Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Chấm dứt hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH TUẤN

CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Quý Trọng

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Đào tạo sau Đại học - Học viện Khoa học xã hội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Sau Đại học xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN
Tác giả



Nguyễn Anh Tuấn


LỜI CẢM ƠN
Qua hai năm học tập nghiên cứu tại trường học viện Khoa học xã hội và viết
luận văn thạc sĩ đề tài “Chấm dứt hợp đồng theo pháp luật Thương mại Việt
Nam hiện nay” . Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến học viện khoa học xã hội,
Khoa Sau đại học viện khoa học xã hội; các thầy giáo, cô giáo tại học viện Khoa
học xã hội. Đặc biệt xin biết ơn thầy hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Qúy Trọng
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong quá trình viết luận văn.
Ngoài ra tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm đến đồng nghiệp và gia
đình đã nhiệt tình hỗ trợ, động viên, tạo điều kiện trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu hoàn thiện luận văn này.
Do thời gian có hạn và kiến thức, kinh nghiệm còn nhiều thiếu sót, hạn chế,
tác giả mong muốn các Quý thầy, cô giáo, nhà khoa học, chuyên gia và độc giả
quan tâm tham gia đóng góp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Anh Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI 6
1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại và chấm dứt hợp đồng thương mại .............6
1.2. Pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại tại Việt Nam ...............................21

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI ...........................................................................................................................28
2.1. Các quy định của pháp luật về việc chấm dứt hợp đồng thương mại ................28
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại ......................52
Chương 3. NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI .............................................................69
3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương
mại .............................................................................................................................69
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh việc chấm dứt hợp đồng
thương mại ................................................................................................................71
KẾT LUẬN ...............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................80


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

:

Bộ luật Dân sự

CP

:

Chính phủ

LTM


:

Luật Thương mại



:

Nghị định

QH

:

Quốc hội

TTLT

:

Thông tư liên tịch


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, hòa cùng công cuộc đổi mới và phát triển chung của đất
nước, các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng phát triển, cải thiện và hoàn
chỉnh mình. Mỗi doanh nghiệp hoạt động kinh tế đều là một tế bào góp phần đưa
đất nước đi lên, là nơi trực tiếp sản xuất và cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng của toàn xã hội và cho xuất khẩu. Quá

trình thực hiện các chuỗi hoạt động nêu trên, các doanh nghiệp đều phải thường
xuyên giao kết, thực hiện các hợp đồng thương mại với đối tác của mình. Việc xác
lập, thực hiện được nhiều hay ít hợp đồng có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Từ đó, các giao dịch thương mại góp phần thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế đất nước.
Hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều đã ý thức được tầm quan trọng của việc
soạn thảo, giao kết, thực hiện hợp đồng đối với sự phát triển của doanh nghiệp mình
nhằm hạn chế tối đa các tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng. Để tạo hành lang
pháp lý cho các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý và an tâm hơn trong quá trình thực
hiện hoạt động kinh doanh, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005
và mới đây là Bộ luật dân sự năm 2015, thay thế cho Bộ luật dân sự năm 2005 đã
dành rất nhiều các quy định cụ thể để quy định chặt chẽ về các trường hợp giao kết,
thực hiện và chấm dứt hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng.
Tuy nhiên, hầu hết các bên của hợp đồng thương mại đều chỉ quan tâm tới
khâu giao kết và xây dựng các điều khoản cơ bản về việc thực hiện hợp đồng mà ít
chú trọng tới các thỏa thuận liên quan tới việc chấm dứt hợp đồng, dẫn tới một số
trường hợp các bên không thống nhất được việc quyền và nghĩa vụ giữa các bên
trong hợp đồng còn hay đã chấm dứt và làm nảy sinh các tranh chấp liên quan từ
việc chấm dứt hợp đồng.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, nhằm làm rõ các quy
định của pháp luật thương mại về các trường hợp chấm dứt hợp đồng, hậu quả của
chấm dứt hợp đồng với các bên giao kết, tác giả lựa chọn đề tài: “Chấm dứt hợp
1


đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một chế định lớn, quan trọng cho nên hợp đồng nói chung và hợp đồng
thương mại nói riêng luôn là một đề tài được các nhà nghiên cứu quan tâm và làm

rõ, bao gồm các công trình ở phạm vi rộng và hẹp khác nhau. Trong đó có thể kể tới
các công trình tiêu biểu sau: cuốn sách Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam
năm 2015 của tác giả Nguyễn Minh Tuấn, xuất bản năm 2016; các luận văn thạc sĩ
luật học với đề tài “Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự theo pháp luật
dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Oanh năm 2010; “Chế tài do vi
phạm hợp đồng thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Hoàng
Thị Hà Phương năm 2012; “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại dưới góc độ
so sánh pháp luật Viêt Nam và Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế” của tác giả Phan Thùy Linh năm 2016; “Hủy bỏ hợp đồng – Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Thị Nhường năm 2013… Ngoài ra, trên các
tạp chí chuyên ngành cũng đã đăng tải rất nhiều bài viết về đề tài hợp đồng thương
mại như: “Một số vướng mắc từ việc áp dụng chế định đơn phương chấm dứt thực
hiện hợp đồng” của tác giả Nguyễn Thùy Trang, Nguyễn Minh Hằng, trên tạp chí
Kiểm sát số 6/2011; “Về đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền theo Điều 588
Bộ luật dân sự” của tác giả Vũ Quốc Tuấn trên tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2013;
“Bàn về khái niệm “Vi pham cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Luật
thương mại năm 2005” của tác giả Võ Sỹ Mạnh, trên tạp chí nhà nước và pháp luật,
số 8/2013; “Bất cập đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, chế tài tạm ngừng
thực hiện hợp đồng trong thương - một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thanh
Tùng, trên tạp chí Luật học số 7/2015; “Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật
thương mại 2005 – Một số vướng mắc về lý luận và thực tiễn” của tác giả Đồng
Thái Quang, trên Tòa án nhân dân, số 20/2014; “Chế tài phạt vi phạm hợp đồng
theo Luật thương mại 2005” của tác giả Nguyễn Việt Khoa, trên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 15/2011…
2


Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy, các công trình, bài viết kể trên đã đưa ra
những nhận xét, đánh giá khái quát cũng như chi tiết về hợp đồng thương mại nói
chung từ việc giao kết đến giai đoạn thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, hiện nay chưa

có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ đề cập tới các trường hợp chấm dứt hợp
đồng và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng thương mại theo quy định của
pháp luật. Bởi vậy, nhằm khắc phục những thiếu sót nêu trên, trên tham khảo các ý
kiến, quan điểm nghiên cứu trong các công trình kể trên, với mong muốn phân tích
làm rõ các quy định của pháp luật luật và đề xuất giải pháp thực hiện pháp luật hiện
hành về vấn đề chấm dứt hợp đồng, tác giả lựa chọn đề tài “Chấm dứt hợp đồng
theo pháp Luật Thương mại Việt Nam hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn không đi sâu vào phân tích các quy định của pháp luật về hợp đồng
thương mại nói chung mà chỉ tập trung phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật thương mại hiện hành về các trường hợp chấm dứt hợp đồng và hậu quả pháp
lý của việc chấm dứt hợp đồng thương mại; Từ đó đề xuất các giải pháp để nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn đề ra nhiệm vụ nghiên cứu gồm:
- Nghiên cứu khái quát một số vấn đề lý luận về hợp đồng thương mại và
chấm dứt hợp đồng thương mại.
- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về các trường hợp chấm dứt
hợp đồng thương mại, hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng thương mại và
thực tế thực hiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
- Trên cơ sở những đánh giá, so sánh, phân tích về các quy định của pháp
luật hiên hành và Dự thảo sửa đổi Luật Thương mại năm 2005, tác giả đề xuất một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng và nâng cao hiệu quả thực

3


hiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng trong thực tiễn hoạt động của các chủ thể kinh

doanh trên thị trường hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với mục dích và nhiệm vụ nghiên cứu trên, trong phạm vi luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ, tác giả sẽ tập trung làm nổi bật các trường hợp chấm dứt hợp đồng
thương mại, các hậu quả pháp lý trong trường hợp chấm dứt hợp đồng thương mại
theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Từ đó
đi sâu phân tích và đánh giá thực tiễn các quy định của pháp luật trong để chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề này và đề ra giải pháp
hoàn thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chính được sử dụng xuyên suốt nội dung toàn bài là phương pháp
tổng hợp, phân tích; bên cạnh đó để giải quyết vấn đề nghiên cứu, người viết còn sử
dụng phương pháp logic tại Chương 1, phương pháp liên hệ thực tế và so sánh để nêu
rõ các nội dung ở Chương 2, và phương pháp so sánh để làm rõ phương hướng hoàn
thiện pháp luật và đưa ra các đề xuất cụ thể cho vấn đề này tại Chương 3.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn có một số điểm mới chủ yếu sau:
- Tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm chấm dứt hợp đồng và chấm dứt
hợp đồng thương mại; các đặc điểm của chấm dứt hợp đồng thương mại; tóm lược
lịch sử các quy định của pháp luật về vấn đề chấm dứt hợp đồng; kinh nghiệm của
pháp luật một số nước trên thế giới về chấm dứt hợp đồng thương mại.
- Chỉ ra và phân tích những ưu điểm, hạn chế trong quy định của pháp luật
hiện hành về các trường hợp chấm dứt hợp đồng và hậu quả pháp lý của việc chấm
dứt hợp đồng và thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt hợp đồng.
- Đánh giá được như cầu và đề xuất ý kiến hoàn thiện pháp luật thương mại
Việt Nam về vấn đề chấm dứt hợp đồng thương mại trên cơ sở học tập kinh nghiệm
của một số quốc gia trên thế giới trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại
năm 2005.
4



7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chấm dứt hợp đồng thương mại và pháp
luật về chấm dứt hợp đồng thương mại
Chương 2. Thực trạng pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại
Chương 3. Những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp
đồng thương mại

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại và chấm dứt hợp đồng thương mại
1.1.1. Nhận diện hợp đồng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại
Chế định hợp đồng là một trong những nội dung nền tảng của luật dân sự,
được hình thành từ rất sớm và dần được hoàn thiện theo thời gian. Tuy nhiên, trong
lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra một thuật ngữ chính xác như thuật ngữ
“hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật hiện hành của hầu hết các nước là
việc không dễ dàng. Các luật gia cho rằng thuật ngữ hợp đồng (contractus) được
hình thành từ động từ contrahere trong tiếng La-tinh, có nghĩa là “ràng buộc” và
xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỉ V – IV TCN [17]. Tuy nhiên mãi
đến thế kỉ thứ I SCN, người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ “contractus”
trong luật và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận, được bảo vệ dưới thời
Hoàng đế Justinian [10, tr.81]. Sau này các nước phương Tây đã kế thừa và phát
triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ “hợp

đồng” – trong tiếng Anh là “contract”.
Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm “hợp đồng” theo hai nghĩa:
nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, hợp đồng dân sự là
do các quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với
nhau. Còn theo nghĩa chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong
đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định [19, tr.111-112].
Bộ luật Dân sự 2015 đã cụ thể hóa khái niệm “hợp đồng” theo nghĩa chủ
quan bằng quy định tại Điều 385: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Quy định của Điều 385
Bộ luật Dân sự 2015 là sự kế thừa từ Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 nhưng đã lược
bỏ đi từ “dân sự” sau từ “hợp đồng” (Điều 388 BLDS). Việc Bộ luật Dân sự 2005
6


sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự” đã dẫn đến cách hiểu cho rằng các quy định
của Bộ luật Dân sự về hợp đồng chỉ áp dụng đối với các quan hệ dân sự theo nghĩa
hẹp mà không áp dụng đối với hợp đồng trong thương mại, hợp đồng đầu tư, hợp
đồng kinh doanh bảo hiểm… Thực tế, một số luật chuyên ngành như Luật Thương
mại, Luật Đầu tư có những quy định về hợp đồng nhưng không quy định về khái
niệm nghĩa vụ, khái niệm hợp đồng, giao kết và thực hiện nghĩa vụ, thực hiện hợp
đồng do những vấn đề này đã được quy định trong Bộ luật Dân sự và cần được thực
hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự. Để thể hiện vai trò của các quy định về hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự là quy định chung về các dạng hợp đồng trong các lĩnh
vực khác nhau, Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ từ “dân sự” trong các khái niệm hợp
đồng và trong các quy định cụ thể về hợp đồng [16, tr.18]. Chính vì thế định nghĩa
về hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2015 được coi là có sự tiến bộ rất lớn, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng thống nhất pháp luật đồng thời có tính khái quát cao,
phản ánh đúng bản chất của hợp đồng.

Về lý luận, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự.
Nhưng điều đáng tiếc nhất đó là pháp luật trong lĩnh vực thương mại hiện nay chưa
đưa ra được một khái niệm chung nhất về hợp đồng thương mại. Và ngay cả khái
niệm “hợp đồng thương mại” cũng là một khái niệm mà hiện nay chúng ta đang sử
dụng một cách tương đối bởi nếu nói một cách chính xác thì phải gọi nó là hợp
đồng trong thương mại hay hợp đồng trong hoạt động thương mại.
Trước đây, trong Điều 1 của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế được ban hành
ngày 25 tháng 9 năm 1989 của Hội đồng Nhà nước đã nhắc đến khái niệm “hợp
đồng kinh tế”. Theo quy định này thì hợp đồng kinh tế được định nghĩa là “sự thỏa
thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên kí kết về việc thực hiện công
việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học –
kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”. Quy
định này là một cơ sở để có thể phân định giữa hợp đồng kinh tế với các hợp đồng
khác, đặc biệt là hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, khái niệm hợp đồng kinh tế không
được ghi nhận tại Luật Thương mại năm 1997 được Quốc hội thông qua ngày 10
7


tháng 5 năm 1997, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1998, mà thay vào đó thì
các nhà lập pháp lại hướng tới việc định nghĩa hoạt động thương mại, thông qua đó
để có quy định về hợp đồng thương mại – với tư cách là hình thức pháp lý cho các
giao dịch trong hoạt động thương mại. Và bởi vì các quy định về hoạt động thương
mại trong Luật Thương mại 1997 về hoạt động thương mại chỉ gói gọn trong ba loại
hoạt động: (1) mua bán hàng hóa; (2) cung ứng dịch vụ thương mại và (3) các hoạt
động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính
sách kinh tế - xã hội (khoản 2, Điều 5 Luật Thương mại 1997); điều này khiến cho
cách hiểu về hợp đồng thương mại cũng khá hẹp. Đồng thời, tinh thần của Luật
Thương mại 1997 về hoạt động thương mại cũng thể hiện sự không tương thích với
quy định của pháp luật quốc tế về hoạt động thương mại [6, tr. 460].

Khắc phục những nhược điểm trên, Luật Thương mại năm 2005 – Luật số
36/2005/QH11 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng
01 năm 2006 đã quy định rộng hơn đối với hoạt động thương mại bằng việc nhấn
mạnh đặc điểm của hoạt động thương mại là “hoạt động vì mục đích sinh lợi”; sửa
đổi hoạt động “cung ứng dịch vụ thương mại” thành hoạt động “cung ứng dịch vụ”
đồng thời bổ sung hoạt động “đầu tư” và “các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác” ngoài ba loại hoạt động thương mại đã kể đến trong Luật Thương mại 1997
trước đây. Có thể nói, Luật Thương mại 2005 đã có cách tiếp cận “thông thoáng”
hơn trong việc mở rộng phạm vi của hoạt động thương mại và căn cứ xác định bản
chất pháp lý của hoạt động thương mại (khoản 1, Điều 3 LTM 2005) [6, tr.460].
Sự ra đời của Luật Thương mại 2005 là sự khởi đầu hình thành một khái
niệm mới trong thực tiễn hoạt động kinh doanh – khái niệm “hợp đồng thương
mại”. Nếu như trước ngày 1/1/2006, các hợp đồng mang yếu tố tài sản được phân
biệt thành hai loại: hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế, theo đó thì các hợp đồng
không phải hợp đồng kinh tế được coi là hợp đồng dân sự, nhưng từ khi Luật
Thương mại 2005 có hiệu lực thì đã không còn hợp đồng kinh tế [1, tr,6], thay vì
thế chỉ có một khái niệm “hợp đồng” được quy định trong Bộ luật Dân sự và hợp
đồng thương mại là một hình thức của hợp đồng nói chung đó, nó vẫn chịu sự điều
chỉnh của Bộ luật Dân sự 2005 trước đây và Bộ luật Dân sự 2015 hiện nay.
8


Trong khoa học pháp lý, cũng có ý kiến cho rằng không nên sử dụng khái
niệm “hợp đồng thương mại” do lo ngại dẫn đến hệ quả không cần thiết, đó là sự
mất công tìm kiếm điểm khác biệt giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự,
song trong thực tiễn kinh doanh, khái niệm này vẫn được sử dụng khá phổ biến với
ý nghĩa là “hợp đồng trong thương mại”. Có thể thấy rằng, khái niệm “hợp đồng
thương mại” vẫn tồn tại trong đời sống kinh tế, pháp lý với nghĩa là hợp đồng hình
thành trong lĩnh vực thương mại [5, tr.8].
Trong mỗi lĩnh vực của hoạt động thương mại thì các chủ thể có thể xác lập

những hợp đồng trong từng lĩnh vực khác nhau như hợp đồng mua bán hàng hóa,
hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư hay hợp đồng dịch vụ… Mặc dù pháp luật thương
mại Việt Nam hiện nay chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về hợp đồng thương mại,
tuy nhiên hợp đồng thương mại là một trong các loại hành vi pháp lý cơ bản và
mang tính phổ biến trong giao dịch của đời sống xã hội, nhất là đối với các thương
nhân, và trước hết chúng ta phải thấy nó là một loại hợp đồng theo khái niệm hợp
đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015. Chỉ khác rằng, từ nhận thức đến ý
chí và đi đến hành động của thương nhân trong quá trình đàm phán, ký kết và thực
hiện hợp đồng thương mại là một quá trình mang tính logic và có giá trị to lớn để
đảm bảo rằng mục đích cao nhất trong hợp đồng thương mại là lợi nhuận tối ưu của
các bên sẽ được thực hiện trên thực tế.
Từ góc độ đó, tác giả đề xuất một cách hiểu về hợp đồng thương mại dựa
trên cách hiểu về hợp đồng hiện nay theo Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng thương
mại là sự thỏa thuận giữa các bên (trong đó có ít nhất một bên tham gia là thương
nhân) về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong
việc thực hiện các hoạt động thương mại”.
Cách định nghĩa này vừa phù hợp với định nghĩa của Bộ luật Dân sự 2015 về
hợp đồng, lại nêu lên được những đặc điểm riêng của hợp đồng thương mại so với
các loại hợp đồng khác đó là đặc điểm về chủ thể và đặc điểm về mục đích của hợp
đồng.
1.1.1.2.

Đặc điểm của hợp đồng thương mại

9


Hợp đồng thương mại về mặt bản chất cũng là một loại hợp đồng nên nó
cũng cần đáp ứng những đặc điểm cơ bản của hợp đồng như: có sự bình đẳng,
không phân biệt đối xử giữa các bên; việc giao kết, thực hiện, chấm dứt hay hủy bỏ

quyền, nghĩa vụ của các bên dựa trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận và
không được trái với điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không xâm phạm lợi ích
quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; các
bên tham gia hợp đồng cần có sự thiện chí và trung thực và phải tự chịu trách nhiệm
nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
Nhưng bên cạnh đó, hợp đồng thương mại cũng cần phải có những đặc điểm
riêng biệt để phân biệt nó với các loại hợp đồng khác như:
- Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể của hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại là thỏa thuận giữa các bên nhưng điểm đặc biệt ở đây
là ít nhất một bên trong đó là thương nhân. Ít nhất một bên tức là hợp đồng thương
mại có thể được kí kết giữa hai bên chủ thể là thương nhân hoặc có thể được kí kết
giữa một bên thương nhân với một bên chủ thể không phải là thương nhân.
Theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 thì thương nhân bao gồm: (1)
“tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp” và (2) “cá nhân hoạt động thương mại
một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh”. Theo đó, quy định của
Luật Thương mại 2005 đã xóa nhòa sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước với
nhà đầu tư nước ngoài. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân với tư cách là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài cần
đáp ứng các quy định về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và năng lực
hành vi thương mại đều có thể trở thành một bên chủ thể của hợp đồng thương mại.
Hợp đồng thương mại có thể có cả hai bên là thương nhân như hợp đồng đại
diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại…; tuy nhiên, cũng có thể chỉ
cần một bên có tư cách pháp nhân, bên còn lại không phải là thương nhân, ví dụ
hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư như hợp đồng BOT, BTO… thì một bên chủ thể bắt
buộc là cơ quan nhà nước có thẩm quyền (không phải là thương nhân) hoặc các hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa… thì bên
có nhu cầu sử dụng dịch vụ không nhất thiết phải là thương nhân [6, tr.462].
10



- Thứ hai, đặc điểm về mục đích của hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của các giao dịch trong hoạt động
thương mại, mà đặc điểm nổi bật nhất của hoạt động thương mại theo quy định của
Luật Thương mại 2005 là “mục đích sinh lợi”, chính vì thế một đặc điểm nổi bật
của hợp đồng thương mại đó là mục đích sinh lợi. Mục đích sinh lợi ở đây được ghi
nhận bằng lợi nhuận mà các bên có thể đạt được khi thực hiện hợp đồng không chỉ
về vật chất, tài sản mà còn bao gồm cả những lợi ích phi tài sản khác như uy tín,
thương hiệu doanh nghiệp hay niềm tin của khách hàng [6, tr.464].
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, có một bên chủ thể của hợp đồng lại
không có mục đích lợi nhuận khi tham gia hợp đồng. Pháp luật để điều chỉnh các
hợp đồng này sẽ do bên không có mục đích lợi nhuận lựa chọn, khi đó không phải
đương nhiên pháp luật thương mại được áp dụng mà còn phải do sự lựa chọn của
chủ thể tham gia hợp đồng. Quy định như vậy là do đối với các thương nhân khi họ
tham gia vào một hợp đồng thương mại với mục đích sinh lợi thì rõ ràng là họ đang
thực hiện một hoạt động thương mại, nên họ sẽ không thể có sự lựa chọn nào khác
ngoài việc chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại. Nhưng ngược lại, với bên
chủ thể tham gia hợp đồng không vì mục đích lợi nhuận thì hành vi của họ được coi
là một hành vi dân sự hơn là một hoạt động thương mại. Dựa trên thực tế rằng, các
quy định của pháp luật thương mại về hợp đồng thương mại thường “khắt khe” hơn
các quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng nói chung, thế nên để đảm bảo cho
quyền và lợi ích hợp pháp của bên chủ thể không vì mục đích lợi nhuận thì cho
phép họ là người chọn luật áp dụng. Chỉ khi họ chọn luật thương mại thì lúc đó
pháp luật thương mại mới điều chỉnh hợp đồng này.
- Thứ ba, đặc điểm về hình thức của hợp đồng thương mại
Trong Luật Thương mại 2005 không có một điều khoản riêng biệt nào quy
định về hình thức của hợp đồng thương mại mà quy định về hình thức hợp đồng
nằm rải rác trong quy định về từng loại hợp đồng thương mại cụ thể. Nhìn chung
hình thức của các loại hợp đồng thương mại do các bên lựa chọn trong ba hình thức:
(1) văn bản và các hình thức có giá trị tương đương văn bản như điện báo, telex,
fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác; (2) lời nói và (3) hành vi cụ thể. Quy

11


định này nhìn chung khá tương tự với quy định về hình thức của hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự 2015, tức là nhìn chung quy định về hình thức của hợp đồng thương
mại không khác gì với hình thức của hợp đồng nói chung.
Tuy nhiên, để đảm bảo nâng cao tính chặt chẽ của hợp đồng, lợi ích của các
bên và hạn chế những rủi ro có nguy cơ xảy ra, đối với một số loại hợp đồng thương
mại, pháp luật thương mại quy định hình thức của hợp đồng bắt buộc phải được thể
hiện dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương, ví dụ như đối với hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa hay hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài (Điều 27, Điều 159
và Điều 168 Luật Thương mại 2005).
1.1.2. Chấm dứt hợp đồng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của chấm dứt hợp đồng thương mại
a. Khái niệm
Xét về mặt ngữ nghĩa, khái niệm “chấm dứt hợp đồng” được cấu thành bởi
hai từ đơn là “chấm dứt” và “hợp đồng”. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chấm dứt” là
một động từ có nghĩa “làm cho ngừng hẳn, thôi hẳn” [33]; còn “hợp đồng” là sự
thỏa thuận, giao ước giữa hai hay nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của
các bên tham gia, thường được viết thành văn bản [33]. Gộp chung nội hàm của hai
từ “chấm dứt” và “hợp đồng” kể trên, có thể hiểu chấm dứt hợp đồng là sự ngừng
(dừng) hẳn việc thực hiện các thỏa thuận, giao ước đã được các chủ thể đưa ra và
thống nhất trước đó.
Xét về mặt pháp lý, Bộ luật dân sự, văn bản luật quy định các vấn đề chung
nhất về hợp đồng, không định nghĩa chấm dứt hợp đồng là gì mà chỉ quy định theo
hướng liệt kê các trường hợp chấm dứt hợp đồng tại Điều 422 bao gồm: “Hợp đồng
đã được hoàn thành; Theo thỏa thuận của các bên; Cá nhân giao kết hợp đồng chết,
pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân,
pháp nhân đó thực hiện; Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;

Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn; Hợp
đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này; Trường hợp khác do
luật quy định”. Trước đó, Điều 385 BLDS đưa ra định nghĩa về hợp đồng là “sự
12


thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Từ đó có thể hiểu thuật ngữ “chấm dứt hợp đồng” tại Điều 422 là thuật
ngữ được sử dụng để miêu tả sự ngừng lại việc thực hiện những quyền và nghĩa vụ
dân sự đã thỏa thuận hay nói cách khác đây là thuật ngữ dùng để miêu tả việc hiệu
lực của hợp đồng không còn.
Liên quan đến khái niệm chấm dứt hợp đồng, pháp luật của các quốc gia trên
thế giới có rất nhiều thuật ngữ pháp lý tương tự được sử dụng như “triệt tiêu hợp
đồng”, “chấm dứt hợp đồng”, “hủy bỏ hợp đồng” hay “hết hiệu lực hợp đồng”…
Trong đó hai thuật ngữ “chấm dứt hợp đồng” và “hủy bỏ hợp đồng” được sử dụng
phổ biến nhất để nói đến các trường hợp làm cho hợp đồng không còn hiệu lực. Tuy
nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia lại có cách hiểu và cách quy định không giống
nhau về chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng. Ví dụ theo pháp luật hợp đồng của
Anh, chấm dứt hợp đồng bao gồm bốn trường hợp là hợp đồng đã được hoàn thành
(performance), hợp đồng không thể thực hiện được (frustration), vi phạm hợp đồng
(breach) và chấm dứt theo sự thỏa thuận của các bên (agreement) [31, tr.378]; pháp
luật hợp đồng của Mỹ thì chia chấm dứt hợp đồng thành năm trường hợp gồm: (i)
Chấm dứt do hoàn thành hợp đồng (discharge by performance), (ii) Chấm dứt hợp
đồng theo thỏa thuận (discharge by agreement), (iii) Chấm dứt do thay thế nghĩa vụ
(discharge by substitute contract), (iv) Chấm dứt hợp đồng theo bản kê nợ
(discharge by account stated) [31, tr.388]; Không giống như cách phân chia trong
pháp luật Anh và pháp luật Mỹ, Bộ luật Dân sự Pháp đã ghi nhận rất rõ các trường
hợp chấm dứt hợp đồng qua quy định về chấm dứt nghĩa vụ. Các trường hợp này
được liệt kê tại Điều 1234 và quy định cụ thể tại Chương V Thiên III quyển thứ ba.
Theo đó, hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau: (i) Do nghĩa vụ đã được

thực hiện, (ii) Do nghĩa vụ được thay thế bằng hợp đồng khác, (iii) Do bên có quyền
miễn thực hiện nghĩa vụ của bên kia, (iv) Do bù trừ nghĩa vụ, (v) Do người có
quyền và người có nghĩa vụ hòa nhập làm một, (vi) Do vật là đối tượng của nghĩa
vụ không còn, (vii) Do bị hủy bỏ [31, tr.393].
Trong khi việc sử dụng thuật ngữ “hủy bỏ hợp đồng” hầu như không có tranh
cãi, thì thuật ngữ “chấm dứt hợp đồng” vẫn còn những cách sử dụng khác nhau [30,
13


tr.60]. Trong khoa học pháp lý “hủy bỏ hợp đồng” được sử dụng như một hình thức
chế tài, có hiệu lực hồi tố, tức là khi hợp đồng bị hủy bỏ, mối quan hệ của các bên
quay trở lại trạng thái ban đầu, như chưa hề có mối quan hệ hợp đồng xảy ra. Thuật
ngữ “chấm dứt hợp đồng” có thể được sử dụng theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng,
chấm dứt hợp đồng là toàn bộ các trường hợp làm kết thúc hiệu lực của hợp đồng,
bao hàm cả hủy bỏ hợp đồng; theo nghĩa hẹp, chấm dứt hợp đồng làm hợp đồng mất
hiệu lực từ thời điểm chấm dứt hợp đồng, phân biệt với hủy bỏ hợp đồng.
Ranh giới căn bản giữa “hủy bỏ hợp đồng” và “chấm dứt hợp đồng” trong đa
phần các hệ thống pháp luật, đôi khi, dựa trên cách thức thực hiện, nhưng chủ yếu
vẫn là dựa vào hệ quả của chúng: hệ quả cảu việc chấm dứt hợp đồng chỉ có giá trị
trong tương lai, trong khi đó, về nguyên tắc, hủy bỏ hợp đồng mang tính tài phán và
thường kéo theo sư triệt tiêu hiệu lực ngay từ đầu (hồi tố) của hợp đồng.
Trong khi đó, pháp luật dân sự Việt Nam có sự phân biệt rõ ràng giữa hai
khái niệm “chấm dứt hợp đồng” và “hủy bỏ hợp đồng”. Điều 423 BLDS 2015 quy
định các trường hợp chấm dứt hợp đồng bao hàm hủy bỏ hợp đồng. Theo đó, “hủy
bỏ hợp đồng” là một trong số các trường hợp làm chấm dứt hợp đồng. Như vậy,
chấm dứt hợp đồng, theo pháp luật dân sự Việt Nam, là các tình huống dẫn đến kết
thúc hiệu lực của hợp đồng có thể từ thời điểm hợp đồng chưa có hiệu lực (giá trị
hồi tố) hoặc từ thời điểm xảy ra các căn cứ chấm dứt hợp đồng.
b. Đặc điểm
Thứ nhất, về căn cứ chấm dứt: Khác với các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ

thông thường có thể được chấm dứt trên cơ sở của một trong 11 căn cứ được quy
định tại Điều 372 BLDS 2015. Việc chấm dứt hợp đồng chỉ dựa theo một trong 7
căn cứ tại Điều 422 BLDS 2015. Theo đó, phạm vi các căn cứ chấm dứt hợp đồng
bị thu hẹp hơn rất nhiều so với các căn cứ làm chấm dứt nghĩa vụ nói chung. Điều
này có ý nghĩa nhằm hạn chế sự tùy tiện trong việc chấm dứt hợp đồng của các bên,
khuyến khích các bên lựa chọn phương án phù hợp hơn để tiếp tục thực hiện hợp
đồng, thay vì chấm dứt hợp đồng.
Thứ hai, về tính chất: việc chấm dứt hợp đồng có thể hiểu là một giai đoạn
của quá trình giao kết, thực hiện và kết thúc hợp đồng. Tuy nhiên, trong Luật
14


thương mại, việc chấm dứt hợp đồng còn được hiểu như là một trong những chế tài
mà bên bị vi phạm được quyền áp dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, về hậu quả pháp lý: việc chấm dứt hợp đồng bản chất là làm dừng lại
hiệu lực của hợp đồng. Theo đó, các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể sẽ dừng
lại hoặc có thể không phát sinh hiệu lực tùy vào từng trường hợp chấm dứt.
Thứ tư, về mục đích: Việc chấm dứt hợp đồng nhằm nhiều mục đích khác
nhau. Nó có thể nhằm làm kết thúc một quan hệ nghĩa vụ do đã được hoàn thành,
nhưng việc chấm dứt đó cũng có thể nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên chủ thể hợp đồng do việc tiếp tục thực hiện hợp đồng rất có thể sẽ
gây thiệt hại cho các bên; Trong một số trường hợp, việc chấm dứt này còn có thể
do hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện được nên buộc phải chấm dứt.
1.1.2.2. Phân loại chấm dứt hợp đồng
- Căn cứ vào ý chí của các bên đối với việc chấm dứt hợp đồng mà các
trường hợp chấm dứt hợp đồng được chia thành ba nhóm cơ bản:
+ Nhóm thứ nhất: Nhóm các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo ý chí của
cả hai bên đối tác. Đó là hai trường hợp sau:
Khi hợp đồng được hoàn thành: Việc thực hiện hợp đồng là thực hiện những

nghĩa vụ mà các bên cam kết trong hợp đồng. Khi các bên đã tự nguyện thực hiện
xong toàn bộ nghĩa vụ của mình một cách chu đáo, đúng như yêu cầu, thì sẽ giải
thoát mình khỏi sự ràng buộc pháp lý của hợp đồng. Hợp đồng khi đó được coi là
thực hiện xong và chấm dứt. Đât là trường hợp phổ biến nhất làm chấm dứt hợp
đồng [28].
Theo thỏa thuận của các bên: Theo nguyên tắc chung, các bên hoàn toàn có
quyền tự thỏa thuận xác lập hợp đồng cũng như tự thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.
Trong một số trường hợp, mặc dù các nghĩa vụ của hợp đồng chưa được thực hiện
xong, nhưng do nhu cầu khách quan thay đổi, các bên vẫn có thể thỏa thuận lại với
nhau chấm dứt hợp đồng ngay mà không cần phải chờ đến khi thực hiện xong. Khi
đó, theo thỏa thuận, các bên được giải thoát không phải thực hiện tiếp các nghĩa vụ
còn lại. Hợp đồng đến đây chấm dứt.
15


+ Nhóm thứ hai: Các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo ý chí của một bên
đối tác. Nhóm này gồm ba trường hợp là theo bản chất của hợp đồng.
+ Nhóm thứ ba: Các trường hợp chấm dứt hợp đồng không theo ý chí của các
bên đối tác. Đây là những trường hợp xảy ra do các sự biến khách quan ảnh hưởng
tới. Các bên khi giao kết hợp đồn không dự liệu trước những sự biến đó và khi sự
biến đó xảy ra thì các bên cũng không khắc phục được để có thể thực hiện tiếp hợp
đồng.
- Căn cứ vào thời điểm chấm dứt: hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm xác
lập, sau khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng và chấm dứt hợp đồng trước khi hết
thời hạn thực hiện hợp đồng. Hợp đồng chấm dứt hiệu lực sau khi hết thời hạn là
trường hợp hợp đồng đã được hoàn thành (khoản 1 Điều 422). Trong các căn cứ
chấm dứt hợp đồng tại Điều 422 BLDS 2015 thì chỉ có duy nhất trường hợp hủy bỏ
hợp đồng làm cho hợp đồng chấm dứt kể từ khi hợp đồng được xác lập (khoản 4);
Các trường hợp còn lại đều làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm
hợp đồng hết hiệu lực.

- Căn cứ vào sự vi phạm của bên đối tác: hợp đồng chấm dứt do có sự vi
phạm của bên đối tác và không có sự vi phạm của bên đối tác. Hầu hết các căn cứ
chấm dứt hợp đồng tại Điều 422 BLDS 2015 đều là các trường hợp chấm dứt hợp
đồng không có sự vi phạm của bên đối tác, trừ trường hợp hủy bỏ hợp đồng. Tuy
nhiên, trong quy định của Luật Thương mại năm 2005 thì hầu hết các trường hợp
chấm dứt hợp đồng được dự liệu trong Luật đều là các trường hợp chấm dứt do sự
vi phạm của đối tác (hủy bỏ hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng). Đây được coi
là những chế tài mà bên bị vi phạm có thể sử dụng để áp dụng đối với bên vi phạm
nghĩa vụ do không thực hiện đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc chấm dứt hợp đồng thương mại
Thứ nhất, quy định về việc chấm dứt hợp đồng thương mại giúp các chủ thể
xác định được thời điểm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Về
nguyên tắc quá trình giao kết, thực hiên hợp đồng thương mại được dựa trên cơ sở
của nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyện thỏa thuận được quy định trong Bộ luật
dân sự. Thực tế khi các bên của quan hệ hợp đồng tuân thủ và thực hiện nghiêm
16


chỉnh các nguyên tắc kể trên thì hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực và được thực hiện
bình thường cho đến khi hết thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng và chấm dứt là điều
hiển nhiên. Điều này hoàn toàn giống với mục đích mà các chủ thể hợp đồng đề ra
khi xác lập hợp đồng.
Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan trong
quan hệ hợp đồng đã được giao kết trong trường hợp vì lí do khách quan không
mong muốn và không thể dự liệu trước mà hợp đồng thương mại bị rơi vào trường
hợp phải chấm dứt (dừng hiệu lực trước khi hết thời hạn). Điều này nằm ngoài
mong muốn của các bên. Trong những trường hợp này, ít nhiều lợi ích của các bên
sẽ có thể bị ảnh hưởng. Bởi vậy, đặt ra yêu cầu nếu các bên muốn dừng hiệu lực của
hợp đồng trước thời hạn để bảo vệ quyền lợi của mình trước rủi ro có thể xảy đến.
Thứ ba, việc BLDS và Luật Thương mại cho phép bên bị vi phạm được

quyền hủy bỏ hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng (đình chỉ thực
hiện hợp đồng) còn đảm bảo việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trên thực tế,
hạn chế tình trạng cố ý vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng gây thiệt hại cho đối tác.
Qua đó, điều này còn gián tiếp bảo vệ các chuẩn mực ứng xử được pháp luật dự liệu
trong pháp luật hợp đồng từ giai đoạn giao kết đến thực hiện hợp đồng. Bởi lẽ, Pháp
luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của
nhà nước. Khi một quy định pháp luật được ban hành đồng nghĩa với việc Nhà nước
đưa ra một chuẩn mực ứng xử chung bắt buộc các chủ thể trong xã hội phải tuân thủ
đầy đủ và chính xác.
Thứ tư, quy định về hậu quả pháp lý trong các trường hợp chấm dứt hợp
đồng theo hướng giống như hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu (trong trường hợp hủy bỏ
hợp đồng) – hai bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu có lỗi phải bồi
thường thiệt hại còn có tính răn đe các bên hợp đồng, hạn chế sự vi phạm pháp luật
nhằm gây thiệt hại cho đối tác do việc hoàn trả này trên thực tế rất khó thực hiện.
1.1.2.4. Những yếu tố tác động đến việc chấm dứt hợp đồng thương mại
Thứ nhất, các yếu tố khách quan bao gồm: các quy định của pháp luật; sự
thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội; điều kiện tự nhiên… Tất cả các yếu tố này
tác động rất lớn tới việc chấm dứt hợp đồng thương mại ở các góc độ khác nhau.
17


Bởi lẽ, trong các căn cứ làm chấm dứt hợp đồng thì hầu hết đều là các căn cứ được
xây dựng từ những ảnh hưởng của ngoại cảnh tới việc thực hiện hợp đồng. Ví dụ
như chấm dứt hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản, chấm dứt do đối tượng của
hợp đồng không còn, do chủ thể của hợp đồng là cá nhân chết, pháp nhân bị tuyên
bố giải thể (gọi chung là không còn tồn tại trước khi kết thúc thời hạn thực hiện hợp
đồng). Đây là những yếu tố nằm ngoài dự liệu của chủ thể khi giao kết hợp đồng,
các bên khi xác lập đều không mong muốn các yếu tố này xảy ra. Tuy nhiên, pháp
luật quy định khi các căn cứ này xảy ra thì hợp đồng phải chấm dứt. Đồng nghĩa với
việc quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không thể tiếp tục được thực hiện. Do đó, có

thể nói các yếu tố ngoại cảnh (khách quan) là những yếu tố rất quan trọng tới việc
chấm dứt hợp đồng thương mại, đặc biệt là các quy định của pháp luật. Bởi nếu các
quy định của pháp luật rõ ràng, tiến bộ, dự liệu được đầy đủ các trường hợp có thể
xảy ra làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng thì sẽ hạn chế tối đa các tranh chấp nảy
sinh liên quan tới việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng thương mại.
Thứ hai, các yếu tố chủ quan xuất phát từ ý chí của các chủ thể của hợp đồng.
Thực tế cho thấy các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo sự thỏa thuận, hủy bỏ và
đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là những căn cứ chấm dứt hợp đồng phổ
biến nhất. Trong các yếu tố chủ quan thì nhận thức của các bên về việc thực hiện và
chấm dứt hợp đồng là yếu tố quan trọng nhất làm chấm dứt hợp đồng. Nếu các bên có
kiến thức pháp luật vững chắc, nhận thức được tầm quan trọng và hậu quả pháp lý có
thể xảy đến của việc chấm dứt hợp đồng thì hậu quả xảy ra cho các bên sẽ được giảm
thiểu và ngược lại. Bởi vậy, theo ý kiến của tác giả việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
ý thức pháp luật cho các thương nhân trong quan hệ thương mại là điều hết sức cần
thiết. Bên cạnh đó, việc nâng cao kiến thức pháp lý và thực tiễn cho đội ngũ cán bộ
Tòa án cũng có vai trò rất quan trọng đối với vấn đề chấm dứt hợp đồng, đặc biệt là
trong trường hợp tuyên bố chấm dứt hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản và giải
quyết tranh chấp hợp đồng phát sinh giữa các bên.
1.1.2.5. Sự tương đồng và khác biệt về chấm dứt hợp đồng thương mại với
chấm dứt một số hợp đồng khác

18


Khái niệm hợp đồng được nhắc đến tại Điều 385 BLDS 2015 để chỉ các thỏa
thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự nói chung.
Phạm vi các quyền, nghĩa vụ dân sự theo quy định tại Điều 1 BLDS 2005 là những
quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ
được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách
nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự). Theo quy định này, các quan hệ dân

sự ở đây có phạm vi rất rộng, bao trùm cả các giao lưu dân sự nói chung, đến các
quan hệ lao động, kinh doanh – thương mại, đất đai, hôn nhân và gia đình… Bởi
vậy, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động, hợp đồng dân sự cũng được coi là
một trong những loại hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS. Do đó, việc
chấm dứt hợp đồng thương mại luôn mang một số đặc điểm tương đồng với các loại
hợp đồng khác như: cùng áp dụng các căn cứ chấm dứt chung tại Bộ luật Dân sự;
cùng làm ngừng lại việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể; làm phát sinh
các nghĩa vụ mới giữa các chủ thể sau khi hợp đồng chấm dứt… Tuy nhiên, do tính
chất đặc thù của quan hệ thương mại, nên việc chấm dứt hợp đồng thương mại luôn
có những điểm khác biệt điển hình, đó là:
Một là, về căn cứ chấm dứt: hợp đồng thương mại do các thương nhân xác
lập nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận thì khi chấm dứt sẽ phải tuân theo các căn cứ
riêng được quy định trong Luật Thương mại. Trong khi đó, việc chấm dứt hợp đồng
lao động, hợp đồng dân sự khác không mang trong mình đặc điểm của hợp đồng
thương mại thì không thể áp dụng các căn cứ nêu trong Luật Thương mại để giải
quyết, mà phải áp dụng các căn cứ của pháp luật chuyên ngành khác tương ứng như
Bộ luật Lao động, Luật Đất đai…
Hai là, về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng: so sánh giữa hậu quả
pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng thương mại với hợp đồng lao động, ta có thể
thấy ngay sự khác biệt. Nếu việc chấm dứt hợp đồng thương mại làm kết thúc
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thương mại (trao đổi, mua bán
nhằm tìm kiếm lợi nhuận) thì việc chấm dứt hợp đồng lao động sẽ làm kết thúc
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động trong quan hệ
trao đổi, mua bán sức lao động.
19


1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc chấm dứt hợp đồng thương mại
* Mức độ hoàn thiện của pháp luật dân sự và thương mại về chấm dứt hợp đồng
Mức độ hoàn thiện của pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của hợp

đồng. Nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật đối với vấn đề chấm dứt hợp
đồng, ngay từ BLDS năm 1995, tới BLDS 2005, BLDS 2015 và Luật Thương mại
năm 2005 đều đã đưa ra những quy định cụ thể về việc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.
Theo đó, các quy định về chấm dứt hợp đồng trong các văn bản pháp luật kể trên
được quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh
của pháp luật về chấm dứt hợp đồng trên thực tế.
Tuy nhiên, do các quan hệ xã hội đặc biệt là các quan hệ hợp đồng luôn luôn
tồn tại ở trạng thái động, không ngừng biến đổi và phức tạp. Do đó, pháp luật đôi
khi còn lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội, dẫn đến các chủ thể của hợp đồng còn
nhiều bỡ ngỡ, lúng túng khi rơi vào trường hợp cần phải chấm dứt hợp đồng nhưng
vẫn băn khoăn về việc mình có được/có quyền chấm dứt hợp đồng đã giao kết hay
không? Nếu chấm dứt thì hậu quả pháp lý của hợp đồng đã giao kết sẽ giải quyết
như thế nào?... Từ đó có thể thấy mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật về
chấm dứt hợp đồng có ảnh hưởng rất lớn tới việc chấm dứt hợp đồng thương mại.
* Tính chất và sự phát triển của nền kinh tế
Hoạt động thương mại luôn vận động và không ngừng biến đổi ngày càng
phong phú, phức tạp. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tham gia vào Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương… các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với những biến đổi
rất lớn của điều kiện kinh tế mới. Để đảm bảo phát triển bền vững, ổn định, các
doanh nghiệp phải thường xuyên cập nhật và thích ứng với những biến đổi của nền
kinh tế như lạm phát, giá cả tăng cao, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng thường
xuyên biến đổi, ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế… Những yếu tố
khách quan đó thường xuyên tác động tới hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt
trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Nếu các doanh nghiệp không nhanh
nhạy trước những biến đổi này thì rất dễ dẫn tới việc phải chấm dứt hợp đồng sớm

20



×