Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Phát triển dịch vụ y tế chăm sóc người HIVAIDS ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.66 KB, 92 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

HOÀNG TUYẾT ANH

PHÁT TRIỂN
DỊCHANH
VỤ Y TẾ
HOÀNG TUYẾT
CHĂM SÓC NGƯỜI HIV/AIDS
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ
CHĂM SÓC NGƯỜI HIV/AIDS
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA
HỌC:
PGS. TS PHẠM THỊ KHANH
HÀ NỘI
– 2014

HÀ NỘI - 2014


2



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt


3
Acquired Immune Deficiency Syndrome
Anti-retroviral
Thuốc trị HIV
Bao cao su
Bơm kim tiêm
Chỉ số 1 loại tế bào phát hiện HIV
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh
Tổng sản phẩm quốc nội
Human Immunodeficiency Virus
Chỉ số đánh giá hạnh phúc của con người
Giám sát trọng điểm HIV lồng ghép hành vi
Cơ quan Hợp tác Quốc Tế Nhật Bản
Ngân sách nhà nước
Nhiễm trùng cơ hội
Nghị quyết trung ương
Tổ chức phi chính phủ
Viện trợ nước ngoài không hoàn lại
Phòng khám ngoại trú
Trung tâm phòng chống
Trung tâm y tế
Y tế công cộng
Thương binh xã hội

Thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh
Ủy ban nhân dân
Chương trình phát triển liên hợp quốc
Tổ chức Y tế thế giới

AIDS
ARV
AZT
BCS
BKT
CD4
CDC
GDP
HIV
HPI
HSS+
JICA
NSNN
NTCH
NQ-TW
NGO
ODA
PKNT
TTPC
TTYT
YTCC
TBXH
TP
TPHCM

UBND
UNDP
WHO

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
12
DỊCH VỤ Y TẾ CHĂM SÓC NGƯỜI CÓ HIV/AIDS
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết phát triển dịch vụ y tế
12
chăm sóc người có HIV/AIDS
1.2.
Nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ Y tế
20
chăm sóc người có HIV/AIDS
1.3.
Kinh nghiệm của một số thành phố về phát phát huy vai trò
26
của dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS và bài học
rút ra đối với Thành phố Hà Nội


4
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ CHĂM
SÓC NGƯỜI CÓ HIV/AIDS Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của Thành phố Hà Nội
ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS
2.2.
Thành tựu, hạn chế phát triển các dịch vụ Y tế chăm sóc
người có HIV/AIDS tại Thành phố Hà Nội thời gian qua
2.3.
Đánh giá chung về phát triển các dịch vụ y tế chăm sóc
người có HIV/AIDS tại Thành phố Hà Nội thời gian qua
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y
TẾ CHĂM SÓC NGƯỜI CÓ HIV/AIDS Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1.
Phương hướng phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội
3.2.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát huy vai trò
của dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS ở Thành
phố Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

37
37

40
50
65


65
69

83
85
89


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự phát triển ngày nay, khoa học - kỹ thuật ngày một hiện đại
cũng là điều kiện để phát triển lĩnh vực y tế theo kịp và đáp ứng nhu cầu đa
dạng của con người. Không chỉ khi mắc bệnh thì con người mới có nhu cầu
được chạy chữa mà chăm sóc sức khoẻ ban đầu lại là hết sức quan trọng. Khi
nhu cầu của con người tăng lên, theo đó thì vai trò của dịch vụ Y tế cũng ngày
càng quan trọng.
Chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá và đa dạng hoá Ngành Y tế Việt Nam,
với việc coi “Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng và
của mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và chính quyền, các
đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành Y tế giữ vai trò nòng
cốt” (Nghị quyết 04/NQ-TW năm 2003) đã trở thành một điều kiện tiền đề
quan trọng trong quá trình đổi mới hoạt động cung ứng dịch vụ Y tế ở Việt
Nam. Mục tiêu của chủ trương xã hội hoá dịch vụ Y tế là nhằm huy động các
nguồn lực (vốn, tài sản, sức lao động, trí tuệ,…) trong toàn xã hội tham gia
đóng góp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân, đặc biệt là đối
tượng chính sách và người nghèo, tiếp cận được với các dịch vụ Y tế cơ bản và
có chất lượng, đẩy mạnh phát triển dịch vụ y tế theo hướng hiện đại, bền vững.
Trên thực tế, dịch vụ Y tế ở Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể

vào việc cải thiện sức khoẻ cho mọi người, nâng cao chất lượng phục vụ, đáp
ứng một phần nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Tuy nhiên, dịch vụ Y
tế ở Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định, đặc biệt là dịch vụ Y tế chăm
sóc người có HIV/AIDS.
Tính đến nay, tại Việt Nam đã phát hiện 213.413 người nhiễm HIV còn
sống, trong đó có 63.373 người đang ở trong giai đoạn AIDS; lũy tích tử vong
do HIV/AIDS là 65.133 người. Tại riêng thành phố Hà Nội, số người bị bệnh


6
HIV là 13.280 người và dự tính con số này sẽ càng gia tăng trong thời gian
tới. Việc phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc bệnh nhân HIV là điều cấp thiết, tuy
nhiên, dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS lại còn nhiều khó khăn.
Mặc dù Thành phố Hà Nội có nhiều cố gắng đầu tư phát triển các dịch vụ
Y tế với chăm sóc sức khỏe những người nhiễm HIV/AIDS đã thu được những
kết quả nhất định. Tuy nhiên, đánh giá khách quan phải thấy rằng, dịch vụ y tế
chăm sóc người có HIV/AIDS còn khá hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn. Với mong muốn đưa ra những giải pháp góp phần phát huy hơn nữa những
vai trò của các dịch vụ Y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người
nhễm HIV/AIDS và giảm tỉ lệ lây nhiễm HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội trong
thời gian tới, học viên lựa chọn chủ đề: “Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc
người HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển dịch vụ y tế nói
chung, phát triển dịch vụ y tế chăm sóc người có HIV/AIDS nói riêng. Trong
đó, nổi bật là những công trình sau đây:
- Hoàng Hà Trang (2010), Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải
Dương, Luận văn thạc sỹ, Đại học Đà Nẵng, thành phố Đà Nẵng.
Luận văn đã phân tích thực trạng dịch vụ Y tế trên địa bàn Hải Dương
giai đoạn 2008-2010, từ đó đưa ra có những ưu điểm, nhược điểm và đề xuất

các giải pháp nhằm nâng cao dịch vụ Y tế tại tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, luận
văn này chỉ tập trung vào phân tích thực trạng phát triển dịch vụ y tế nói
chung trên địa bàn tỉnh Hải Dương mà chưa đi sâu vào từng loại, nhóm dịch
vụ y tế cụ thể.
- Đào Thị Xuân Mỹ (2011), Phát triển dịch vụ y tế ở các huyện miền
núi tỉnh Quảng Ngãi, luân văn thạc sỹ kinh tế phát triển, Đại Học Đà Nẵng.


7
Luận văn đã phân tích thực trạng dịch vụ Y tế trong điều kiện khó khăn
về cơ sở vật chất, văn hóa, địa hình tại các tại các huyện miền núi Quảng
Ngãi, đồng thời đề xuất và kiến nghị để nâng cao đầu tư, phát triển dịch vụ tại
các huyện miền núi. Luận văn cũng chỉ đề cập tới thực trạng phát triển dịch
vụ y tế nói chung, chưa phân tích, đánh giá tới dịch vụ y tế công cộng một
cách riêng biệt.
- Chiến lược quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm
nhìn 2030 của Chính phủ.
Chiến lược quốc gia đã nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ trong phòng chống
HIV/AIDS. Phòng, chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ quan
trọng, lâu dài, cần có sự phối hợp liên ngành của tất cả các cấp ủy Đảng, các
Bộ, ngành, chính quyền các cấp và là bổn phận, trách nhiệm của mỗi người
dân, mỗi gia đình và mỗi cộng đồng. Phòng, chống HIV/AIDS phải dựa trên
nguyên tắc bảo đảm quyền con người, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với
người nhiễm HIV; chú trọng đến phụ nữ, trẻ em, các nhóm đối tượng dễ bị lây
nhiễm HIV, đồng bào dân tộc ít người và người dân sống ở vùng sâu, vùng xa,
khu vực biên giới, hải đảo. Bảo đảm thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng
đồng quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS. Muốn thực hiện được các mục tiêu
này, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng và chính quyền đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS. Tăng
cường hơn nữa của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác

phòng, chống HIV/AIDS. Chú trọng việc lồng ghép, phối hợp với các chương
trình phòng, chống tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo,
giới thiệu việc làm; tăng cường việc ký kết và nâng cao hiệu quả thực hiện kế
hoạch liên tịch giữa cơ quan nhà nước các cấp với các tổ chức chính trị - xã
hội cùng cấp, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn về phòng, chống
HIV/AIDS,....


8
- Hội thảo (2013), "Tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội
trong việc thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS" được tổ
chức ngày 24/9/2013 tại Hà Nội.
Hội thảo đưa ra vai trò của các tổ chức xã hội và thực tế về việc đóng
góp, ủng hộ và chiến đấu của các tổ chức trong xã hội trên mặt trận phòng
chống căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Trong đó, một trong những vấn đề quan
trọng là tăng cường sự tham gia của tổ chức xã hội trong việc nâng cao chất
lượng dịch vụ y tế trong việc thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống
HIV/AIDS. Tuy nhiên, hội thảo chưa làm rõ thực trạng dịch vụ y tế trong
chăm sóc người có HIV/AIDS một cách cụ thể.
- Văn Khôi (2011), Việt Nam tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng
điều trị và chăm sóc nhiễm HIV/AIDS, Báo cáo khoa học tại Hội nghị Điều trị
và chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV/AIDS, 2011.
Bài cáo cáo viết tổng quan về thực trạng và xu hướng phát triển điều trị
và chăm sóc bệnh nhân HIV tại Việt Nam và các đề xuất để nâng cao chất
lượng công tác trị bệnh cho người HIV/AIDS
- Lam Hồng (2013), Nhân rộng mô hình chăm sóc người nhiễm
HIV/AIDS tại gia đình và cộng đồng, Báo Nam Định, số 234, 2013.
Bài viết khái quát lên mô hình và cách chăm sóc người bệnh
HIV/AIDS, những khó khăn và thuận lợi, cũng như những kiến nghị để nhân
rộng mô hình trong toàn xã hội.

- Hữu Thủy (2012), Bảo hiểm y tế - Giải pháp bền vững trong chăm
sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV/AIDS.
Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả đề xuất giải pháp nhằm phát
huy vai trò của bảo hiểm y tế trong chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm
HIV/AIDS. Để tăng cường sự tham gia và sử dụng bảo hiểm y tế trong khám
chữa bệnh cho người nhiễm HIV đòi hỏi một giải pháp đồng bộ bao gồm việc


9
truyền thông để người nhiễm HIV hiểu được tầm quan trọng của bảo hiểm y
tế, quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia bảo hiểm y tế.
- Bác sỹ Huỳnh Ngọc Thu, Đẩy mạnh chăm sóc và điều trị người
nhiễm HIV/AIDS
Trong nghiên cứu của mình, tác giả đi sâu vào đề cuất những giải pháp
nhằm phát triển công tác chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS. Trung
tâm Phòng, chống HIV/AIDS đã từng bước nâng cao hiệu quả trong việc chăm
sóc, hỗ trợ và điều trị người nhiễm bằng cách chú trọng tập huấn, đào tạo trình
độ chuyên môn, kỹ năng tư vấn, đặc biệt là việc tiếp cận và quản lý người nhiễm
HIV cho đội ngũ cán bộ y tế từ tỉnh đến cơ sở; tăng cường hoạt động truyền
thông giới thiệu các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm như điều trị dự
phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, điều trị HIV/AIDS bằng thuốc kháng virút ARV, điều trị dự phòng HIV do rủi ro tai nạn nghề nghiệp; đẩy mạnh công tác
giám sát, rà soát và tiếp cận, quản lý bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS.
- Hải Ly, Những khó khăn thách thức của công tác chăm sóc điều trị
người nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Cao Bằng
Bài báo của tác giả đã đánh giá tình hình dịch bệnh HIV/AIDS tại tỉnh
Cao Bằng trong năm 2011. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá, phân tích những
nhận định khó khăn, thách thức trong công tác chăm sóc điều trị người nhiễm
HIV/AIDS trên địa bàn thời gian qua.
- Phạm Thị Cẩm Giang, Đỗ Mai Hoa (2011), Chăm sóc, hỗ trợ và điều
trị cho người nhiễm HIV/AIDS tại huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh

Chăm sóc, hỗ trợ và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao chât lượng cuộc sống của người nhiễm HIV
và góp phần giảm hậu quả do HIV/AIDS gây ra. Để tìm hiểu thực trạng công
tác chăm sóc, hỗ trợ và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS tại Tiên Du, Bắc
Ninh, nghiên cứu đã sử dụng số liệu hồi cứu và phương pháp nghiên cứu định


10
tính với các cán bộ y tế tham gia công tác phòng chống HIV/AIDS và người
nhiễm HIV. Kết quả cho thấy, với nguồn lực hạn chế, Tiên Du đã cung cấp
các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ cấp thiết cho người nhiễm HIV/AIDS, chủ yếu
thông qua y tế tuyến xã. Tuy nhiên các dịch vụ này vẫn còn nhiều bất cập, tồn
tại như: Cơ chế phối hợp chuyển gửi giữa các dịch vụ có liên quan chưa chặt
chẽ; Không có sự kết nối với phòng khám ngoại trú - nơi duy nhất thực hiện
điều trị thuốc kháng virrut (ARV) tại Bắc Ninh; Chất lượng hoạt động tại
tuyến xã chưa đồng đều và chưa đi vào chiều sâu; Dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ
cho người nhiễm chưa tận dụng nguồn lực từ cộng đồng và người nhiễm HIV;
Công tác chăm sóc, hỗ trợ điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS chưa được
chính quyền và các ban ngành quan tâm. Kết quả trên cho thấy Tiên Du cần
xây dựng kế hoạch cụ thể cho chương trình chăm sóc và điều trị HIV/AIDS
trong thời gian tới nhằm huy động thêm các nguồn lực cho việc chăm sóc hỗ
trợ cho người nhiễm. Việc thiết lập mạng lưới chăm sóc của những người có
H+ là việc nên sớm được thực hiện. Sự gắn kết giữa các dịch vụ không chỉ
trong phạm vi huyện mà với cả những huyện lân cận và tuyến tỉnh sẽ tạo
thuận lợi cho người nhiễm HIV tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ
và điêu trị HIV/AIDS phù hợp và cần thiết.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Phát triển dịch
vụ y tế chăm sóc người HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội” dưới góc độ khoa
học Kinh tế chính trị như một công trình nghiên cứu chuyên ngành.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và làm rõ hơn cơ sơ lý luận thực tiễn về dịch vụ
Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS; đánh giá đúng thực trạng trong phát triển
dịch vụ Y tế chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS luận văn đề xuất giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy vai trò dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS ở
Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.


11
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ Y tế
chăm sóc sức khỏe người HIV/AIDS bao gồm: Khái niệm, vai trò, đặc điểm
nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS.
- Tìm hiểu kinh nghiệm của một số Thành phố lớn trực thuộc Trung ương
về dịch vụ Y tế chăm sóc sức khỏe người HIV/AIDS và rút ra bài học đối với
Thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS, bao gồm những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ
Y tế chăm sóc người HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS dưới góc độ kinh tế chính trị, trong đó đi sâu vào nghiên cứu về
việc phát huy vai trò của các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm, điều trị đối với
người nhiễm HIV/AIDS. Đối tượng được luận văn nghiên cứu, khảo sát, điều
tra là những người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV/AIDS, những người đã
nhiễm HIV/AIDS, có hộ khẩu thường trú trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận văn nghiên cứu về phát triển dịch vụ Y tế chăm
sóc người có HIV/AIDS trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng phát triển dịch vụ Y tế
chăm sóc người có HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội từ năm 2006 đến năm
2013 và đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của việc phát triển dịch vụ Y tế
chăm sóc người có HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội tới năm 2020.


12
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn sử dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quyết định
đường lối của Đảng và Nhà nước, nghị quyết, quyết định của thành phố Hà
Nội về chăm sóc sức khỏe Y tế cộng đồng, trong đó có các nội dung liên quan
đến dịch vụ Y tế trong chăm sóc người có HIV/AIDS và chất lượng dịch vụ y
tế trong chăm sóc người có HIV/AIDS.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là
các phương pháp như sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn sử dụng nhiều các số liệu
thống kê của các ban ngành có liên quan. Trên cơ sở các số liệu được thu thập
và tổng hợp, luận văn phân tích, xử lý và làm rõ vấn đề HIV/AIDS, xu hướng
phát triển của vấn đề, thực trạng chăm sóc và chất lượng chăm sóc người có
HIV/AIDS, phân tích các tác động của chính sách đối với chăm sóc
người HIV/AIDS.
Phương pháp thống kê, so sánh: Nhiều tài liệu, báo cáo, sách, tạp chí
chuyên ngành trên tư liệu sách báo và Internet liên quan đến chăm sóc, chất
lượng chăm sóc người có HIV/AIDS và các chính sách về người HIV/AIDS
được tác giả thu thập và từ đó phân tích, so sánh đưa ra thực trạng
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Phương pháp trừu tượng hóa

khoa học đòi hỏi gạt bỏ khỏi quá trình và hiện tượng được nghiên cứu những
yếu tố đơn nhất, ngẫu nhiên, tạm thời để tách ra những cái điển hình, bền
vững, ổn định trên cơ sở ấy nắm được bản chấtcủa hiện tượng, hình thành
những phạm trù và những quy luật phản ánh những bản chất đó.
Phương pháp logic - lịch sử: Phương pháp là căn cứ để luận văn kế thừa
kết quả của các công trình nghiên cứu trước về vấn đề dịch vụ Y tế. Đồng thời
phương pháp là cơ sở để luận văn có sự liên kết trong toàn bộ bố cục của luận văn.


13
Thu thập thông tin: Tác giả thu thập thông tin từ các nguồn thông tin
như: Số liệu thống kê; Số liệu dự báo; Số liệu của các cuộc điều tra và các
nghiên cứu về người HIV/AIDS tại các cấp; Sách, báo, tạp chí trong và ngoài
nước; Thông tin từ mạng Internet; Các văn bản và định hướng của Nhà nước
trong các lĩnh vực liên quan đến đề tài.
Phương pháp chuyên gia: Tác giả tham vấn ý kiến của các chuyên gia
là các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định và thực hiện chính sách, các nhà
quản lý và chuyên gia chăm sóc người có HIV/AIDS tại các mô hình chăm
sóc người có HIV/AIDS tại cộng đồng.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đã góp phần xây dựng, làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận về phát
triển dịch vụ y tế chăm sóc người có HIV/AIDS, dưới góc độ kinh tế chính trị,
bao gồm: khái niệm, đặc điểm về dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS,
khái niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch vụ Y tế
chăm sóc người có HIV/AIDS.
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống về thực
trạng phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS trên địa bàn Thành
phố Hà Nội từ năm 2006 tới nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng và tìm hiểu
nguyên nhân, luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển dịch vụ Y
tế chăm sóc người có HIV/AIDS trên địa bàn Thành phố tới năm 2020.

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để phục vụ công tác nghiên cứu
giảng dạy môn Kinh tế chính trị và đồng thời góp phần vào việc hoạch định chính
sách phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS của Thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y
TẾ CHĂM SÓC NGƯỜI CÓ HIV/AIDS
1.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết phát triển dịch vụ y tế
chăm sóc người có HIV/AIDS
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm về dịch vụ
Dịch vụ là hoạt động lao động xã hội, tạo ra sản phẩm hàng hóa không
tồn tại dưới dạng vật chất (sản phẩm vô hình) nhằm đáp ứng nhu cầu sản
xuất và đời sống thuận lợi và hiệu quả hơn.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [24, tr256].
Theo quan niệm của Mác thì nhu cầu là đòi hỏi khách quan của mỗi con
người trong những điều kiện nhất định, đảm bảo cho sự sống và phát triển của
mình. C. Mác cho rằng : "Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng
hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông thông
suốt, trôi chảy, liên tục để thoả mãn nhu cần ngày càng cao đó của con người
thì dịch vụ ngày càng phát triển" [10, tr.576 - 577].
Như vậy, với định nghĩa trên, C. Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và sự
phát triển của dịch vụ, kinh tế hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ càng phát
triển mạnh. C. Mác cũng chỉ rõ một đặc tính của dịch vụ, đó là: "Trong những

trường hợp mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động không sản xuất
ra tư bản, tức là trao đổi lấy một lao động không sản xuất, thì lao động đó
được mua với tư cách là một sự phục vụ lao động đó cung cấp những sự
phục vụ không phải với tư cách là một đồ vật, mà với tư cách là một sự hoạt
động” [10, tr.576 - 577].


15
Như vậy, ta có thể hiểu dịch vụ theo nghĩa rộng là khái niệm chỉ toàn bộ
các hoạt động mà kết quả của chúng không tồn tại dưới hình dạng vật thể. Hoạt
động dịch vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh vực với trình độ cao, chi phối rất lớn
đến quá trình phát triển Kinh tế - Xã hội, môi trường của từng quốc gia, khu
vực nói riêng và toàn thế giới nói chung. Ở đây dịch vụ không chỉ bao gồm
những ngành truyền thống như: giao thông vận tải, du lịch, ngân hàng, thương
mại, bao hiểm, bưu chính viễn thông mà còn lan toả đến các lĩnh vực rất mới
như: dịch vụ văn hoá, hành chính, bảo vệ môi trường, dịch vụ tư vấn. Như vậy,
dịch vụ là những dạng hoạt động thuộc lĩnh vực, một ngành kinh tế.
Dịch vụ là một lĩnh vực rộng lớn, xuất hiện ở mọi mặt của đời sống
Kinh tế - Xã hội, trong đó có lĩnh vực Y tế, bởi vì:
Sức khỏe là nhân tố đặc biệt quan trọng hình thành thể chất của con
người. Theo WHO, sức khoẻ là một tình trạng hoàn toàn thoải mái cả về thể
chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh. Sức khỏe vừa là
phương tiện, vừa là mục tiêu của mọi quá trình phát triển. Đã từ lâu CSSK là
một trong số các yếu tố cấu thành cơ bản của hai chỉ tiêu quan trọng phản ánh
sự phát triển của quốc gia: chỉ số phát triển con người HDI và chỉ số nghèo khổ
HPI. HDI được UNDP sử dụng để đo lường chất lượng sống của con người ở
các quốc gia. Chỉ số này dựa trên 3chỉ tiêu: (1) tuổi thọ mong đợi; (2) trình độ
học vấn; (3) và điều kiện kinh tế (thu nhập bình quân đầu người).
Khái niệm dịch vụ y tế
Dịch vụ y tế là hoạt động lao động tương tác giữa người cung cấp dịch

vụ và khách hàng để đáp ứng nhu cầu về sức khoẻ như: khám chữa bệnh,
phòng bệnh, giáo dục sức khoẻ, tư vấn sức khoẻ.
Dịch vụ y tế là tất cả các loại hình dịch vụ chăm sóc, tư vấn liên quan
đến sức khoẻ con người. Các loại hình dịch vụ y tế phổ biến như là: Dịch vụ
khám, phòng chống và chữa bệnh, dịch vụ bảo hiểm y tế, hệ thống hành nghề
dược, y học cổ tuyền…


16
Các dịch vụ y tế mang tính chất của hàng hoá vì có nhu cầu, có người
cung cấp và có người sử dụng thì phải trả tiền (có thể người trả tiền là cá
nhân, có thể là tập thể, Nhà nước). Dịch vụ y tế mang tính chuyên môn cao
nên người tiêu dùng hoàn toàn bất lợi về mặt thông tin so với người bán (bệnh
nhân và bác sỹ). Với một số hàng hoá khác, người tiêu dùng có thể có hiểu
biết nhất định về sản phẩm hoặc có được thông tin về sản phẩm bằng kinh
nghiệm. Nhưng đối với Dịch vụ Y tế, người bệnh biết rất ít về hiệu quả hay
các hậu quả của điều trị, thậm chí người ta còn không biết mình bị ốm. Chính
vì thế, dịch vụ Y tế là loại hàng hoá mà người sử dụng (người bệnh) thường
không tự mình lựa chọn được mà chủ yếu do bên cung ứng (cơ sở y tế) quyết
định. Nói một cách khác, ngược lại với thông lệ “cầu quyết định cung”, trong
dịch vụ Y tế “cung quyết định cầu”. Người bệnh có nhu cầu KCB nhưng điều
trị bằng phương pháp nào, dùng loại thuốc hay dịch vụ gì và với thời gian
bao lâu lại do bác sĩ quyết định. Như vậy, người bệnh, chỉ có thể lựa chọn nơi
điều trị, ở một chừng mực nào đó, bác sĩ điều trị chứ không được chủ động
chọn lựa phương pháp điều trị.
Tuy nhiên, cũng giống như các loại hình dịch vụ khác, thì dịch vụ Y tế
là một ngành kinh tế. Nhưng ngành dịch vụ này có điều kiện, tức là có sự hạn
chế nhất định đối với sự gia nhập thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ Y
tế. Cụ thể, muốn cung ứng dịch vụ Y tế cần được cấp giấy phép hành nghề và
cần đảm bảo những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất. Nói một cách khác,

trong thị trường dịch vụ Y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo. Dịch vụ Y tế
là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan hệ với
nhau thông qua giá dịch vụ.
Khái niệm dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS
Dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS là hoạt động lao động, cung
cấp dịch vụ để đáp ứng nhu cầu về sức khoẻ liên quan tới đại dịch HIV/AIDS
như: khám chữa bệnh, phòng bệnh, giáo dục sức khoẻ, tư vấn sức khoẻ.


17
Như vây, dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS tiếp cận và hỗ trợ,
giúp cho người nhiễm hiểu rõ về bệnh tật và đấu tranh chống lại bệnh tật,
đồng thời tránh được lây nhiễm cho người khác. Dịch vụ Y tế với chăm sóc
người có HIV/AIDS là cung cấp cho cả người bị nhiễm và người chưa bị
nhiễm cơ hội để đề phòng lây nhiễm HIV và hình thành nên mối quan hệ tốt
giữa bệnh nhân - thầy thuốc - người chăm sóc. Do vậy, rất cần có một mạng
lưới chăm sóc. Mạng lưới này sẽ có nhiều người tham gia vào công tác chăm
sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS. Nếu lấy việc chăm sóc người nhiễm
là trung tâm, thì những người tham gia chăm sóc có thể là bản thân người
nhiễm, người thân trong gia đình, họ hàng, láng giềng, các tổ chức dựa vào
cộng đồng, nhân viên y tế... trong đó các cơ sở y tế sẽ đóng vai trò nòng cốt
trong việc hướng dẫn chăm sóc và tư vấn. Các cơ sở bệnh viện các tuyến sẽ là
mạng lưới trung chuyển hoặc điều trị cho những trường hợp nặng.
Khái niệm phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS
Phát triển dịch vụ Y tế
Sự phát triển nói chung được coi là quá trình vận động theo khuynh
hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Đó là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng của sự vật theo
hướng ngày càng hoàn thiện ở trình độ cao hơn. Dịch vụ Y tế là một loại dịch
vụ cơ bản, quan trọng đối với con người trong xã hội văn minh. Như vậy, phát

triển dịch vụ Y tế có thể được hiểu là sự gia tăng cả về lượng và về chất trong
các dịch vụ Y tế, chăm sóc sức khỏe nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân. Sự phát triển về lượng là sự tăng lên về số lượng, quy mô, khả
năng tiếp cận các dịch vụ Y tế của người dân, trong khi đó sự phát triển về
chất là sự tăng lên của chất lượng dịch vụ Y tế cung cấp.
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS là sự tác động
của Nhà nước, cán bộ y tế, gia đình, người bệnh và cả xã hội nhằm tạo ra sự


18
gia tăng cả về số lượng và chất lượng và cơ cấu của các dịch vụ Y tế trong
lĩnh vực chăm sóc người có HIV/AIDS nhằm giúp người bệnh ổn định và bảo
đảm sức khỏe.
Nội hàm khái niệm phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS thể hiện rõ :
Một là, phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS là sự gia
tăng về mặt số lượng các loại dịch vụ trong đó quan trọng nhất là phát triển
các dịch vụ: Dịch vụ tư vấn về HIV/AIDS, dịch vụ xét nghiệm HIV/AIDS và
dịch vụ điều trị HIV/AIDS.
Hai là, phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS phải đặc
biệt về mặt chất lượng. Người bị nhiễm HIV/AIDS được thoải mái về tinh
thần, yên tâm với sự tư vấn, xét nghiệm, điều trị của Bác sĩ, của cơ sở Y tế,
các dịch vụ đó dẫn đến người bệnh được khỏi bệnh, hòa nhập với cộng đồng...
1.1.2. Đặc điểm của phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS
Một là, một loại dịch vụ công cộng liên quan tới sức khỏe cộng đồng.
Dịch vụ Y tế với chăm sóc người có HIV/AIDS là một loại dịch vụ
công cộng liên quan tới sức khỏe cộng đồng. Do đó, phát triển dịch vụ Y tế
với chăm sóc người có HIV/AIDS chính là phát triển hệ thống Y tế mà dịch

vụ Y tế là loại dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, trong đó có người bị
nhiễm HIV/AIDS.
Y tế công cộng hay còn gọi là sức khỏe công cộng (Public Health) đề
cập đến những vấn đề sức khỏe của một quần thể, tình trạng sức khỏe của tập
thể, những dịch vụ vệ sinh môi trường, những dịch vụ Y tế tổng quát và quản
lý các dịch vụ chăm sóc. Từ công cộng ở đây nói lên tính chất chung cho số
đông, ngược với tính chất chăm sóc riêng lẻ cho từng bệnh nhân.
Theo WHO (11/1995) "Y tế công cộng là việc tổ chức các nỗ lực của xã


19
hội đến phát triển các chính sách sức khỏe công cộng, để tăng cường sức
khoẻ, để phòng bệnh và để nâng cao công bằng trong xã hội, trong khuôn khổ
sự phát triển bền vững".
Hai là, một loại dịch vụ chăm sóc những người cần có sự giúp đỡ của
người khác bao gồm: người có bệnh và người cần kiểm tra sức khỏe, người
thân và xã hội.
Người nhiễm HIV/AIDS là người nhiễm căn bệnh thế kỷ cho đến nay
chưa có các loại thuốc đặc trị, đảm bảo sức khỏe và sự sống cho người bệnh.
Chính vì vậy, các dịch vụ chăm sóc người có HIV/AIDS luôn tiềm ẩn nguy cơ
người bệnh không chữa khỏi. Do đó, phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc sức
khỏe người nhiễm HIV/AIDS phải có sứ giúp đỡ của người khác. Đó là nhân
viên y tế, người thân và cộng đồng xã hội.
Để phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS hiệu quả cần sự
quyết tâm cao của bản thân người bệnh và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Để dịch vụ Y tế với chăm sóc người có HIV/AIDS đạt hiệu quả cao cần
huy động sức mạnh của cả cộng đồng và cần sự quyết tâm cao của bản thân
người bệnh và chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, muốn điều trị tốt
cho những bệnh nhân này, cần có sự cố gắng, nỗ lực, quyết tâm cao của chính
bản thân người bệnh.

Ba là, một loại dịch vụ không hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận
Dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS là dịch vụ y tế dành cho
người liên quan tới đại dịch HIV/AIDS. Để có nguồn kinh phí phát triển dịch
vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS thông thường được Nhà nước trang trải
cùng với nguồn kinh phí được tài trợ từ quốc tế và các nguồn kinh phí hỗ trợ
khác. Người bệnh và các đối tượng khác được điều trị và tư vấn miễn phí mà
không phải trả tiền. Do đó có thể nói đây là loại dịch vụ không hoàn toàn vì


20
mục tiêu lợi nhuận.
1.1.3. Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS
Giữa phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS có mối quan
hệ biện chứng với phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ.
Thứ nhất, tính thống nhất giữa phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người
nhiễm HIV/AIDS với phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS hiệu quả, bền
vững sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội bởi vì:
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS đặc biệt là cho
người bị nhiễm HIV/AIDS nhằm đảm bảo nâng cao sức khỏe cho người bệnh
và cho cả cộng đồng, góp phần ổn định kinh tế, xã hội.
HIV/AIDS là căn bệnh thế kỷ, cho tới nay vẫn còn chưa có thuốc đặc
trị đảm bảo chữa khỏi bệnh và duy trì sự sống cho người nhiễm căn bệnh này.
Ngoài ra, thời gian ủ bệnh của căn bệnh này rất dài, với những triệu trứng khó
chuẩn đoán. Người ta chỉ có thể làm xét nghiệm máu mới có thể chuẩn đoán
người nhiễm HIV. Trong khi đó, nếu không có phát hiện bệnh kịp thời, bệnh
có thể diễn biến nhanh và có khả năng lây bệnh cho cộng đồng. Chính bởi
vậy, việc phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS nhằm phát
hiện sớm người nhiễm HIV/AIDS nhằm ổn định sức khỏe cho người bệnh,

đồng thời giảm và tránh lây lan cho cộng đồng.
Mặt khác, HIV/AIDS có con đường lây truyền bệnh thường gắn với các
tệ nạn xã hội là ma túy, mại dâm. Do vậy, việc phát triển dịch vụ Y tế chăm
sóc người có HIV/AIDS nhằm phát hiện sớm người nhiễm HIV/AIDS cũng
góp phần ổn định kinh tế, xã hội.
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS có thể đa dạng
hóa trong huy động các nguồn lực từ nhiều nguồn, nhiều tổ chức xã hội và các
cá nhân chăm sóc sức khỏe cho đối tượng bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân bị
nhiễm HIV/AIDS.


21
HIV/AIDS được thế giới ví là căn bệnh thế kỷ, chính vì vậy công tác
phòng chống HIV/AIDS nói chung và công tác chăm sóc người có HIV/AIDS
được rất nhiều tổ chức xã hội, cá nhân trong nước và nước ngoài quan tâm
phát triển. Hơn thế nữa, chi phí cho việc phòng tránh, điều trị người nhiễm
HIV/AIDS rất lớn, các đối tượng mắc bệnh thường gắn liền với các tệ nạn xã
hội, có hoàn cảnh khó khăn. Chính bởi vậy, để phát triển dịch vụ Y tế chăm
sóc người có HIV/AIDS cần phải huy động các nguồn lực từ nhiều nguồn.
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS giảm tải các bệnh
viện lớn, người bệnh được thuận tiện cho việc chăm sóc ...
Với số lượng người nhiễm căn bệnh thế kỷ các năm qua khá lớn, thời
gian bệnh diễn biến lâu dài. Do vậy, nếu không có dịch vụ Y tế chăm sóc
người có HIV/AIDS sẽ gây ra quá tải cho các bệnh viện. Hơn thế nữa, chăm
sóc sức khỏe cho người bệnh còn cần có sự chung tay góp sức của cả cộng
đồng để tránh miệt thị người bệnh, giúp cho người bệnh được yêu thương,
chăm sóc và chia sẻ, tác động tích cực tới quá trình chữa trị căn bệnh này.
Điều này cần có sự tham gia tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về chăm sóc
người có HIV/AIDS và cách phòng tránh cho cộng đồng xã hội.
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS sẽ thu một phần

phí tái tạo và đầu tư trở lại cơ sở vật chất, trang thiết bị Y tế, đặc biệt chăm
sóc cho người HIV/AIDS.
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS tạo nên khả năng
cạnh tranh giữa các cơ sở chăm sóc người có HIV/AIDS Nhà nước với nhau,
giữa các cơ sở của Nhà nước với tư nhân. Từ đó đem lại lợi ích (giá rẻ hơn)
cho người cần được cung cấp dịch vụ này.
Như vậy, việc phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc sức khỏe người nhiễm
HIV/AIDS tốt sẽ thúc đẩy chăm sóc sức khỏe bệnh nhân. Người bệnh lành
bệnh hoặc có sức khỏe khá ổn định xã hội không phải dành nguồn lực cho
chữa bệnh, nguồn lực để phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS. Nguồn lực đó dành để phát triển kinh tế. Mặt khác, người bệnh


22
được chữa khỏi hoặc ổn định sẽ tham gia vào quá trình phát triển Kinh tế - Xã
hội; góp phần và tạo ra giá trị cho xã hội; Xã hội ổn định, giảm hoặc không
còn tệ nạn xã hội nảy sinh từ căn bệnh HIV/AIDS ( ma túy, mại dâm, trộm
cắp...). Từ đó, nền kinh tế phát triển, xã hội phát triển văn minh, hiện đại.
Thứ hai, sự mâu thuẫn giữa phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS với phát triển kinh tế, xã hội
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS sẽ phải giành
nguồn lực để phát triển các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm, điều trị một căn bệnh
của thế kỷ. Do đó, các nguồn lực giành để đầu tư phát triển kinh tế và các
dịch vụ khác nhằm phát triển con người như: Giáo dục, hạ tầng kỹ thuật...bị
hạn chế dẫn đến xã hội khó phát triển.
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS đảm bảo công
bằng xã hội cho người mắc bệnh, nhưng đối với nước nghèo, nước đang phát
triển là rất khó đảm bảo
Phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS là chính sách
đúng đắn của Đảng, Nhà nước, nhưng chính sách luôn bị lạc hậu. Nếu không

tiếp tục đổi mới thì phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS sẽ
không hiệu quả, tác động tiêu cực đến người bệnh nói riêng, phát triển kinh tế
và ổn định xã hội nói chung.
1.2. Nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ Y tế
chăm sóc người có HIV/AIDS
1.2.1. Nội dung phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS
Một là, phát triển về số lượng các dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS
Phát triển về số lượng là phát triển về quy mô, số lượng dịch vụ Y tế
chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS. Số lượng người nhiễm HIV/AIDS đang có
nguy cơ ngày một gia tăng. Ngoài ra những người có nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn, xét nghiệm ngày càng tăng do
sức ép của gia tăng của dân số, của đô thị hóa, phát triển kinh tế kéo theo


23
những hệ lụy về tệ nạn xã hội. Do đó, yêu cầu về phát triển về mặt lượng của
dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS rất cấp thiết.
Phát triển về số lượng dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS được
đánh giá thông qua các tiêu chí sau:
Sự gia tăng về số lượng người được tiếp cận với dịch vụ Y tế chăm sóc
người có HIV/AIDS. Đó cũng là sự gia tăng về số lượng người được cụ thế
hóa đối với dịch vụ loại dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS, bao gồm
dịch vụ tư vấn, xét nghiệm, chữa trị.
Sự gia tăng về số lượng cơ sở cung ứng dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS.
Hai là, phát triển về chất lượng các dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS
Nâng cao chất lượng các dịch vụ Y tế chăm sóc sức khỏe người
HIV/AIDS là yêu cầu khách quan, tất yếu. Chất lượng các dịch vụ Y tế chăm

sóc sức khỏe người HIV/AIDS thể hiện trên nhiều mặt, song chủ yếu là:
Chất lượng của dịch vụ tư vấn: Chất lượng của dịch vụ tư vấn thể hiện ở
chỗ cán bộ y tế tư vấn đúng, đủ và hiệu quả cho người nhiễm HIV/AIDS hiểu,
năm bắt được những nhiệm vụ của bản thân họ phải thực hiện để chữa bệnh,
bảo đảm cho người bệnh yên tâm chưa trị, biết cách giữ gìn sức khỏe và phòng
tránh lây lan cho cộng đồng,... Nói chung, chất lượng dịch vụ tư vấn cho người
HIV/AIDS là ổn định về tinh thần, sẵn sàng chữa bệnh và điều trị bệnh.
Chất lượng của dịch vụ xét nghiệm: Chất lượng của dịch vụ xét nghiệm
được thể hiện thông qua hiệu quả của việc xét nghiệm HIV/AIDS được thực
hiện bởi cán bộ y tế có đủ năng lực, chuyên môn dưới sự hỗ trợ của máy móc,
thiết bị y tế hiện đại nhằm có kết quả xét nghiệm nhanh chóng và chính xác.
Chất lượng dịch vụ điều trị cho người HIV/AIDS: Đối với dịch vụ điều
trị bệnh có chất lượng cao tức là người bệnh phải khỏi bệnh hoàn toàn. Tuy
nhiên, với người HIV/AIDS thì cho tới nay vẫn chưa có phương thức điều trị


24
nào có thể chữa khỏi căn bệnh thế kỷ này. Chính vì vậy, chất lượng dịch vụ
điều trị cho người HIV/AIDS được thể hiện ở chỗ người bệnh có thể ổn định
được sức khỏe, để họ có thể tiếp tục hòa nhập vào cộng đồng, xã hội, tham gia
hoạt động sản xuất nếu có thể.
Kết quả của công tác phát triển dịch vụ Y tế chăm sóc người có
HIV/AIDS thông qua số lượng người bệnh, số người tử vong qua các năm.
Ba là, phát triển về cơ cấu các dịch vụ Y tế chăm sóc Y tế đối với người
HIV/AIDS
* Đa dạng hóa các dịch vụ Y tế chăm sóc Y tế đối với người HIV/AIDS
Dịch vụ Y tế chăm sóc người có HIV/AIDS không chỉ chú trọng tới
dịch vụ chữa trị mà còn phải phát triển các dịch vụ Y tế khác liên quan như
dịch vụ tư vấn, dịch vụ xét nghiệm theo hướng đa dạng hóa. Cụ thể là phát
triển các loại dịch vụ:

* Phát triển các dịch vụ tư vấn
Để phát huy được vai trò của dịch vụ Y tế với chăm sóc người có
HIV/AIDS, các chính sách phát triển cần tập trung vào các nội dung sau:
- Dịch vụ xét nghiệm và tư vấn HIV miễn phí
- Tư vấn cách phòng tránh lây nhiễm.
- Tư vấn và giới thiệu các dịch vụ hỗ trợ.
Có thể nói, Dịch vụ xét nghiệm và tư vấn HIV miễn phí là một dịch vụ
mang tính nhân văn cao và giúp những người bị nhiễm vi rút HIV sớm phát
hiện ra bệnh và có những biện pháp nhất định để điều trị cũng như phòng
chống cho người xung quanh. Đối với những người đã bị nhiễm HIV, xét
nghiệm và tư vấn sẽ giúp họ bảo vệ sức khoẻ cho chính mình và gia đình.
Điều đó giúp người bị nhiễm HIV có thể:
Hiểu biết hơn về sự lây nhiễm của HIV/AIDS để phòng lan truyền HIV
cho gia đình và cộng đồng
Bắt đầu với việc điều trị để giảm sự nhân lên của HIV trong cơ thể, làm


25
chậm quá trình tiến triển thành AIDS và giảm sự phát triển của các bệnh
nhiễm trùng cơ hội, đặc biệt là bệnh phổi.
Thay đổi lối sống, nề nếp (chế độ ăn, tập thể dục, tránh sự căng thẳng,
không hút thuốc lá, không sử dụng ma tuý, không mua bán dâm…) nhằm làm
tăng sức đề kháng chống lại bệnh tật.
Biết tự chăm sóc bản thân để kéo dài cuộc sống và sống an toàn , hữu ích
Có quyết định sáng suốt về các mối quan hệ với gia đình, cộng đồng xã
hội và các kế hoạch lâu dài khác…
* Phát triển dịch vụ xét nghiệm nhiễm HIV/AIDS
Phát triển dịch vụ xét nghiệm nhiễm HIV/AIDS thông qua các xét
nghiệm như:
Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV/AIDS (phát hiện kháng thể HIV) đối

với người lớn và trẻ em 18 tháng tuổi.
Xét nghiệm cho người có nguy cơ cao (Có vợ/chồng đã bị nhiễm
HIV/IDS)
Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV ở trẻ dưới 18 tháng tuổi.
Xét nghiệm cho phụ nữ mang thai.
Người bị nhiễm HIV có thể sống khoẻ mạnh một thời gian dài từ 5 - 10
năm hoặc lâu hơn, sau đó mới chuyển sang giai đoạn AIDS. Trong khoảng thời
gian đó, vẻ bề ngoài của người nhiễm HIV chẳng khác gì người chưa nhiễm,
nhưng họ có thể làm lây lan HIV nếu không có biện pháp bảo vệ. Chính vì sự
lây lan âm thầm đó mà HIV đã gây ra đại dịch AIDS. Hơn nữa, tất cả mọi
người đều có thể bị nhiễm HIV nếu không biết cách tự phòng tránh. Do vậy
việc phát triển dịch vụ xét nghiệm nhiễm HIV/AIDS được xem mang tính vô
cùng cấp thiết đối với toàn xã hội.
* Điều trị người nhiễm HIV/AIDS
Điều trị người nhiễm HIV/AIDS được chia ra thành các điều trị sau:
Điều trị nhiễm HIV/AIDS


×