Tải bản đầy đủ (.doc) (230 trang)

Nghiên cứu văn bia huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 230 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do lựa chọn đề tài
Việt Nam là một trong những nước nằm trong khu vực chịu ảnh

hưởng của văn hố Hán, và cũng là nước có những yếu tố đặc thù về thời
tiết khí hậu, lại ln xảy ra chiến tranh, nên người Việt đã dựng bia đá từ
hơn 1000 năm nay như là một phương thức hữu hiệu để lưu giữ các ghi
chép và truyền tải thông tin ở thời cổ và trung đại.
Huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hố là một trong những địa phương
cịn lưu giữ được bia đá tương đối dồi dào về số lượng, phong phú về nội
dung và nghệ thuật. Đến bất cứ thơn làng nào ở huyện Đơng Sơn đều có thể
bắt gặp những tấm bia đá được dựng ở đình, chùa, đền, miếu, từ đường, lăng
mộ, hoặc ngoài cánh đồng, trong hang động,… thậm chí bia đá cịn có mặt
trong các ngõ xóm, tư gia với kích thước và hình dáng khác nhau, tạo nên một
vẻ đẹp cổ kính cho cảnh quan và toát lên một màu sắc văn hoá khá độc đáo
của Việt Nam nói chung và huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố nói riêng.
Văn bia huyện Đơng Sơn có một lịch sử lâu dài vào loại nhất nước.
Bia sớm nhất được đặt tại xã Đông Minh, huyện Đông Sơn là Đại Tuỳ Cửu
Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn 大 隨 九 真 郡 寶 安 道 場 之 隨 九 真 郡 寶 安 道 場 之 九 真 郡 寶 安 道 場 之 真 郡 寶 安 道 場 之 郡 寶 安 道 場 之 寶 安 道 場 之 安 道 場 之 道 場 之 場 之 之
碑 文 文, khắc năm Đại Nghiệp thứ 14 (618) nhà Tuỳ. Nội dung bia ca tụng
giáo lý nhà Phật và ca ngợi đạo học cùng sự nghiệp của Viên thứ sử Cửu
Chân họ Lê. Bia đã bị mờ nhiều chữ, tác phẩm khơng cịn ngun vẹn,
nhưng nó là văn bản văn bia cổ nhất còn lại ở Việt Nam. Tấm bia tiêu biểu
có niên đại muộn nhất của đầu thế kỷ XX là bia Ngọc Tích bi ký.玉 積 碑 文
記, tạo năm Việt Nam dân quốc năm Bính Tuất thứ 2 (1946) thuộc xã Đơng
Thanh, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố. Với lịch sử trải dài trên 13 thế
kỷ tồn tại, văn bia huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố đã góp phần quan
trọng trong việc tìm hiểu niên đại và nghiên cứu các vấn đề lịch sử, địa lý, tín



ngưỡng của Việt Nam nói chung và huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố nói
riêng.
Cùng với đó, văn bia huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố cịn hàm
chứa trong nó những giá trị về ngơn ngữ, là cứ liệu quan trọng góp phần
vào việc nghiên cứu chung về quá trình phát triển của tiếng Việt. Đồng
thời, qua văn bia huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hố, nhất là ở phương diện
văn xi cịn thể hiện một cách chính xác và rõ ràng về sự phát triển của
tiếng Việt, văn phong tiếng Việt thông qua q trình chuyển đạt ngơn ngữ
nói thành ngơn ngữ viết.
Với khá nhiều bài thơ đề vịnh phong cảnh, văn bia huyện Đơng
Sơn, tỉnh Thanh Hố cịn mang trong nó những giá trị văn học. Đó là
những bài thơ ngự đề của vua chúa Việt Nam, của các bậc danh nho khoa
bảng,… Từ những bài thơ vách đá này có thể giúp cảm nhận được phần
nào sự hưng suy của thế cuộc, sự cùng thông của vận nước, sự biến đổi của
nhân tâm trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đồng thời cũng phần nào
đóng góp cho việc tìm ra tác giả đích thực của một số bài thơ bị tồn nghi.
Có thể nói, đây là những tài sản văn hóa rất q giá đáng được trân trọng,
giữ gìn.
Văn bia huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố cịn phán ánh sinh động
những sinh hoạt văn hố, tình hình vận động và phát triển của làng xã, cũng
như đời sống tôn giáo tín ngưỡng của người dân địa phương trải qua các
thời kỳ lịch sử. Nội dung văn bia huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá chứa
đựng nhiều nét dân gian phán ánh sinh hoạt làng xã như tập tục bầu Hậu,
lập Hậu; việc sửa đình, chùa, xây dựng đường xá, cầu cống; việc lập khoán
ước, tinh thần khuyến học; …. Với nội dung hết sức phong phú đa dạng đó
là những tư liệu góp phần bổ sung những chi tiết mà chính sử khơng ghi,
đồng thời giúp nghiên cứu khá hữu hiệu về phong tục tập quán cùng sự vận
động phát triển của địa phương nói riêng, của xã hội Việt Nam thời cổ và
trung đại nói chung.



Có thể nói, văn bia huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố là loại hình
văn bản mang đầy đủ những đặc trưng của văn bia Việt Nam nói chung.
Hơn nữa, văn bia huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố tuy từ lâu đã được
nhiều nhà nghiên cứu Hán học lưu tâm, dịch và công bố, song đến nay,
chúng tôi vẫn chưa thấy có một cơng trình nghiên cứu nào mang tính chất
bao qt, tổng hợp. Những cơng trình nghiên cứu trước đây, hoặc là chỉ
nghiên cứu, giới thiệu mang tính độc lập cho từng di tích lịch sử văn hố;
hoặc là chỉ hướng tới mục đích cơng bố một số văn bia tiêu biểu của huyện
Đông Sơn. Vấn đề số lượng bia đá, số lượng thác bản văn bia hiện có và
địa điểm đặt bia của huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố ngày nay vẫn cịn
chưa mang tính đích xác, văn bia còn bị xếp nhập nhằng giữa xã này với xã
khác, giữa huyện Đơng Sơn với huyện khác. Tình trạng này đã gây ít nhiều
khó khăn cho các nhà nghiên cứu khi muốn sử dụng, khai thác văn bia
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hố.
Huyện Đơng Sơn là địa phương chứa đựng nhiều bia cổ, nhiều
chủng loại, nhiều bài văn bia đạt đến trình độ nghệ thuật, là một kho tác
phẩm quý của thể loại văn bia Việt Nam. Ở đây, chúng ta có thể khai thác
nhiều tư liệu quý về sử học, phong tục học, dân tộc học, văn học và nhiều
vấn đề kinh tế chính trị khác. Vì vậy, việc nghiên cứu nghiên cứu văn bia
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hố là việc cần thiết và có ý nghĩa. Trong đó,
việc tập hợp đầy đủ, chính xác số lượng văn bia, đưa văn bia về đúng vị trí
đươc đặt của nó, cũng như việc khảo cứu tổng quan để tìm hiểu đặc điểm,
nội dung và giá trị văn bia, đồng thời tiến hành phiên âm, dịch nghĩa các
văn bản văn bia tiêu biểu của huyện Đông Sơn để nghiên cứu và phục vụ
cho việc nghiên cứu là công việc thiết thực, nằm trong chuyên môn của
ngành Hán Nôm.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài : Nghiên cứu văn bia
huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn chuyên ngành Hán Nôm.



2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.

Văn bia huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá từ lâu đã thu hút được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Cụ thể là trong các cuốn sách
Khảo sát văn hố truyền thống Đơng Sơn do Trần Thị Liên - Phạm Văn
Đấu biên soạn năm 1988; Địa chí Thanh Hố, tập II- Văn hố xã hội/ Nxb
KHXH, năm 2004; Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố/ Nxb KHXH,
2006 đều có giới thiệu một vài văn bia tiêu biểu của huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hố.
Trong Tạp chí Hán Nơm, số 3 - 2000, Trần Thị Băng Thanh có bài
Thanh Hố vườn văn bia, ở đó tác giả giới thiệu khái quát sự phong phú đa
dạng về số lượng và nội dung văn bia trong cả mảng khắc thơ đề vịnh và bi
ký của tỉnh Thanh Hố, trong đó bao gồm cả giới thiệu về một số văn bia
huyện Đông Sơn.
Năm 2000, trong Thông báo Hán Nơm học, Phạm Thị Hoa đã có
bài viết Văn khắc Hán Nơm ở Đền thờ Nguyễn Nghi có giới thiệu tóm tắt
về ngơi đền thờ Nguyễn Nghi cùng với ba tấm bia được đặt tại đền, thuộc
xã Đông Thanh, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố.
Phần Phụ lục trong cuốn Văn khắc Hán Nôm do GS.TSKH Nguyễn
Quang Hồng chủ biên cũng có giới thiệu khoảng 20 văn bia của huyện
Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố.
Có thể thấy, những bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu, giới thiệu
mang tính độc lập cho từng di tích lịch sử văn hố; hoặc là chỉ hướng tới
mục đích cơng bố một số văn bia tiêu biểu của huyện Đơng Sơn, tỉnh
Thanh Hố. Hồn tồn chưa có một cơng trình nào trình bày về văn bia
huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố một cách hệ thống.
3. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi tư liệu - Phương pháp nghiên cứu.
3.1.


Đối tượng nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu hệ thống các bài văn bia của huyện Đông Sơn

hiện sưu tầm được. Do điều kiện khuôn khổ luận văn, chúng tôi không đi


sâu nghiên cứu về mặt văn tự trên bia đá, vì đó là một đối tượng nghiên cứu
ở phạm vi rộng. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chúng tôi là các bài văn
bia của huyện Đơng Sơn tính theo địa lý hành chính hiện nay, cụ thể là tất
cả những đoạn văn, bài thơ được viết bằng chữ Hán, chữ Nơm chuyển tải
đầy đủ một nội dung hồn chỉnh được khắc trên bia đá.
3.2.

Phạm vi tư liệu
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tập trung tiến hành khảo

sát hơn 160 thác bản văn bia huyện Đơng Sơn có khắc chọn bài thơ, bài
văn, đoạn văn được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm do người bản huyện sáng
tác. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng thơng qua các văn bia hiện vật được thực
hiện trong quá trìn đi điễn dã để tham chiếu và khảo chứng.
3.3.

Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành Luận văn, chúng tơi có sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu cơ bản sau:
3.3.1. Phương pháp văn bản học.

Thông qua mô tả văn bản về các mặt như kích cỡ bia, độ dài bài

văn bia, đặc điểm trang trí trên bia, đặc điểm viết chữ,… chúng tơi đưa ra
một số nhận định về đặc điểm của văn bia huyện Đông Sơn, về vấn đề niên
đại, về thời đại và tác giả. Đồng thời, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp
đối chiếu văn bản giữa văn bản được khắc trên bia đá và văn bản được chép
trong thư tịch cổ để đính chính những chỗ sai sót, nhẫn lẫn.
3.3.2. Phương pháp thống kê định lượng.

Chúng tôi tiến hành một loạt các thao tác thống kê định lượng đối
với tư liệu văn bia huyện Đông Sơn thu thập được theo các tiêu chí: sự
phân bố theo khơng gian và thời gian, tác giả biên soạn, và các vấn đề có
liên quan, v.v… Thơng qua các kết quả đó, chúng tơi đưa ra những nhận
xét tổng quát về tình hình và đặc điểm của văn bia huyện Đông Sơn.


3.3.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu.

Cùng với thao tác thống kê định lượng, chúng tơi cịn tiến hành so
sánh đối chiếu với các yếu tố: đồng đại, đồng thể, đồng tự dạng v.v…
3.3.4. Phương pháp tổng hợp.

Phương pháp tổng hợp liên ngành là phương pháp quan trọng trong
quá trình tiến hành nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi dựa vào phương
pháp này để bước đầu đưa ra những nhận định tổng qt về văn bia huyện
Đơng Sơn.
Ngồi những phương pháp trên, chúng tơi cịn tiến hành phương
pháp nghiên cứu điền dã để khảo chứng, xác minh, và bổ sung tư liệu mới
về văn bia huyện Đơng Sơn.
4. Đóng mới của luận văn

- Bước đầu khảo sát văn bản, xác định được chính xác vị trí đặt bia,

thống kê tương đối đầy đủ về mặt số lượng văn bia huyện Đông Sơn được
sưu tầm trong những năm qua, hiện đang được lưu trữ ở Thư viện Viện
nghiên cứu Hán Nôm. Ngồi ra, chúng tơi cịn tiến hành thu thập thêm một
số văn bản văn bia huyện Đông Sơn thông qua các tài liệu khác, và qua quá
trình điền dã
- Lần đầu tiên văn bia huyện Đơng Sơn được trình bày một cách có
hệ thống và tương đối đầy đủ về tình trạng và đặc điểm.
- Trình bày cụ thể một số giá trị cơ bản, riêng có của văn bia huyện
Đông Sơn như: vấn đề văn học, vấn đề văn hố, vấn đề nghệ thuật tạo hình.
Tất cả những giá trị đó được đề cập một cách cụ thể.
- Phần Phụ lục giới thiệu những bài văn bia huyện Đông Sơn tiêu
biểu, bao gồm có nguyên văn kèm phiên âm, dịch nghĩa và chú thích.
- Đưa ra Danh mục văn bia huyện Đông Sơn mà chúng tôi thu thập
và làm lược thuật theo 8 tiêu chí.


Bố cục của luận văn

5.

- Luận văn gồm có 4 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết
luận và Phần phụ lục.
- Phần Nội dung được chia làm 3 chương:
+ Chương 1:Giới thiệu khái quát về huyện Đông Sơn.
+ Chương 2: Tìm hiểu về văn bia huyện Đơng Sơn.
+ Chương 3: Giá trị của văn bia huyện Đông Sơn.
- Phần Phục bao gồm:
+ Phụ lục 1. Danh mục văn bia huyện Đông Sơn.
+ Phục lục 2. Phiên âm, dịch nghĩa giới thiệu một số văn bia huyện
Đông Sơn.

+ Phụ lục 3. Nguyên văn một số bài văn bia giới thiệu.
6.

Quy ước trình bày
- Trong phần danh mục văn bia tóm lược, kích thước văn bia được

đo theo hình thức: chiều ngang x chiều cao, đơn vị tính là cm.
- Những chữ trên thác bản bị mờ, chúng tôi chưa chắc chắn về
phương án phiên âm sẽ được đặt trong dấu []
- Trong luận văn, chúng tơi có sử dụng một số ký hiệu viết tắt như sau:
DMVKHN:

Danh mục văn khắc Hán Nôm.

NT:

như trên.


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐÔNG SƠN
Đông Sơn là một huyện đồng bằng của châu thổ Sơng Mã, nằm ở
trung tâm của tỉnh Thanh Hố, cách 5 km về phía Tây Thành Phố. Đơng
Sơn là một vùng đất được kiến tạo trên một địa hình tương đối ổn định, có
đồng bằng mầu mỡ phì nhiêu, có hệ thống núi đồi gị bãi phong phú, và cịn
có cảnh quan rất đẹp, hài hồ. Đơng Sơn là huyện có nhiều tiềm năng đất
đai và con người, có vị trí quan trọng về kinh tế, văn hố xã hội của tỉnh
Thanh Hố.
1.1.


Địa lý

1.1.1. Địa lý tự nhiên
Về diện tích.
Đơng Sơn là huyện có diện tích nhỏ nhất tỉnh Thanh Hố. Theo số
liệu thống kê năm 2003, Đơng Sơn có diện tích là 10635,42 ha. Bình qn
diện tích tự nhiên là 0,1 ha/người.
Về địa giới.
Phía Đơng giáp Thành phố Thanh Hố, gồm các xã, thị trấn: Đơng
Hưng, Đơng Tân, Đơng Lĩnh và Thị trấn Rừng Thơng; Phía Tây giáp
huyện Triệu Sơn, gồm các xã: Đơng Hồng, Đơng Ninh, Đơng Hồ, Đơng
n, Đơng Văn, Đơng Phú; Phía Nam giáp huyện Quảng Xương, gồm các
xã: Đơng Nam và Đơng Vinh; Phía Bắc giáp huyện Thiệu Hố, gồm các
xã: Đơng Lĩnh, Đơng Tiến, Đơng Thanh, Đơng Khê, Đơng Hồng.
Về địa hình.
Địa hình huyện Đông Sơn tương đối bằng phẳng, thấp, trũng,
hướng dốc từ Tây Bắc xuống Đơng Nam; có núi, đồi xen lẫn đồng bằng.
Về đất đai, thổ nhưỡng.


Đất đai huyện Đơng Sơn hình thành chủ yếu do q trình trầm tích,
là kết quả của lắng đọng các mẫu chất, đất từ nơi khác do nước chuyển tới.
Đồng đất của Đơng Sơn hình thành chủ yếu do phù sa của sơng Chu và
sơng Mã bồi đắp nên có độ mùn khá cao, các chất dinh dưỡng trong đất
phong phú, phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là thuận lợi cho canh tác
nơng nghiệp. Ngồi ra, Đơng Sơn cịn có một diện tích đất khơng nhỏ
thường bị úng nước mưa mùa hè, phân bố ở địa hình thấp, trũng hoặc lịng
chảo của vùng châu thổ.
Nhìn chung, đất Đơng Sơn tốt cả về hố tính và lý tính, khơng

chua, thích hợp với các loại cây lương thực và cây cơng nghiệp.(1)
Về khí hậu, sơng ngịi.
Khí hậu của huyện Đơng Sơn cũng như các huyện trong vùng đồng bằng
Thanh Hoá, đều chịu sự ảnh hưởng, chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Sơng ngịi của Đơng Sơn gồm có 2 sơng chính là sơng Hồng và
thuỷ nơng sơng Chu. Ngồi ra cịn có trên 325ha ao hồ phân bố hầu hết các
xã trong huyện.(2)
Về tài ngun, khống sản.
Đơng Sơn là một trong những huyện của Thanh Hố có đồi, núi đá
vôi phong phú, nằm rải rác ở các xã trong huyện với trữ lượng khoảng 20
triệu m3 . Phần lớn các núi đá này có chất lượng tốt, đáp ứng cho nhu cầu
xây dựng các cơng trình vĩnh cửu, làm đá mỹ nghệ, ơplat có giá trị cao.
Đặc biệt là đá núi Nhồi: “Ở phía Tây Nam huyện, có một quả núi lớn và
cao gọi là núi An Hoạch,… Sắc đá óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh
như khói nhạt. Sau này đục đá làm khí cụ, ví như đẽo đá làm khánh, đánh
lên thì tiếng ngân mn dặm; dùng làm bia văn chương thì cịn mãi ngàn
đời ” (Bia “An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký”.). Đá núi Nhồi được hình thành
cách ngày nay khoảng 200 – 300 triệu năm, là loại đá không liền tấm, cứng
1
2

Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố, Nxb KHXH, 2006, tr.17.
Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố, Nxb KHXH, 2006, tr.11-12.


nhưng khơng giịn, khơng có tạp chất, mịn, các khối đá tạo thành từng lớp
có độ dày mỏng khác nhau.
Ngồi ra, huyện Đơng Sơn cịn có các tài ngun khác như: đất sét
(dùng làm gạch, ngói, gốm, sứ,.. tiêu biểu là đất sét Đông Ngàn, xã Đông
Vinh); than bùn; nước ngầm;…

1.1.2. Địa lý hành chính
1.1.2.1. Tên huyện và Lỵ sở huyện Đông Sơn
- Tên huyện
Thời thuộc Hán - Tam Quốc - Lưỡng Tấn, “Đông Sơn là miền đất
thuộc huyện Tư Phố và một phần thuộc huyện Cư Phong. Theo “Di Biên
của Cao Biền” thì lúc này có huyện Đơng Dương, sau gọi là Đông Cương
tức là Đông Sơn sau này”(1). Thời Tuỳ Đường đến thời Đinh - Tiền Lê - Lý,
Đông Sơn vẫn là vùng đất thuộc vào huyện Cửu Chân (2).
Thời Trần - Hồ, phủ lộ Thanh Hoá gồm có 7 huyện và 3 châu. Cụ
thể là: huyện Cổ Đằng, Cổ Hoằng, Đông Sơn, Cổ Lôi, Vĩnh Ninh, Yên
Định, Lương Giang, châu Thanh Hoá, châu Ái, châu Cửu Chân. Tên gọi
Đông Sơn bắt đầu từ đây.
Thời thuộc Minh, Trấn Thanh Đơ đổi thành phủ Thanh Hố, lãnh 4
châu và 11 huyện, trong đó có Đơng Sơn (3).
Thời Lê - Nguyễn. Thanh Hoa lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4 châu.
Huyện Đông Sơn lúc này thuộc vào phủ Thiệu Thiên. Năm Gia Long thứ
14 (1815) đổi phủ Thiệu Thiên thành phủ Thiệu Hố.
Năm 1928, huyện Đơng Sơn được đổi gọi là phủ Đông Sơn.
- Lỵ sở của huyện.
Trước thời Nguyễn, lỵ sở của huyện Đơng Sơn đóng ở xã Cổ Đơ
(làng Vạc) tức xã Thiệu Đơ, huyện Thiệu Hố ngày nay.

Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, Nxb KHXH, HN. 1970, tr.259.
Thơ văn Lý Trần, Tập 1, Nxb KHXH, HN.1977, tr.130.
3 Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố, Nxb KHXH, 2006, tr.27.
1
2


Năm Gia Long thứ 7 (1808) dời về xã Thạch Khê (tức Ke Rủn),

tổng Thạch Khê, nay là xã Đông Khê. Đến năm Minh Mệnh thứ 4 (1823),
lỵ sở huyện dời đến xã Thọ Hạc (nay thuộc Thành phố Thanh Hố), gọi là
phủ Đơng (địa điểm ga Thanh Hố ngày nay) (1).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tên huyện Đơng Sơn vẫn
giữ ngun. Huyện lỵ Đơng Sơn đóng ở Rừng Thông (nay là Thị trấn Rừng
Thông)
1.1.2.2. Địa danh làng xã.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhất là Khảo
cổ học và Sử học cho thấy, Đông Sơn là một trong những vùng đất cổ nhất
của Thanh Hố và cương vực lúc đó rộng gấp nhiều lần hiện nay. “Kẻ” một từ chỉ địa danh cổ nhất nước ta, cịn lưu danh ở nhiều vùng ở Đơng
Sơn, như: Kẻ Trổ, Kẻ Dậu, Kẻ Mơi, Kẻ Thìa, Kẻ Trầu, Kẻ Chiếu, Kẻ Rủn,
Kẻ Bôn, Kẻ Chẻo, Kẻ Bụt, …. Và những từ chỉ địa danh như: xá, trang, ấp,
phường, vạn, … cũng xuất hiện và có khơng ít ở vùng đất này như: Nguyên
Xá, Lê Xá, Ngô Xá, Quảng Xá, Bồ Lồ trang, phường Vạn Niên, … là
những bằng chứng sinh động về sự phong phú và đa dạng của một vùng đất
cổ nổi tiếng của Thanh Hoá. Theo tiến trình phát triển của xã hội, những từ
chỉ địa danh hành chính đó đã sự thay đổi. như: Kẻ Bôn chuyển thành Cổ
Bôn; Kẻ Rủn chuyển thành làng Rủn (nay là xã Đông Khê); Kẻ Bụt chuyển
thành thôn Cửa Bụt; Kẻ Lậu chuyển thành thôn Ngọc Lậu; …
Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX”, vào thời kỳ này
Đơng Sơn gồm có 6 tổng (Thọ Hạc , Thạch Khê, Đại Bối, Vận Quy, Quang
Chiếu, Lê Nguyễn), 145 xã, thôn, trang, vạn, giáp, sở, phường (2).
Dưới thời vua Minh Mệnh, một số tên tổng, làng, xã của huyện
Đông Sơn được đổi tên, như: tổng Lê Nguyễn đổi thành tổng Thanh Hoa;
xã Nguyễn Xá (tổng Vận Quy) đổi thành tổng Quy Xá; xã Ngọc Đôi (tổng
Thạch Khê) đổi thành xã Ngọc Tích;… chia tổng Thọ Hạc thành 2 tổng
1
2

Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố, Nxb KHXH, 2006, tr.28-29.

Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, Nxb KHXH, Hà Nội.1981, tr.111.


(Thọ Hạc và Bố Đức); tổng Quang Chiếu thành 2 tổng (Quang Chiếu và
Quảng Chiếu). Lúc này, huyện Đông Sơn gồm có 8 tổng.
Đến nửa sau thế kỷ XIX, dưới thời Tự Đức, tên gọi một số thôn,
làng của huyện Đông Sơn đã thay đổi. Theo Đồng Khánh dư địa chí, cuối
thế kỷ XIX, hai tổng Thạch Khê và Tuyên Hoá được chia làm 3 tổng
(Tuyên Hoá, Thạch Khê và Thanh Khê). Đơng Sơn gồm có 9 tổng (Thọ
Hạc, Đại Bối, Bố Đức, Vận Quy, Thạch Khê, Thanh Khê, Tuyên Hoá,
Quang Chiếu, Quảng Chiếu), bao gồm 147 xã, phường, giáp, vạn.
Đầu thế kỷ XX, tổng Thanh Khê sau đổi thành Kim Khê, tổng
Quang Chiếu đổi thành Viễn Chiếu. Đến năm Thành Thái thứ 12 (1900),
nhà Nguyễn cắt 2 tổng Vận Quy và Đại Bối nhập vào huyện Thuỵ Nguyên
(nay thuộc huyện Thiệu Hố). Huyện Đơng Sơn cịn lại 7 tổng: Thọ Hạc,
Bố Đức, Viễn Chiếu (Quang Chiếu), Quảng Chiếu, Tuyên Hoá, Kim Khê
(Thanh Khê), Thạch Khê.
Đến năm Bảo Đại thứ 3 (1928), huyện Đông Sơn đổi thành phủ
Đông Sơn, gồm có 7 phủ với 115 làng và 5.794 xuất đinh.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1946, huyện Đông
Sơn đã chia 7 tổng cũ thành 22 xã.
Từ sau năm 1954 đến nay, huyện Đông Sơn nhiều lần thay đổi tên
huyện và các cuộc tách nhập giữa các xã của huyện Đông Sơn với các xã ở
cấp huyện khác, cùng với đó là các quyết định thành lập thị trấn Rừng
Thông (năm 1992) và thị trấn Nhồi (năm 2006).
Hiện nay, huyện Đông Sơn bao gồm 19 xã và 2 thị trấn. Đó là: Thị
trấn huyện lỵ Rừng Thơng, thị trấn Nhồi và các xã Đơng Anh, Đơng Hồ,
Đơng Hồng, Đông Hưng, Đông Khê, Đông Lĩnh, Đông Minh, Đông Nam,
Đông Ninh, Đông Phú, Đông Quang, Đông Tân, Đông Tiến, Đông Thanh,
Đông Thịnh, Đông Văn, Đông Vinh, Đông Xuân, Đông Yên.

BẢNG TRA TÊN TỔNG TRƯỚC NĂM 1945 VÀ XÃ HIỆN NAY (1)
1

Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố, Nxb KHXH, 2006, tr.48-49.


STT

Tên tổng

1

Tuyên Hoá

2

Kim Khê (Thanh Khê)

3

Thạch Khê

4

Quảng Chiếu

5

Viễn Chiếu (Quang Chiếu)


6

Thọ Hạc

7

Bố Đức

Tên xã
Đông Thịnh, Đông Xuân, Đông Anh, một
phần Đông Yên, và Thị trấn Rừng Thông.
Đông Tiến, Đông Thanh, Đơng Minh.
Đơng Hồ, Đơng Hồng, Đơng Ninh,
Đơng Khê, một phần Đông Yên.
Đông Phú, Đông Hưng, Đông Tân, Đông
Văn.
Đông Quang, Đông Vinh, Đơng Nam,
Đơng Phú.
Một phần thuộc xã Đơng Lĩnh, cịn thuộc
thành phố Thanh Hoá.
Nay thuộc thành phổ Thanh Hoá.

1.1.3. Dân cư và các ngành nghề truyền thống
1.1.3.1. Dân cư
Vùng đất Đông Sơn không chỉ là nơi đầu tiên phát hiện được di vật
của văn hố Đơng Sơn có niên đại cách ngày nay khoảng 2.820 năm, mà
nơi đây còn phát hiện được nhiều dấu tích cư trú, hoạt động vật chất của
chủ nhân văn hố Đơng Sơn. Trên lưu vực sơng Mã, người ta đã phát hiện
được nhiều di tích khảo cổ thuộc về văn hố Đơng Sơn với đủ các loại
hình: di tích cư trú, mộ táng, di chỉ - xưởng, quan trọng hơn cả là việc phát

hiện công xưởng chuyên chế tác các công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức
trên đất Đơng Sơn. Các di tích này chủ yếu tập trung ở khu vực ngã ba
sông trên địa bàn Đông Sơn. Từ kết quả khảo cổ, người ta cho rằng: vùng
đất này không những chỉ là địa bàn gốc, mà còn là một trung tâm kinh tế chính trị quan trọng của cư dân Đơng Sơn trong buổi đầu dựng nước.
Từ đó có thể thấy vào thời kỳ các vua Hùng trên đất Đông Sơn
ngày nay, dân cư đã khá đông đúc, khoảng 400 người/1km 2 và có đời sống
vật chất, tinh thần tương đối cao, góp phần hình thành và phát triển của bộ
Cửu Chân - Thanh Hoá.


Hiện nay, dân số của các xã trong huyện khá đông đúc và tỉ lệ tăng
nhanh. Theo số liệu năm 2003, dân số huyện Đông Sơn là 109.797 người,
bao gồm 24.880 hộ, mật độ dân số trung bình 1.030 người/km2.
1.1.3.2.Các ngành nghề truyền thống
Nghề chế tác đồ đá
Nghề chế tác đá ở Đông Sơn là một trong những nghề cổ truyền
được bảo lưu và phát triển lâu đời nhất ở Đơng Sơn, nó được nảy sinh và
phát triển trên cơ sở của một nguồn nguyên liệu địa phương sẵn có, và tiếp
thu truyền thống kỹ thuật từ xưa.
Núi An Hoạch nằm ở phía Tây Nam huyện Đơng Sơn, trên địa bàn
hai xã Đông Tân và Đông Hưng là một trong những trung tâm khai thác đá nổi
tiếng của nước ta, được người thợ đá rất ưa dùng. Núi cao, thoải, đá mịn, tiếng
kêu trong, có thể dùng làm bia, làm khánh cùng các vật dụng khác.
Từ thời Lý, tổng trấn Thanh Hoá lúc bấy giờ là Lý Thường Kiệt đã
biết đến tiếng đá núi Nhồi, nên đã cho người đến núi Nhồi khai thác để sử
dụng. Đến đời Trần, nghề đục đá ở núi An Hoạch (núi Nhồi) đã nổi tiếng,
được triều đình biết tới, thợ đá An Hoạch được huy động vào việc đục đá ở
các núi Thiên Kiện và Khuân Mai. Triều Lê, từ những miếu điện ở Lam
Kinh (huyện Thọ Xn, Thanh Hố) đến Lăng Quận cơng (Đơng Sơn) đều
do thợ đá núi Nhồi góp phần tạo dựng.

Làng Nhồi chủ yếu vẫn sống bằng nghề nông. Đục đá, sản xuất các
sản phẩm từ đá là một nghề phụ quan trọng ở đây. Nghiên cứu về các nghề
thủ cơng ở Thanh Hố, Robequain - một người Pháp cho biết: vào cuối
triều Nguyễn, ở làng Nhồi có khoảng 300 hộ làm nghề đục đá (1).
Người thợ chế tác đá ở Nhồi không chỉ chủ yếu sản xuất các loại
sản phẩm dân dụng thơng thường, họ cịn bộc lộ sự tài hoa, điêu nghệ của
mình qua những đường nét chạm khắc hoa văn uyển chuyển, sống động,
thanh thoát và sự tạo dáng tinh vi trên các diềm bia đá, các con rồng đá, voi

1

Địa chí Thanh Hố, Tập 2, Nxb KHXH, 2004, tr.971-972.


đá có kích thước rất lớn, … tạo nên những sản phẩm mang tính văn hố
nghệ thuật cao.
Hiện nay, nghề đục đá ở Đông Sơn, mà chủ yếu là ở làng Nhồi vẫn
tiếp tục phát triển đa dạng, phong phú nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của công tác xây dựng và đời sống.
Nghề Gốm:
Đơng Sơn là nơi có nguồn ngun liệu đất sét tốt, có hệ thống giao
thơng đường thuỷ thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi. Do vậy, nghề sản
xuất gốm ở đây đã sớm hình thành và nhanh chóng trở thành một trong
những trung tâm sản xuất đồ gốm của xứ Thanh (1).
Tài nghệ của những người thợ gốm xưa thể hiện chủ yếu ở việc
chuốt dáng và tạo ra các hoạ tiết hoa văn trang trí trên đồ gốm. Bằng các
cách thức đơn giản như: in, đập, chải,… người thợ gốm xưa đã tạo nên
nhiều kiểu hoa văn đẹp. Các mơ típ hoa văn thường là: hoa văn hình sóng
nước, hoa văn hình chữ S, hoa văn hình trịn, …
Trung tâm sản xuất đồ gốm là vùng Đức Thọ và một số nơi ven

sông Chu, sơng Mã, như Vồm, Thổ Phương,... Là vùng có đầy đủ các yếu
tố về nguồn nguyên liệu tốt, chất đốt dồi dào, cùng với việc tiếp thu kinh
nghiệm sản xuất từ xưa, nghề làm đồ gốm ở Đức Thọ phát triển tương đối
nhanh trở thành “vùng gốm quan trọng nhất tỉnh Thanh Hoá, và cũng là
một trong những vùng có nghề gốm quan trọng nhất nước ta”(2). Các lị
gốm ở Đức Thọ sản xuất chủ yếu là đồ dân dụng như chum, vại, lọ, hũ,
chĩnh, chậu, ấm, bình vơi, tiểu sành,…
Ngày nay, nghề sản xuất đồ gốm sành ở Thanh Hố vẫn đang duy
trì và phát triển. Trên vùng đất Đức Thọ xưa đã hình thành một khu vực
sản xuất đồ gốm - sành khá sầm uất, đó là khu gốm Lò Chum được nhân
dân khắp nơi biết đến.
Trần Thị Liên - Phạm Văn Đấu (bs), Khảo sát Văn hố truyền thống Đơng Sơn, Nxb KHXH, 1988,
tr.31-32.
2 Phan Gia Bền, Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam, tr.85.
1


Nghề đúc đồng:
Nghề đúc đồng là một trong những nghề thủ cơng cổ truyền khá
nổi tiếng ở Thanh Hố, được tập trung chủ yếu ở làng Trà Đông, xã Thiệu
Trung, Đơng Sơn (này thuộc huyện Thiệu Hố, tỉnh Thanh Hố), xưa cịn
có tên là Trà Sơn Trang, tên Nơm là Kẻ Chè. Làng này chủ yếu sống bằng
nghề đúc đồng, đơn vị sản xuất chủ yếu là gia đình. Mỗi gia đình là một cơ
sở sản xuất, là một lị riêng, chủ gia đình đồng thời cũng là chủ lị đúc.
Đúc đồng là một quy trình kỹ thuật phức tạp, bao gồm nhiều khâu.
Mỗi khâu lại có các bước, các thao tác kỹ thuật khác nhau và đều có liên
quan đến chất lượng sản phẩm mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nghề
nghiệp truyền từ đời này qua đời khác.
Sản phẩm ở Trà Đông được khắp nơi ưa chuộng, không chỉ chủ
yếu là các đồ dùng dân dụng như: nồi đồng, bát hương, đèn, chân đèn,…

mà với sự tích luỹ kinh nghiệm phong phú, người thợ đúc đồng còn tạo ra
những sản phẩm mang tính nghệ thuật cao, như các loại: tượng, chuông,
con giống, con rồng,… Nghề đúc đồng ở Trà Đông chủ yếu tập hợp nguyên
liệu từ việc tận dụng các nguồn đồng thứ phẩm.
Ngồi ra, ở Đơng Sơn cịn có nghề dệt, cũng là một nghề cổ truyền
xuất hiện sớm. Trong số những làng dệt được biết đến ở Đông Sơn, nổi
tiếng là làng dệt Hồng Đô, xã Thiệu Đơ, huyện Đơng Sơn (nay thuộc huyện
Thiệu Hố) với nghề dệt nhiễu. Dấu ấn của nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt
vải cịn để lại trong một số hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian, như hát
phường vải, trong các lễ hội thi dệt vải,…

1.2. Văn hoá – Xã hội.
Đông Sơn là một trong những vùng đất cổ của đồng bằng Thanh
Hoá. Bằng tinh thần lao động cần cù, trí thơng minh sáng tạo và lịng u
q hương đất nước, người dân Đơng Sơn đã tạo dựng cho mình một đời


sống tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng. Trải qua hàng nghìn năm
lịch sử, những tinh hoa trên các lĩnh vực kinh tế và xã hội, cùng với những
đặc điểm của hoàn cảnh thiên nhiên, hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh con
người đã tạo nên các đặc trưng văn hoá của vùng đất này, trở thành những
di sản văn hố khơng chỉ của riêng Đơng Sơn mà cịn là của Thanh Hoá và
cả nước.
1.2.1. Văn hoá làng xã và những phong tục tập qn, tín ngưỡng.
1.2.1.1.Văn hố làng xã.
Văn hoá làng chủ yếu được thể hiện trên các phương diện văn hoá
xã hội, văn hoá tư tưởng và văn hố nghệ thuật. Văn hố làng chứa đựng
trong nó những biểu trưng mang giá trị truyền thống, như hình ảnh mái
đình, con đê, giếng nước, ngơi chùa, bãi mía nương dâu,…; những gia phả
hương ước, tập tục,…; những di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ, bia đá, và cả

những hội hè đình đám, hát hị, phong tục tín ngưỡng, âm nhạc, mỹ thuật,
… tất cả đều có ở làng. Đất nước Việt Nam ln tồn tại văn hố làng,
huyện Đơng Sơn - tỉnh Thanh Hố cũng vậy.
Làng ở Đơng Sơn có từ lâu đời, dân cư đơng, thuần chất, sống chủ
yếu bằng nghề nông, người dân Đông Sơn rất gắn bó với làng của mình. Và
dù có di cư đến các vùng đất khác, người dân Đông Sơn vẫn có dấu ấn của
quê hương bằng cách lấy tên làng cũ đặt cho nơi mới. Văn hoá làng ở Đơng
Sơn cũng bình dị, thân thuộc mà sống động như những làng quê khác với
hình ảnh mái đình, cây đa, ruộng đồng bát ngát,…. Song, văn hố làng
Đơng Sơn cịn mang những nét độc đáo riêng có được thể hiện qua các sản
phẩm văn hoá nghệ thuật của từng địa phương như ở làng Rủn, làng Bôn
với những màn diễn xướng sôi nổi mà tế nhị, hay những sinh hoạt phong
tục tín ngưỡng, cũng có khi là một di chỉ hay một di tích lịch sử làm nên sự
tự hào của lịch sử q hương,… Văn hố làng ở Đơng Sơn là một trong
những nét bản sắc văn hoá của Xứ Thanh.
1.2.1.2. Phong tục tập quán, tín ngưỡng trong làng xã huyện Đông Sơn.


Cũng như cư dân trong làng xã ở mọi miền đất nước, cư dân Đơng
Sơn có nhiều phong tục, tập quán. Các phong tục tập quán đó mặc nhiên
tồn tại và trở thành điều không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày và
trong sinh hoạt cộng đồng làng xã.
Tập tục sinh hoạt tiêu biểu:
- Thờ cúng tổ tiên.
“Chim có tổ, người có tơng”
Quan niệm về cội nguồn được hình thành cùng với quá trình hình
thành và phát triển của dân tộc. Nó đã ngấm vào máu thịt và trở thành một
phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của con người Việt. Thờ cúng cha
mẹ, tổ tiên, dòng họ từ trong mỗi cá nhân đã hoà thành cái chung của cả
một cộng đồng, trở thành giá trị tinh thần cao cả mà khơng phải dân tộc nào

cũng có được.
Cũng như bao miền quê khác, người dân Đông Sơn rất coi trọng
phong tục thờ cúng tổ tiên. Ở Đông Sơn hiện có đến hơn 60 nhà thờ họ và
từ đường (1). Mỗi nhà thờ họ thường gắn liền với một cá nhân nổi tiếng của
dịng họ đó, là những người khoa bảng đỗ đạt, có cơng lao to lớn với dân,
với nước. Đấy không chỉ là niềm tự hào của riêng dòng họ mà còn là niềm
tự hào chung của cả cộng đồng cư dân làng và cả một vùng rộng lớn. Có
các nhà thờ họ như: Nhà thờ Nguyễn Chích (xã Đông Ninh); nhà thờ
Nguyễn Văn Nghi, Nguyễn Khải (xã Đông Thanh); Lăng mộ Quận công Lê
Trung Nghĩa (xã Đông Hưng); Từ đường họ Lê Khả (xã Đông Khê);…
Họ lớn thì có nhà thờ riêng, họ nhỏ thì lấy nhà Tộc trưởng làm nhà
thờ họ, do Tộc trưởng đảm trách việc hương khói, giỗ tết và có phần ruộng
hương hoả để chi dùng. Vào ngày giỗ họ, con cháu trong họ “đơm cỗ” đội
đến cúng ở nhà thờ họ rất nghiêm cẩn. Cũng trong những dịp này, người ta
thường kết hợp bàn việc quan trọng khác của dòng họ, như: lập hoặc bổ
sung gia phả, xây mộ tổ, xây dựng nhà thờ họ,…
1

Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố, Nxb KHXH, 2006, tr.435- 442.


Cũng như gia đình Việt nói chung, trong mỗi gia đình ở huyện
Đơng Sơn đều có một bàn thờ gia tiên (thờ ông bà, cha mẹ đã khuất),
thường được đặt ở gian giữa nhà chính. Đây là nơi rất thiêng liêng trong
mỗi gia đình. Cứ đến ngày giỗ tết, con cháu lại tụ họp lại làm cỗ cúng ông
bà, cha mẹ để tưởng nhớ và báo đáp công ơn của ơng bà cha mẹ.
Ngồi ra, có một số người khơng có con để kế nối việc thờ cúng
ơng bà, cha mẹ thì họ cúng ruộng, góp tiền cho nhà chùa, hoặc làm từ thiện
các cơng trình cơng cộng của làng xã để khi “khuất núi” làng xã tiếp tục
thay họ làm nhiệm vụ thờ cúng tổ tiên.

- Tín ngưỡng thành hồng.
Là một phong tục khơng thể thiếu trong các làng xã Đơng Sơn. Do
quan niệm “đất có thổ cơng” nên phần nhiều các làng đều có thờ một vị
thần “bảo trợ”, mỗi vị một thần điện. Tuỳ theo quy mô kiến trúc và chức
năng mà các vị thần được thờ ở Đình, Đền, Nghè, Miếu,... Thành hồng có
thể là nhân vật thần thoại; có thể là một con người thực có cơng tích lớn lao
với cộng đồng làng, được cả làng suy tơn; có thể là nhân vật lịch sử của địa
phương hay của dân tộc. Vị thần đó được dân làng kính ngưỡng thờ cúng.
Ở Đơng Sơn, trong các nhân vật được tơn là “Thành hồng” thì nhiều nhất
là những người có cơng lao trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và
những người đỗ đạt, giữ những trọng trách quan trọng trong xã hội. Cụ thể
như: Đền thờ Nguyễn Nghi, Đền thờ Cao Cử (xã Đông Thanh); Đền thờ
Nguyễn Đăng Khoa (xã Đơng Hồ); Đình Xn Lưu (xã Đơng Xn) - thờ
Quận cơng Nguyễn Đình Thuần;…
Bên cạnh đó, ở Đơng Sơn cịn thờ cúng nhiều vị thần khác như
thần: Cao Sơn, Đông Hải, công chúa Liễu Hạnh, Thiên Lội, Thiên Cương,
Long Uyên,… Có thể nói, tục thờ cúng tổ tiên, thần thánh từ lâu đã trở
thành truyền thống đạo đức dân tộc “uống nước nhớ nguồn” của con người
Đơng Sơn nói riêng và của người Việt Nam nói chung.


Một số tục lệ tiêu biểu (1):
Đông Sơn là vùng đất cổ, nên còn lưu truyền và bảo lưu được
nhiều phong tục tập quán cổ. Đó là các tục lệ quy định về sinh hoạt cộng
đồng làng xã, các tục lệ tín ngưỡng, cưới xin, ma chay, đình đám và về cơ
bản không khác nhiều so với các địa phương khác trong tỉnh. Nhiều tục lệ
khá nặng nề, song vẫn có những tục lệ mang tính tích cực, thể hiện các
thuần phong mỹ tục mà đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
- Tục kết chạ. Kết chạ là một tục lệ phổ biến ở Đơng Sơn. Kết chạ
là hình thức để tăng cường tinh thần đoàn kết, thân thiện láng giềng. Trước

kia hầu hết các làng ở Đông Sơn đều kết chạ với nhau. Một làng có thể kết
chạ với một hoặc nhiều làng khác nhau. Trong các lễ hội của làng thì lễ kết
chạ, đi chạ, hội chạ là một lễ quan trọng và các làng thường tổ chức các
hình thức sinh hoạt văn hố khá sơi nổi. Hiện nay tục lệ này khơng cịn phổ
biến và các làng cũng khơng mấy áp dụng.
- Tục khảo thí. Đơng Sơn là vùng đất khoa bảng của xứ Thanh. Tục
khảo thí là tục kiểm tra các học trị trong làng, mỗi năm được tổ chức một
lần. Trong các làng xã của Đơng Sơn phần lớn có tục này và được duy trì
thường xun, nhất là các làng có nhiều người đỗ đạt, có truyền thống khoa
bảng, tiêu biểu như làng Cổ Bôn (xã Đông Thanh). Tục này được tổ chức
như sau:
+ Hàng năm cứ đến rằm tháng Giêng làng tổ chức khảo thí.
+ Những người tham gia là những học trò đang học trường làng
hoặc học nơi khác về nghỉ Tết.
+ Người trong hội đồng khảo thí là những người trong hội Tư văn,
đỗ đạt cao, học giỏi nổi tiếng trong làng và vùng.
+ Địa điểm tổ chức thường ở đình làng.
+ Nội dung thi thường là Thơ, Phú, văn sách,… mỗi năm có một
thể loại khác nhau khơng tn theo một quy định nào cả.
1

Địa chí huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hoá, Nxb KHXH, 2006, tr.455-459.



×