cứu này chủ yếu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành
pháp luật có uy tín như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí
Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu về lý luận định tội danh nói
chung cũng như hoạt động định tội danh với một số loại tội phạm cụ thể. Các bài viết
này thể hiện quan điểm đa chiều của các tác giả về vấn đề định tội danh. Tuy nhiên, quá
trình thu thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có một công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về định tội danh với các tội xâm phạm sức khỏe
của con người trong pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về định tội danh, cơ sở định tội danh
với các tội xâm phạm sức khỏe của con người; nghiên cứu thực trạng định tội danh của
các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Bắc Ninh, từ đó đưa ra một số giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động định tội danh trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung sau:
- Cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của
con người trong luật hình sự Việt Nam (Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009 và BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017).


- Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người trong luật
hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh các tội xâm
phạm sức khỏe của con người.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
+ Luận văn nghiên cứu vấn đề: những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
hình sự về các tội xâm phạm sức khỏe con người và thực tiễn định tội danh các tội
phạm này.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu định tội danh các tội xâm phạm sức
khỏe của con người từ thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh .
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm
sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2013 đến
2017.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng
Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng và Nhà
nước về chính sách hình sự, đấu tranh phòng ngừa với tội phạm xâm phạm sức khỏe
của con người.

5.2 Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực khoa học xã
hội như: phương pháp hệ thống, thống kê, lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh,
dự báo phù hợp với từng nội dung nghiên cứu trong luận văn, trên cơ sở đó rút ra được
những kết luận có tính lý luận và thực tiễn.


- Các phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, bình luận, quy nạp,
diễn dịch ...được sử dụng trong chương 1 của luận văn nhằm tập trung làm rõ lý luận
chung về định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người.
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, bình luận, quy nạp, diễn dịch,
suy luận logic, nghiên cứu bản án...được sử dụng trong chương 2 của luận văn nhằm
làm rõ thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh.
- Các phương pháp dự báo, phân tích, suy luận logic, quy nạp, diễn dịch...được
sử dụng trong chương 3 nhằm đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo định tội danh đúng
các tội xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận
và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ luật học về định tội danh một tội phạm cụ thể từ thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc
Ninh. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên chuyên
ngành Luật trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy, học tập.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con
người trong pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh


Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh các tội xâm phạm
sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH TỘI DANH CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của
con người
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Trong khoa học luật hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được
hiểu là một quá trình đa dạng, phức tạp được thực hiện ở nhiều giai đoạn với nhiều hoạt
động khác nhau. Trong đó, định tội danh là một trong những hoạt động cơ bản, một nội
dung quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự và là một trong những biện
pháp đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống. Định tội danh còn được coi là
tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật hình sự và
pháp luật tố tụng hình sự, như quyết định hình phạt, thi hành án.
Hiện nay, khi bàn về vấn đề định tội danh, vẫn còn có nhiều quan điểm khác
nhau:
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm: “Định tội danh là một quá trình nhận
thức lý luận có tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng

pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành trên cơ sở các
chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự
phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các
dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách
quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề
cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và
đúng pháp luật. [3, tr8].


Tiến sĩ Lê Văn Đệ cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt
pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được
thực hiện bởi các dấu hiệu của CTTP được pháp luật hình sự quy định”.[16, tr12].
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh là một dạng hoạt động nhận
thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lí khách quan được thực
hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định CTTP tương ứng
và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của CTTP với các tình tiết cụ thể của hành
vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định”. [43, tr 6].
Mặc dù còn những điểm khác nhau, tuy nhiên, có thể thấy, điểm chung của các
nhà khoa học, nhà luật học khi bàn về khái niệm định tội danh chính là việc thừa nhận
hoạt động định tội danh là một hoạt động nhận thức, so sánh đối chiếu giữa giữa hành
vi xảy ra trên thực tế với các quy định của Bộ luật hình sự về một tội phạm cụ thể. Bởi
vì, mỗi tội phạm bao giờ cũng có những dấu hiệu đặc trưng nhất định và được luật hình
sự ghi nhận là dấu hiệu bắt buộc, giúp phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Sự
tổng hợp của các dấu hiệu này trong khoa học luật hình sự gọi là CTTP (cơ bản). Để
khẳng định một hành vi phạm tội người định tội danh phải chứng minh được hành vi
thực tế đã có đầy đủ các dấu hiệu của CTTP cơ bản hay chưa. Nói cách khác, chỉ khi
hành vi trên thực tế thỏa mãn các yếu tố cấu thành một tội phạm cụ thể thì khi đó mới
có cơ sở xác định tội danh đối với hành vi đó.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt
động áp dụng pháp luật, trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh, kết luận các hành vi

nguy hiểm cho xã hội trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội phạm
cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
1.1.2

Khái niệm định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người
Trước hết, cần nhận thức được rằng, định tội danh là một hoạt động nhận thức,

hoạt động áp dụng pháp luật nhằm so sánh, đối chiếu, kết luận hành vi xảy ra trên thực
tế và các quy định của BLHS về một tội phạm cụ thể. Nói cách khác, định tội danh


chính là việc “gọi tên” tội danh cho hành vi đã xảy ra [43, tr7]. Từ cơ sở lý luận trên
cũng như các quy định của BLHS có thể thấy định tội danh đối với các tội xâm phạm
sức khỏe của con người là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, là hoạt động của các cơ
quan THTT và người THTT có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự
phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện
với các dấu hiệu pháp lý trong CTTP các tội xâm phạm sức khỏe của con người (từ
Điều 134, BLHS năm 2015 đến Điều 140 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Trên cơ sở các chứng cứ tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự
cụ thể, các chủ thể có thẩm quyền xem xét, kiểm tra xem các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội đó có thỏa mãn các dấu hiệu tương ứng của CTTP các tội xâm phạm
sức khỏe của con người đã được quy định trong luật hình sự hay không, để trên cơ sở
đó xác định vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Định tội danh các tội xâm phạm sức
khỏe của con người là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành, trên cơ sở phân tích, đối
chiếu, so sánh, kết luận các hành vi nguy hiểm cho xã hội trên thực tế với các yếu tố
cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sức khỏe của con người được quy định trong
Bộ luật hình sự.
1.1.3


Phân loại định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người Như

đã phân tích ở trên, bản chất hoạt động định tội danh nói chung và
định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người nói riêng chính là việc các chủ
thể định tội danh tiến hành hoạt động so sánh, đối chiếu nhằm làm rõ sự phù hợp của
các hành vi xảy ra trên thực tế với các quy định của Bộ luật hình sự về một tội phạm cụ
thể. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, quá trình định tội danh các tội xâm phạm sức
khỏe của con người thường do các cơ quan THTT, những người THTT thực hiện, tuy
nhiên các nhà khoa học, các tác giả các công trình nghiên cứu, tác giả bài báo...trong
quá trình nghiên cứu của mình cũng tiến hành định tội danh đối với các tội phạm này


[43, tr23]. Căn cứ vào chủ thể tiến hành hoạt động định tội danh, có thể phân chia định
tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người thành hai dạng:
Thứ nhất, định tội danh chính thức
Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình
sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được nhà nước ủy quyền thực hiện,
cụ thể đó chính là người có thẩm quyền trực tiếp tiến hành hoạt động tố tụng hình sự.
Chủ thể thực hiện hình thức định tội danh này là các cơ quan THTT (Cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát và Tòa án) mà trực tiếp là những người THTT. Các cơ quan này đại diện
cho Nhà nước đánh giá về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi được thực hiện trên thực
tế có phải là tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì là tội gì, theo điều luật nào của
BLHS; kết quả định tội danh của các cơ quan mang tính chất pháp lý đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, trên cơ sở đó làm phát minh quyền và nghĩa vụ
tương ứng giữa người phạm tội với các cơ quan THTT .
Thứ hai, định tội danh không chính thức
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không có tính chất pháp lý hình
sự của về một hành vi phạm tội cụ thể. Chủ thể thực hiện định tội danh này không nhất
thiết phải là những người nhất định nào nhưng thông thường họ là các nhà khoa học,

các luật gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự như các tác giả của các công trình nghiên
cứu khoa học, giáo trình, bài báo... Một đặc điểm nổi bật của dạng định tội danh này là
sau khi định tội danh không phát sinh quyền hoặc nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự mà chỉ là sự thể hiện các quan điểm hay ý kiến riêng của các
tác giả.
1.1.4

Ý nghĩa định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người
Như đã phân tích ở trên, định tội danh là hoạt động có vai trò hết sức quan

trọng trong quá trình tố tụng, là tiền đề cơ sở để các cơ quan THTT, người THTT thực
hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo nhằm làm rõ sự thật khách quan vụ án, truy cứu
đúng người đúng tội, tránh oan sai trong giải quyết các vụ án. Có thể khái quát ý nghĩa


của hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của
con người trên những phương diện sau:
Thứ nhất, định tội danh đúng các tội xâm phạm sức khỏe của con người là tiền
đề cho việc quyết định hình phạt chính xác, là cơ sở để áp dụng đúng các quy định tố
tụng hình sự, đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm hay làm oan người vô tội, từ đó bảo vệ được quyền lợi
hợp pháp và tự do của công dân. Chỉ khi xác định đúng người đó đã phạm tội xâm
phạm sức khỏe của con người, các chủ thể có thẩm quyền mới có thể áp dụng chính xác
các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, thời hạn tạm giam, khởi tố vụ án
hình sự, thẩm quyền điều tra, thẩm quyền xét xử,... và bằng cách đó, góp phần hữu hiệu
cho việc bảo vệ quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự [20, tr30].
Thứ hai, định tội danh đúng các tội xâm phạm sức khỏe của con người chính là
thể hiện hoạt động tố tụng có hiệu quả, thể hiện ý thức tuân thủ pháp luật, trình độ
chuyên môn của các cơ quan THTT và người THTT, góp phần nâng cao uy tín, chất
lượng hoạt động của các cơ quan này.

Thứ ba, định tội danh đúng các tội xâm phạm sức khỏe của con người sẽ giúp
cho việc điều tra, xử lý tội phạm có căn cứ, từ đó góp phần quan trọng vào công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và phòng chống các tội xâm phạm sức khỏe của
con người nói riêng. Việc định tội danh tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sức
khỏe của con người nói riêng nếu sai sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt không phù
hợp, không tương xứng với tội phạm đã được thực hiện, làm giảm hiệu quả của hình
phạt; truy cứu trách nhiệm hình sự không đúng người đúng tội, thậm chí xâm phạm đến
quyền và tự do của công dân. Định tội danh sai sẽ không đảm bảo được tính có căn cứ
của bản án, làm mất lòng tin của nhân dân vào tính đúng đắn và nghiêm minh của bản
án từ đó làm giảm uy tín, hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng
như giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung và tội phạm
xâm phạm sức khỏe của con người nói riêng.


1.2 Cơ sở pháp luật của định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của
con người trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1 Cơ sở pháp lý của định tội danh
1.2.1.1 Quy phạm pháp luật hình sự - cơ sở pháp lý của định tội danh
Trong quá trình định tội danh, các quy phạm pháp luật hình sự có ý
nghĩa quyết định và quan trọng nhất, đóng vai trò là cơ sở pháp lý trực tiếp của việc
định tội danh. Bởi vì, về bản chất, việc định tội danh là sự so sánh, đối chiếu xem hành
vi đã xảy ra trên thực tế có phù hợp với các quy phạm pháp luật hình sự hay không? Sở
dĩ có thể khẳng định như vậy được l à vì có những lý do như sau:
Thứ nhất, hiện nay Bộ luật Hình sự nước ta là nguồn trực tiếp là duy nhất ghi
nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về vấn đề tội phạm và hình
phạt. Các quy phạm này được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội
phạm nói chung cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng.
Thứ hai, bản chất của việc định tội danh suy cho cùng là so sánh đối chiếu và
kiểm tra để xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội mà đối tượng đã thực hiện
trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tương ứng của một tội phạm cụ

thể nào đó được quy định trong phần các tội phạm Bộ luật Hình sự hay không.
Thứ ba, nhà làm luật khi xây dựng hệ thống các quy phạm của phần các tội
phạm Bộ luật Hình sự đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trưng cơ bản nhất phổ biến
nhất và hay được lặp đi lặp lại nhiều nhất trong những hành vi ấy sau đó điển hình hóa
và quy định chúng trong Bộ luật Hình sự với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc của
CTTP cụ thể tương ứng.
Thứ tư, các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất
của việc định tội danh chứa đựng những mô hình pháp lý của các tội phạm mà dựa vào
đó những người có thẩm quyền tiến hành việc định tội danh xác định sự phù hợp giữa
các dấu hiệu của những hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể tương ứng được thực hiện
bởi các dấu hiệu định tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự.


1.2.1.2 Bộ luật Tố tụng hình sự - cơ sở pháp lý gián tiếp của việc định tội danh
Có thể nói, trong quá trình định tội danh, nếu các quy phạm pháp luật hình sự đóng vai
trò là cơ sở pháp lý trực tiếp về mặt nội dung thì các quy phạm pháp luật tố tụng hình
sự là cơ sở pháp lý gián tiếp về mặt hình thức quy định cách thức trình tự thẩm quyền
định tội danh.
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa pháp lý quan trọng
đối với việc xác định trình tự thủ tục mà các cơ quan THTT, người THTT cần tuân thủ
trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động định tội danh
nói riêng. Việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định này sẽ góp phần định tội danh đúng,
tránh những sai lầm trong quá trình định tội danh
Thứ hai, BLTTHS năm 2003 cũng như BLTTHS năm 2015 mặc dù không có các
quy phạm trực tiếp liên quan đến hoạt động định tội danh nhưng đã đưa ra những cơ sở
pháp lý quan trọng của việc định tội danh như các quy định về chứng cứ (các điều 85,
86 ,87 ,88, 100...BLTTHS năm 2015); tạm giam (điều 119 BLTTHS năm 2015);,những
căn cứ khởi tố vụ án hình sự (điều 143 BLTTHS năm 2015) những căn cứ không được
khởi tố vụ án hình sự (điều 157 BLTTHS năm 2015); khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại (Điều 155 BLTTHS năm 2015)... Có thể thấy, những quy định này của

BLTTHS không trực tiếp đề cập đến vấn đề định tội danh nhưng đây là những căn cứ
không thể thiếu đảm bảo cho hoạt động định tội danh được chính xác, hiệu quả, tránh
oan sai trong quá trình các cơ quan, cá nhân được nhà nước trao quyền tiến hành hoạt
động này [20, tr14].
1.2.1.3 Cấu thành tội phạm - mô hình pháp lý của việc định tội danh
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một
loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Nói cách khác, CTTP chính là
khái niệm pháp lý của một tội phạm cụ thể đã được quy định trong BLHS giúp chúng ta
phân biệt các tội phạm với nhau. Để giúp cho các cơ quan THTT định tội danh được
chính xác, các nhà khoa học pháp lý đã phân loại CTTP thành 4 yếu tố: khách thể của


tội phạm; chủ thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội
phạm. Sự phân chia này làm cho chúng ta phân biệt được các loại tội phạm cụ thể khác
nhau mặc dù trên thực tiễn có nhiều tội phạm có những dấu hiệu trùng lặp [38, tr24]. Vì
vậy, những dấu hiệu đặc trưng của một CTTP cụ thể, có giá trị giúp cho những chủ thể
định tội danh phân biệt các tội phạm cụ thể và không bị nhầm lẫn giữa tội phạm này với
tội phạm khác. Như vậy, CTTP là cơ sở pháp lý cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình
sự người phạm tội, là căn cứ để Tòa án định tội danh và quyết định hình phạt với người
bị kết án. Bên cạnh đó, trong CTTP, còn có CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng nặng, do
đó trong quá trình định tội danh, các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội
thẩm phải đánh giá chính xác các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đối chiếu với
các dấu hiệu cơ bản của CTTP cũng như các cấu thành tăng nặng giảm nhẹ để định tội
danh cho đúng và phù hợp với khung hình phạt của tội danh được quy định trong Bộ
luật Hình sự.
1.2.2 Căn cứ pháp lý của định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con
người theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.2.1 Khái quát các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo pháp luật hình
sự Việt Nam
Tội phạm xâm phạm sức khỏe người khác là một trong các nhóm tội phạm được

quy định trong Chương XII BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi
tắt là BLHS năm 1999) và Chương XIV BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau
đây gọi tắt là BLHS năm 2015). So với BLHS năm 1999, các tội phạm xâm hại sức
khỏe người khác quy định trong BLHS năm 2015 vẫn giữ nguyên về số lượng điều luật,
với 07 tội danh. Tuy nhiên, nội hàm CTTP của mỗi tội phạm cụ thể đã có những điều
chỉnh, bổ sung nhất định nhằm phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, điển hình như việc
BLHS năm 2015 đã bổ sung tình tiết “cố ý gây thương tích bằng việc sử dụng a-xít
nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm” là tình tiết định tội và định khung tăng nặng trách
nhiệm hình sự của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người


khác (quy định tại Điều 134); hay việc bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135)...
Có thể hiểu, hành vi xâm hại sức khỏe người khác là những hành vi hành động
hoặc không hành động do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý
hoặc vô ý xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Theo
quy định của BLHS năm 2015, có 07 tội thuộc nhóm tội này,bao gồm: Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS); Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh (Điều 135 BLHS);Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 BLHS); Tội gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS); Tội
vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138 BLHS);
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 1 39 BLHS);Tội hành hạ người khác
(Điều 140 BLHS). [25, tr165]. Có thể khái quát các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm
phạm sức khỏe của con người trên một số yếu tố sau:
a. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Khách thể của nhóm tội xâm phạm sức khỏe của con người chính là
quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe. Khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm
sức khỏe của con người là quyền bất khả xâm phạm, quyền được tôn trọng và bảo vệ về
sức khỏe của người bị hại cụ thể. Đối tượng tác động của nhóm tội này đó là những con
người cụ thể, những người có quyền được tôn trọng và bảo vệ vệ tính mạng sức khỏe,
những người đang sống đang tồn tại với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội.
b. Mặt khách quan của tội phạm


Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, gồm những biểu
hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Các dấu hiệu này
bao gồm hành vi khách quan; hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả. Trong đó, dấu hiệu hành vi khách quan là dấu hiệu không thể thiếu trong mọi
CTTP.
Hành vi khách quan của các tội phạm sức khỏe là những hành vi có tính chất gây
tổn hại cho sức khỏe của con người. Những hành vi đó có thể là hành động hoặc có thể
là không hành động; hậu quả của hành vi khách quan nói trên là những thiệt hại gây ra
cho quyền được tôn trọng và bảo vệ và sức khỏe thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất
là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe. Dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong
CTTP của các tội quy định tại các điều (từ điều 134 đến điều 139 BLHS). Trong CTTP
quy định tại điều 140 BLHS (tội hành hạ người khác), dấu hiệu hậu quả không phải là
dấu hiệu bắt buộc.
Hầu hết các tội xâm phạm sức khỏe của con người đều là các tội có cấu thành
vật chất, nghĩa là dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của
CTTP. Chính vì vậy, muốn xác định tội phạm, cần phải xác định mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả. Đây là một trong những yêu cầu bặt buộc trong quá trình xác
định hành vi xâm phạm sức khỏe trên thực tế có phải là hành vi phạm tội hay không.
Đối với tội phạm được quy định tại Điều 140 BLHS năm 2015 (Tội hành hạ người
khác), dấu hiệu hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc nên chỉ cần chứng minh hành

vi thì tội phạm đã hoàn thành, vì vậy không đặt ra vấn đề xác định mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả.
c. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến bên trong của tội phạm, là thái độ
tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra. Mặt
chủ quan bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích. Trong đó, dấu hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc
trong mọi CTTP.


Lỗi của người phạm tội xâm phạm sức khỏe của con người có thể là lỗi cố ý (Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - Điều 134 BLHS)
hoặc là lỗi vô ý (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác Điều 138 BLHS). Động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội quy
định tại điều 136 BLHS (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết
khi bắt giữ người phạm tội) và là dấu hiệu định khung tăng nặng của tội được quy định
tại điều 134 BLHS.
d. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ tuổi luật
định và thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể. Trong nhóm tội xâm phạm sức khỏe có
hai tội đòi hỏi chủ thể phải là chủ thể đặc biệt. Ngoài dấu hiệu năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi luật định, chủ thể đòi hỏi phải có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân
trong đó nạn nhân là người lệ thuộc vào người phạm tội (tội hành hạ người khác - Điều
140 BLHS) hoặc là phải là người đang trong khi thi hành công vụ (tội gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ - Điều 137
BLHS).
1.2.2.2 Các tội phạm cụ thể xâm phạm sức khỏe của con người trong Luật hình
sự Việt Nam
a. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều
134 BLHS)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành
vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương
khác [39, tr166]. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm này bao gồm:
- Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan: Đây là những hành vi có khả năng gây ra thương tích hoặc
gây tổn thương khác làm tổn hại đến sức khỏe của con người. Những hành vi đó có thể


được thực hiện với công cụ phương tiện phạm tội hoặc không có công cụ phương tiện
phạm tội hoặc có thể thông qua súc vật hay cơ thể người k h á c . . .
Hậu quả của tội phạm: Hậu quả mà CTTP tội này đòi hỏi là thương tích hoặc tổn
thương khác cho sức khỏe ở mức độ có tỷ lệ thương tật là 11% trở lên (đến 30%) hoặc
dưới tỉ lệ đó nhưng thuộc một trong các trường hợp nhất định, như: Dùng vũ khí, vật
liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà
biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; Đối
với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho
mình; phạm tội có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Trong thời gian đang bị giữ,
tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
có tính chất côn đồ; Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân. Các trường hợp này cũng chính là căn cứ để xác định hành vi phạm tội thuộc
CTTP cơ bản hay CTTP tăng nặng theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 và
khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc là lỗi cố ý
gián tiếp. Người phạm tội có thể mong muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại
cho sức khỏe nhưng cũng có thể chỉ chấp nhận hậu quả đó.

- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội này có thể là bất kỳ người nào có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định .
Như vậy, so với BLHS năm 1999, CTTP tội cố ý gây thương tích trong BLHS
năm 2015 về cơ bản vẫn giữ nguyên một số dấu hiệu định tội và định khung, tuy nhiên
trong từng Khoản đã có sự bổ sung một số tình tiết mới. Cụ thể:


Một là, bổ sung tình tiết sau đây là những trường hợp mặc dầu hành vi gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể
của nạn nhân dưới 11% nhưng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nếu thỏa
mãn các dấu hiệu khác nữa của CTTP: dùng vũ khí, vật liệu nổ; dùng axit nguy hiểm
hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác; thực hiện hành vi vi phạm đối với người chữa bệnh cho mình; thực hiện hành vi
vi phạm trong khi đang bị giữ, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng; thực hiện hành vi vi phạm trong khi đang chấp hành biện pháp xử lý vi
phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc; lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi vi phạm.
Hai là, bỏ dấu hiệu “Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” trong trường hợp thực hiện
hành vi vi phạm với tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân dưới 11% là tình tiết định tội
như quy định của khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999.
Ba là, bổ sung khoản quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm
tội. Khoản 6 của Điều luật được bổ sung quy định cụ thể những trường hợp chuẩn bị
phạm tội này bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đó là các trường hợp chuẩn bị vũ khí, vật
liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc
tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Đây là những trường hợp đặc biệt nguy hiểm nên mặc dù mới có hành vi
chuẩn bị phạm tội cũng cần truy cứu trách nhiệm hình sự để bảo đảm hiệu quả phòng,
chống đối với loại tội phạm này.
b. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (điều 135 BLHS)

Có thể coi đây là một trong những trường hợp đặc biệt của hành ví cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác [23, tr141]. Tuy nhiên, CTTP của
tội này có các dấu hiệu đặc trưng sau:
- Mặt khách quan của tội phạm


Hành vi khách quan: Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được hiểu như hành vi tội
phạm được quy định ở Điều 134, BLHS năm 2015. Đây là hành vi phạm tội trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân
đối với mình hoặc đối với người thân thích của mình; về hậu quả của tội phạm, CTTP
cơ bản của tội này yêu cầu mức độ tỷ lệ thương tật do hành vi phạm tội gây ra phải từ
31% đến 60%. Tuy nhiên, trong trường hợp phạm tội với nhiều người hoặc tỷ lệ tổn
thương cơ thể của một người từ 61% trở lên hoặc gây chết người thì người phạm tội sẽ
phải chịu TNHS theo CTTP tăng nặng được quy định tại Khoản 2 Điều 135 BLHS.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện do cố ý, có thể là cố
ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
- Chủ thể của tội phạm là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi luật định
So với BLHS năm 1999, quy định về tội Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại BLHS
năm 2015 (Điều 135) không có sự thay đổi về dấu hiệu định tội định khung mà chỉ có
sự thay đổi về vấn đề quyết định hình phạt. Cụ thể, Khoản 1 bỏ hình phạt cảnh cáo và
hình phạt tù mà giữ lại hình phạt cải tạo không giam giữ và bổ sung hình phạt tiền.
c. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội (Điều 136)
- Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm này cũng là hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tuy nhiên hành vi đó được thực hiện do vượt

quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Hậu quả của tội phạm: gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe đối với hai người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể ở mức độ từ 31%
đến 60%, nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ


tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người thì sẽ phải chịu TNHS theo
quy định tại Khoản 2, 3 Điều 136 (CTTP tăng nặng).
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện do cố ý, có thể là cố
ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật quy định.
So với Điều 106 BLHS năm 1999, Điều 136 BLHS năm 2015 có điểm mới đó là
việc quy định ngoài trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì trường hợp
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội để phù hợp với việc bổ sung loại trừ trách nhiệm
hình sự đối với trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội tại Điều 24
BLHS năm 2015. Bên cạnh đó, Điều luật đã bổ sung khoản 3: “Phạm tội dẫn đến chết
người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm”.
d. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
khi thi hành công vụ (Điều 137)
Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi
hành công vụ được hiểu là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho
phép trong khi thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của BLHS 2015 [39, tr168]..
- Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan: Ngay từ tên tội danh đã thể hiện, hành vi khách quan của
tội này cũng là hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Đặc điểm của hành vi khách quan đó thể hiện ở chỗ đây là hành vi gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bằng cách dùng vũ lực ngoài những trường
hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ; Hậu quả của tội phạm: là gây


thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% đến 60%. Cũng giống như ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 136, BLHS),
trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong khi thi hành công vụ với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể mỗi
người từ 31% trở lên hoặc với một người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của người đó từ
61% trở lên, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu, ốm đau... thì sẽ phải chịu TNHS theo quy định tại Khoản 2, Điều 137(CTTP tăng
nặng).
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện do cố ý, có thể là cố
ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
- Chủ thể của tội phạm: Ngoài điều kiện là người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đạt độ tuổi do luật quy định, chủ thể của tội phạm này còn đòi hỏi người phạm tội
phải là người đang thi hành công vụ.
đ. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều
138)
Có thể hiểu, tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được hiểu là hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì phải chịu trách nhiệm hình
sự. So với quy định tại khoản 1 Điều 108 BLHS 1999 thì quy định tại khoản 1 Điều 138
nhẹ hơn (không còn quy định hình phạt tù) [39, tr169]..
- Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan: Cũng giống như một số tội phạm trong nhóm tội xâm
phạm sức khỏe của con người khác, hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Hậu quả của tội phạm:
là gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ thương tật từ

31% đến 60%, đối với trường hợp phạm tội với nhiều người thì mức độ tổn thương cơ


thể sẽ là những tình tiết xác định khung tăng nặng tại khoản 2 hoặc 3 Điều 138. Đây
cũng là một trong những điểm mới tại Điều 138 BLHS năm 2015. Nếu như Điều 108
BLHS năm 1999 chỉ có 01 khoản quy định về CTTP (khoản 1) và hình phạt chính và 01
khoản quy định hình phạt bổ sung, thì Điều 138 BLHS năm 2015 chia thành 03 khoản
quy định về cấu thành cơ bản và các cấu thành tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình
phạt chính).
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện do vô ý, có thể là vô
ý vì quá tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả.
- Chủ thể cả tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định.
e. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139)
Theo quy định tại Điều 139 BLHS, tội phạm này được hiểu là hành vi vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60% mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên nhân của việc gây ra hậu quả
này là do người phạm tội đã vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính [39,
tr 172]..
- Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là hành vi gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm các quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính; Hậu quả của tội phạm: là gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% đối với trường
hợp phạm tội với nhiều người hoặc mức độ tổn thương cơ thể sẽ là những tình tiết xác
định khung tăng nặng tại khoản 2 hoặc 3 Điều 139. Đây cũng là một điểm mới tại Điều
139 khi chia thành 04 khoản quy định về cấu thành cơ bản và các cấu thành tăng nặng
trách nhiệm hình sự và hình phạt chính và 01 khoản quy định hình phạt bổ sung.



×