Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.19 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH TUẤN

CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƢ
TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NÔI, 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN GIAO
CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
........................................................................................................................... 9
1.1. Các khái niệm cơ bản ................................................................................. 9
1.2. Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam ............................. 16
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước
ngoài ................................................................................................................ 23
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút chuyển giao công nghệ qua các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài ............................................................................. 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA
CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM . 33
2.1. Những quy định về chuyển giao công nghệ và thực tiễn hoạt động đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam ................................................................................. 33
2.2. Hoạt động chuyển giao công nghệ qua dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam .................................................................................................... 47


2.3. Đánh giá chung ........................................................................................ 65
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP THU HÚT CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
QUA DỰ ÁN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM . 66
3.1. Bối cảnh và xu hướng mới ....................................................................... 66
3.2. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn tới ....... 68
3.3. Quan điểm xây dựng chính sách thu hút CGCN tại Việt Nam ................ 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct Investment)

KH&CN

Khoa học và công nghệ

CGCN

Chuyển giao công nghệ

CNH, HĐH


Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

ESCAP

Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu ÁThái Bình Dương (Economic and Social
Commission for Asia and the Pacific)

UNIDO

Tổ chức Phát triển của Liên hợp quốc
(United Nations Industrial Development
Organization)

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(Orgnization Economic Cooporation
Development)

KCX, KCN

Khu Chế xuất, Khu Công nghiệp


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Tỷ lệ giải ngân vốn FDI qua các năm ............................................ 37
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành ......................................... 38
Bảng 2.3: Qui mô FDI chia theo vùng lãnh thổ (%) ...................................... 40
Bảng 2.4: Quốc gia có doanh nghiệp FDI đầu tư lớn nhất tại Việt Nam........ 41
Hình 2.5: Tỷ trọng vốn FDI theo hình thức đầu tư giai đoạn 2005 -2015 ...... 42

Hình 2.6: Tỷ trọng của FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (%) ............... 44
Hình 2.7: Đóng góp của khu vực FDI trong tổng GDP cả nước .................... 45
Bảng 2.8: Số liệu theo dõi Hợp đồng CGCN từ 2007 đến 2015 .................... 47
Bảng 2.9: Hợp đồng CGCN đăng ký tại các địa phương................................ 48
Bảng 2.10: Danh sách Doanh nghiệp Công nghiệp Kỹ thuật cao được Bộ
Khoa học và Công nghệ công nhận ................................................................ 53
Bảng 2.11: Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao ......................... 54
Bảng 2.12: Một số số liệu về lượng xe tiêu thụ của một số doanh nghiệp lắp
ráp ô tô tại Việt Nam ....................................................................................... 56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một kênh thu hút vốn quan trọng
để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. FDI cũng được đánh giá
là kênh quan trọng để thu hút công nghệ nguồn từ các nước có nền công
nghiệp tiên tiến vào Việt Nam, góp phần không nhỏ vào việc đổi mới, nâng
cao trình độ công nghệ của sản xuất - kinh doanh và toàn bộ nền kinh tế trong
quá trình hội nhập quốc tế.
Việt Nam đang trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình
tăng trưởng mới, do vậy việc chuyển giao công nghệ thông qua các dự án có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tiếp cận công nghệ tiên tiến của các nước
phát triển là một mục tiêu quan trọng trong thu hút FDI. Đối với các nước
đang phát triển, CGCN qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là một
kênh quan trọng, đặc biệt đối với những nước mà công nghệ nội sinh còn hạn
chế như Việt Nam.
Xét về mặt chính sách, chiến lược cũng như hiệu quả kinh tế trực tiếp,
FDI là kênh thu hút kỹ thuật nước ngoài quan trọng và hiệu quả nhất vì có thể
tranh thủ được kinh nghiệm tổ chức quản lý, bí quyết kinh doanh, mạng lưới
tiếp thị quốc tế của các nhà đầu tư nước ngoài.

Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam thời gian qua đã có những đóng góp nhất định đối với phát triển
kinh tế-xã hội của Việt Nam. Nhiều ngành nghề, sản phẩm mới được tạo ra
với công nghệ hiện đại, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần tăng đáng
kể năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Thông
qua ứng dụng công nghệ chuyển giao, nguồn lực trong nước được sử dụng
hiệu quả hơn.
Những thành tựu đạt được nêu trên đã khẳng định chủ trương đúng
đắn của Đảng và Nhà nước đối với thu hút FDI nói chung và chuyển giao
1


công nghệ qua FDI nói riêng trong điều kiện của Việt Nam nhằm nâng cao
năng lực công nghệ quốc gia.
Tuy nhiên, CGCN qua các dự án FDI vẫn chưa đạt hiệu quả như kỳ
vọng, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế. Công nghệ tiếp
nhận và sử dụng trong FDI là các công nghệ đã và đang được sử dụng phổ
biến ở bản quốc. Điều này cho thấy hoạt động CGCN từ nước ngoài vào Việt
Nam thông qua các dự án FDI chưa đạt hiệu quả như mục tiêu đặt ra. Công
nghệ nhận chuyển giao chưa tương xứng với số dự án đầu tư vào Việt Nam
cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước.
Tại sao CGCN qua các dự án FDI lại không thành công như mong
đợi? Có rất nhiều nguyên nhân như: hệ thống văn bản chính sách thúc đẩy
CGCN, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động
CGCN, vấn đề đào tạo và sử dụng nhân lực tay nghề cao, vấn đề tiếp cận các
thông tin về công nghệ, nguồn tài chính,… Do đó, việc đánh giá thực trạng
hoạt động CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam qua các dự án FDI để từ đó đề
xuất những giải pháp thu hút CGCN trong các dự án FDI là cần thiết nhằm
thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, tôi đã chọn vấn đề
“Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt

Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tác phẩm “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam” (2002, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội) của
tác giả Nguyễn Trọng Xuân đã nêu rõ thực trạng và vai trò của chuyển giao
công nghệ qua FDI nói riêng. Tuy nhiên tác giả mới chỉ đề cập đến vai trò của
CGCN trong công cuộc CNH, HĐH, tác giả không đi sâu nghiên cứu về
CGCN qua dự án FDI.
Tác phẩm “CGCN ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp” (2004, Nhà
2


xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội) của tác giả Phan Xuân Dũng đưa ra
những đánh giá khái quát tình hình CGCN của một số nước, khu vực trên thế
giới, thực trạng CGCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Qua đó tác giả đã nêu
quan điểm và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả CGCN ở Việt
Nam trong những năm tới. Nhưng trong cuốn sách của mình, tác giả chưa đi
sâu nghiên cứu hoạt động CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam qua dự án FDI.
Đề tài nghiên cứu “Đổi mới cơ chế nhập công nghệ trong bối cảnh mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế và tự do thương mại ở Việt Nam” của Viện
Chiến lược và Chính sách KH&CN, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra
những mặt được và chưa được của cơ chế nhập khẩu công nghệ và đề xuất,
khuyến nghị đổi mới cơ chế nhập khẩu công nghệ trong bối cảnh mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế và tự do thương mại ở Việt Nam. Nhưng nghiên cứu
này cũng không đi sâu nghiên cứu luồng CGCN qua dự án FDI.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý KH&CN “Chia sẻ rủi ro với
các nhà đầu tư để nâng cao hiệu quả CGCN trong các dự án có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương” của học viên Phạm Thị
Chinh được thực hiện năm 2008. Trong Luận văn này, tác giả đã khảo sát

những vướng mắc trong việc CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua
các dự án FDI, trong đó nhấn mạnh đến giải pháp chia sẻ rủi ro với các nhà
đầu tư nước ngoài để nâng cao hiệu quả CGCN vào Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý KH&CN “Những rào cản đối
với chuyển giao công nghệ qua dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam” của học viên Đỗ Thị Bích Ngọc thực hiện năm 2010 đã nhận diện
những rào cản đối với CGCN qua các dự án FDI tại Việt Nam và đề xuất
những giải pháp khắc phục rào cản đối với CGCN qua các dự án FDI tại Việt
Nam. Tuy nhiên, đề tài này thực hiện cách đây gần 10 năm. Đến nay, những
rào cản và giải pháp khắc phục rào cản đối với CGCN được tác giả đề cập đến
đã có những thay đổi.
3


Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước, Luận văn tập trung nghiên
cứu, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động CGCN trong các dự án FDI
tại Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ở nước ngoài, nhiều nghiên cứu chỉ đề cập tới chính sách phát triển
công nghệ và chuyển giao công nghệ. Đáng chú ý là cuốn “Phát triển công
nghệ và chuyển giao công nghệ ở Châu Á” (Nhà xuất bản Bunshindo, Nhật
bản) đã được dịch sang tiếng Việt của tác giả Lâm Trác Sử. Các tác giả chủ
yếu phân tích các mô hình và chính sách phát triển công nghệ nói chung của
một số các quốc gia Đông Á, điển hình nhất là mô hình Trung Quốc, Hàn
Quốc và Nhật Bản.
Công trình nghiên cứu “Technological Independence - The Asian
Experence” của United Nations University, Nhật Bản chủ yếu nghiên cứu về
chính sách công nghệ các quốc gia Châu Á trong các thời kỳ các nước tiếp
nhận công nghệ của Hoa kỳ và Châu Âu. Nhìn chung, các công trình đã công
bố trên thế giới chủ yếu tập trung nghiên cứu chính sách phát triển công nghệ

các nước nhằm mục đích tăng trưởng, trong đó đưa ra các mô hình thành công
trong chính sách công nghệ như “Đàn nhạn bay” của Nhật Bản, …
Nghiên cứu “Khoa học và Công nghệ đối với việc phát triển các nước
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” của Uỷ ban Kinh tế - Xã hội khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương đã nghiên cứu tình hình phát triển khoa học và
công nghệ cũng như những nét đặc thù của khu vực này, từ đó đưa ra một số
khuyến nghị trong việc phát triển khoa học và công nghệ đối với các nước
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về CGCN, Ủy ban Kinh tế Xã
hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc (ESCAP) xuất bản cuốn “Cẩm
nang CGCN”, cung cấp những nguyên tắc chung nhất, những khái niệm cơ
bản nhất và kỹ thuật đàm phán trong CGCN. Tuy nhiên, đây là ấn phẩm xuất
4


bản phục vụ các nước đang phát triển nói chung, không phục vụ cho một
nước cụ thể. Thông qua các tình huống (case study) để minh họa cho quá
trình đàm phán, thương thảo hợp đồng CGCN, giúp các nước đang phát triển
thông qua từng trường hợp cụ thể có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong quá
trình tiếp nhận và làm chủ công nghệ được công nghệ chuyển giao.
Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản đều có những nghiên cứu về vai trò
và tác động của đầu tư nước ngoài trong việc tiếp nhận công nghệ tiên tiến.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này được đặt trong bối cảnh từng giai đoạn phát
triển trước đây của từng nước, do vậy thực trạng hoạt động CGCN qua dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá chưa
được đề cập một cách đầy đủ trong các nghiên cứu này.
Khoảng trống nghiên cứu: Các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều
đề cập đến hoạt động CGCN. Tuy nhiên, các công trình này tập trung vào một
số khía cạnh như vấn đề rủi ro, những rào cản, chính sách thúc đẩy chuyển
giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam,… hoặc phạm vi nghiên cứu khá

hẹp và số liệu, thông tin khá cũ. Đến nay, cùng với tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều thay
đổi, chính sách của nhà nước về quản lý hoạt động CGCN qua các dự án FDI
cũng có những thay đổi. Do đó, trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước,
Luận văn tập trung phân tích và làm rõ “khoảng trống” mà các nghiên cứu đi
trước chưa đề cập, đó là phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động CGCN qua
các dự án FDI vào Việt Nam từ góc độ chính sách, cơ chế phối hợp trong
công tác quản lý đến góc độ của doanh nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm thu hút hoạt động chuyển giao
5


công nghệ trong các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích như đề ra, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu khái quát cơ sở lý luận của CGCN và thu hút CGCN
trong các dự án FDI.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng hoạt động CGCN trong các dự án
FDI tại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp thu hút hoạt động CGCN qua các dự án FDI
tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động chuyển giao công nghệ tại các dự án
FDI ở Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi nội dung: Đánh giá thực trạng, chỉ ra những tồn tại, hạn chế
trong hoạt động CGCN qua các dự án FDI, qua đó đề xuất những giải pháp
khắc phục những bất cập, hạn chế trong hoạt động CGCN qua các dự án FDI.
- Phạm vi không gian: Một số doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực điện tử
viễn thông, ô tô.
- Phạm vi thời gian: Luận văn khai thác các số liệu liên quan hoạt động
CGCN qua các dự án FDI tại Việt Nam trong khoảng thời gian 2007- 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung, phổ biến cho hoạt động
nghiên cứu khoa học là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời
dựa vào những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, về
hội nhập kinh tế và phát triển đất nước làm cơ sở để phân tích, đánh giá hoạt
động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.
6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ sử dụng các phương pháp định tính cụ thể là phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phân tích tổng hợp
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CGCN.
- Nghiên cứu các công trình khoa học, báo cáo đã công bố để kế thừa
kết quả nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Dựa vào số liệu có được của các doanh nghiệp FDI trên các mặt đầu tư,
trình độ công nghệ, thực trạng CGCN, tập hợp, phân tích, tổng hợp xử lý các
số liệu thu thập được.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những điểm mới và các đóng góp về mặt lý luận cũng như

thực tiễn sau:
- Đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư và đầu tư trực tiếp nước
ngoài, về công nghệ và CGCN, về các hình thức CGCN qua dự án FDI và vai
trò của CGCN qua dự án FDI trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay của Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động CGCN qua các dự án FDI
vào Việt Nam từ góc độ chính sách, từ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản
lý nhà nước và từ góc độ doanh nghiệp.
- Chỉ ra những bất cập, hạn chế của hoạt động CGCN qua các dự án
FDI vào Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp về mặt chính sách nhằm thu
hút CGCN qua các dự án FDI vào Việt Nam.
7. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển giao công nghệ qua
7


các dự án FDI
- Chương 2. Thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
- Chương 3. Giải pháp thu hút chuyển giao công nghệ qua các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƢ

TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm công nghệ
Hiện nay trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghệ,
chính vì vậy có rất nhiều khái niệm công nghệ, có thể điểm qua một số khái
niệm sau1:
Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Công nghệ là một trật tự nghiêm ngặt các
thao tác của quá trình chế biến vật chất/thông tin”[8, tr.3].
Theo Ngân hàng thế giới (1985)[4]: Công nghệ là phương pháp chuyển
hoá các nguồn lực thành sản phẩm, gồm 3 yếu tố:
- Thông tin về phương pháp;
- Phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển hoá;
- Sự hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao.
Ở đây, công nghệ được hiểu là những thông tin, bí quyết và phương
pháp được áp dụng trong việc chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm.
Theo tác giả Sharif (1986): “Công nghệ bao gồm khả năng sáng tạo,
đổi mới và lựa chọn từ những kỹ thuật khác nhau và sử dụng chúng một cách
tối ưu vào tập hợp các yếu tố bao gồm một trường vật chất, xã hội và văn
hoá’’[4, tr.3].
Công nghệ là một tập hợp của phần cứng và phần mềm, bao gồm 4
dạng cơ bản:
- Thể hiện ở dạng vật thể (vật liệu, công cụ sản xuất, thiết bị và máy
móc, sản phẩm hoàn chỉnh,…)
1

Xin tham khảo thêm Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN (2003), Công nghệ và Phát triển thị trường
công nghệ ở Việt Nam, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tr.3, 4.

9



- Thể hiện ở dạng con người (kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm)
- Thể hiện ở dạng ghi chép (bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ kiện
thích hợp…. được mô tả trong các ấn phẩm, tài liệu v.v…)
- Thể hiện ở dạng thiết chế tổ chức (dịch vụ, phương tiện truyền bá,
công ty tư vấn, cơ cấu quản lý, cơ sở luật pháp…).
Theo OECD: “Công nghệ được hiểu là một tập hợp các kỹ thuật, mà
bản thân chúng được định nghĩa là một tập hợp các hành động và quy tắc lựa
chọn chỉ dẫn việc ứng dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo hiểu biết của
con người thì sẽ đạt được một kết quả định trước (và đôi khi được kỳ vọng)
trong hoàn cảnh cụ thể nhất định”[20, tr.4].
Theo UNIDO: “Công nghệ là việc áp dụng khoa học (kết quả) vào sản
xuất bằng cách sử dụng những kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ
thống và có phương pháp” [28, tr.5].
Theo ESCAP: “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ
thuật chế biến nguyên liệu và thông tin”[12, tr.5].
Để mở rộng và cụ thể hoá khái niệm công nghệ, ESCAP lại đưa ra định
nghĩa sau: “Công nghệ bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương
pháp sử dụng trong sản xuất hoặc trong dịch vụ (công nghiệp và quản lý)”.
Theo Luật CGCN (2006): “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết
kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi
nguồn lực thành sản phẩm”[24, tr.1].
Trong khuôn khổ của Luận văn, tác giả sử dụng khái niệm công nghệ
trong Luật CGCN năm 2006 mặc dù khái niệm này còn có thể chưa hoàn toàn
nhận được sự nhất trí của một số nhà nghiên cứu nhưng khái niệm này được
thể hiện xuyên suốt trong các văn bản pháp quy của Nhà nước về công nghệ
và CGCN.
1.1.2. Khái niệm chuyển giao công nghệ

10



Có nhiều quan niệm khác nhau về CGCN. Tuỳ theo bản chất, mục đích
và đối tượng của chuyển giao mà có cách hiểu khác nhau về CGCN.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “CGCN là quá trình trao tri thức công nghệ
(có thanh toán hoặc không thanh toán)”[8, tr.46]. Đây là cách nói tổng quát
nhất về CGCN.
Theo tác giả Trần Ngọc Ca “CGCN là một quá trình đưa công nghệ từ
một môi trường này sang một môi trường khác bằng mọi hình thức khác nhau
để sản xuất ra sản phẩm, thực hiện dịch vụ hoặc cho các mục đích khác. Như
vậy CGCN bao hàm cả chuyển giao mất tiền (mua - bán) và chuyển giao
không mất tiền”[4, tr.7].
Theo Luật CGCN, năm 2006: “CGCN là chuyển giao quyền sở hữu
hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền
CGCN sang bên nhận công nghệ. CGCN có thể tại Việt Nam, từ nước ngoài
vào Việt Nam hoặc từ Việt Nam ra nước ngoài”[ 24, tr.1].
Hoạt động CGCN bao gồm: CGCN và dịch vụ CGCN, trong đó dịch vụ
CGCN là hoạt động hỗ trợ quá trình tìm kiếm, giao kết và thực hiện hợp đồng
CGCN.
Xét về yếu tố thương mại: CGCN có thể là hoạt động có thanh toán
(thương mại), hoặc không thanh toán (phi thương mại).
Xét về yếu tố pháp lý CGCN là một hoạt động nhằm chuyển nhượng
quyền sở hữu hoặc chuyển giao quyền sử dụng một công nghệ từ chủ thể này
sang chủ thể khác, trên cơ sở hợp đồng CGCN đã được thỏa thuận, phù hợp
với các quy định của pháp luật. Bên chuyển giao có nhiệm vụ CGCN có kèm
hoặc không kèm máy móc, thiết bị, dịch vụ... cho bên nhận chuyển giao. Bên
nhận chuyển giao có nghĩa vụ thanh toán các khoản cho bên chuyển giao để
tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều khoản đã được ghi
trong hợp đồng.


11


Xét về yếu tố nội tại của công nghệ được chuyển giao: công nghệ được
xem gồm hai phần: phần cứng (máy móc, thiết bị…) và phần mềm (quy trình,
công thức, bí quyết…). Phạm trù CGCN chủ yếu thuộc phần mềm của công
nghệ. Phần cứng của công nghệ được mua bán trên cơ sở các quan hệ thương
mại thông thường, vì nó có hiện vật cụ thể và giá cả ấn định. Tuy nhiên, vì
phần mềm của công nghệ thường được thể hiện trên những phương tiện, thiết
bị cụ thể, cho nên trong quá trình CGCN luôn phải giải quyết mối quan hệ với
phần cứng. Tuy nhiên, phần cứng chỉ được coi là đi kèm công nghệ được
chuyển giao lần đầu, còn các lần tiếp theo chỉ đơn thuần là máy móc, thiết
bị… bởi vậy giá cả phần cứng đi kèm công nghệ được chuyển giao rất khác
với giá cả phần cứng khi được chuyển giao độc lập.
Theo Luật CGCN, phương thức CGCN bao gồm:
- Chuyển giao tài liệu về công nghệ.
- Đào tạo cho bên nhận công nghệ nắm vững và làm chủ công nghệ
theo thời hạn quy định trong hợp đồng CGCN.
- Cử chuyên gia tư vấn kỹ thuật cho bên nhận công nghệ đưa ra công
nghệ vào sản xuất với chất lượng công nghệ và chất lượng sản phẩm đạt các
chỉ tiêu và tiến độ quy định trong hợp đồng CGCN.
Về hình thức CGCN:
- CGCN theo chiều dọc: Chuyển giao từ khu vực nghiên cứu và triển
khai vào khu vực sản xuất. Chuyển giao dọc có ưu điểm là mang đến cho
người sản xuất một công nghệ hoàn toàn mới, nhưng phải chấp nhận một độ
rủi ro nhất định. Xác suất rủi ro thấp khi sự khảo nghiệm cho những kết quả
chắc chắn. Mô hình CGCN từ các doanh nghiệp khoa học và công nghệ có
hoạt động nghiên cứu và triển khai đến người nông dân là một trong những
hình thức CGCN theo chiều dọc.
- CGCN theo chiều ngang: Trường hợp này thường áp dụng đối với

công nghệ được chuyển giao là công nghệ đã được làm chủ và đứng vững trên
12


thị trường cạnh tranh. Chuyển giao ngang có ưu điểm là độ tin cậy cao, ít rủi
ro, có thể cho kết quả nhanh. CGCN qua dự án FDI là một hình thức CGCN
theo chiều ngang.
Chuyển giao ngang là chuyển giao giữa các doanh nghiệp. Thực chất là
quá trình nhân rộng các công nghệ về mặt số lượng, không có những biến đổi
về trình độ và năng lực công nghệ [8].
Về tính khác biệt của CGCN so với chuyển giao các tài sản hữu hình,
người ta xét trên phương diện pháp lý, nội dung cơ bản của quyền sở hữu bao
gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt, nhưng do đặc
điểm vô hình của công nghệ (xét phần mềm công nghệ) việc chiếm hữu nó
không có ý nghĩa. Bởi vậy phát sinh một hệ quả pháp lý, đó là công nghệ đã
được chuyển cho bên nhận chuyển giao, nhưng nó vẫn do bên chuyển giao
nắm giữ, trong nhiều trường hợp bên chuyển giao có thể nắm ưu thế hơn so
với bên được chuyển giao.
Xét trên phương diện quyền sở hữu công nghệ, có 2 hình thức CGCN:
- Chuyển giao quyền sở hữu: Khi hợp đồng chuyển giao có hiệu lực
pháp lý, bên nhận chuyển giao có đầy đủ quyền sở hữu đối với công nghệ, tuy
nhiên cần phải lưu ý yếu tố chiếm hữu như đã phân tích trên. Trong nhiều tài
liệu pháp lý, người ta còn gọi hình thức này là chuyển nhượng quyền sở hữu
công nghệ.
- Chuyển giao quyền sử dụng: Khi hợp đồng chuyển giao có hiệu lực
pháp lý, bên nhận chuyển giao chỉ có quyền sử dụng công nghệ. Trong nhiều
tài liệu pháp lý, người ta còn gọi hình thức này là chuyển quyền sử dụng công
nghệ, có tài liệu gọi là license công nghệ. Điểm khác biệt cơ bản của trường
hợp này so với trường hợp chuyển giao quyền sở hữu công nghệ là, bên nhận
chuyển giao không được quyền định đoạt công nghệ.

Các cấp độ CGCN:

13


- Trao kiến thức: Việc chuyển giao chỉ dừng lại ở mức độ truyền đạt,
hướng dẫn, huấn luyện, tư vấn các kiến thức về công nghệ được chuyển giao.
- Chìa khóa trao tay (Turn-Key, Clé en main): Bên CGCN chỉ cam kết
CGCN vận hành được cho bên nhận chuyển giao sử dụng. Cấp độ này có thể
gây rủi ro cho bên nhận CGCN, bởi vì rất có thể công nghệ được chuyển giao
chỉ vận hành được khi có mặt bên chuyển giao, sau khi chìa khóa đã trao tay
rồi thì công nghệ đó lại không vận hành được.
- Sản phẩm trao tay (Produit en main): Bên CGCN cam kết CGCN vận
hành được cho bên nhận chuyển giao sử dụng và đảm bảo rằng có loạt sản phẩm
được sản xuất bằng cách áp dụng công nghệ đó, cấp độ chuyển giao này có ít rủi
ro cho bên nhận chuyển giao hơn so với cấp độ chìa khóa trao tay.
- Thị trường trao tay (Marché en main): Bên CGCN cam kết CGCN
vận hành được cho bên nhận chuyển giao sử dụng và đảm bảo rằng có loạt
sản phẩm hàng hóa được sản xuất bằng cách áp dụng công nghệ đó, đồng thời
đảm bảo có thị trường tiêu thụ sản phẩm đó, cấp độ chuyển giao này ít có rủi
ro cho bên nhận chuyển giao.
Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ do các bên thỏa thuận,
bao gồm:
- Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ;
- Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền sử dụng
công nghệ cho bên thứ ba;
- Lĩnh vực sử dụng công nghệ;
- Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin cải tiến
công nghệ;
- Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do công

nghệ được chuyển giao tạo ra.
- Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao
tạo ra.
14


Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm CGCN nêu
trong Luật CGCN vì các quy định của nhà nước về CGCN từ nước ngoài vào
Việt Nam phải tuân thủ theo Luật CGCN.
1.1.3. Khái niệm đầu tư và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Luật Đầu tư năm 2014 định nghĩa: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu
tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập
tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh
tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”[22, tr.1].
Căn cứ vào khái niệm đầu tư nêu trên, người ta phân loại đầu tư theo
các tiêu chí khác nhau, trong đó có tiêu chí phân loại theo chức năng quản trị
vốn. Theo tiêu chí phân loại này, người ta chia ra làm hai loại:
- Đầu tư trực tiếp;
- Đầu tư gián tiếp.
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một khoảng thời
gian xác định nhằm thu về lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội. Đầu tư trực
tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần,
cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ cố giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại đầu tư
mà các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý
điều hành, tổ chức sản xuất để thu lại lợi ích và hoàn toàn chịu trách nhiệm về

đồng vốn cũng như kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Đứng ở mỗi góc độ khác nhau, quan điểm về đầu tư sẽ khác nhau. Theo
quan điểm của chủ đầu tư (doanh nghiệp): Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh
15


doanh, để từ đó thu được số vốn lớn hơn số vốn đã bỏ ra, thông qua lợi nhuận.
Theo quan điểm của xã hội (quốc gia): Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển,
để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát triển quốc gia.
Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư
bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và quản lý dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là tập hợp đề xuất bỏ vốn trung hạn hoặc dài hạn để tiến
hành các hoạt động đầu tư kinh doanh trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời
gian xác định.
Dự án là một thuật ngữ dùng để chỉ việc đầu tư tại một địa điểm nhất
định; Thuật ngữ này khác với đăng ký kinh doanh của một doanh nghiệp,
được hoạt động trong phạm vi toàn quốc. Việc quyết định về địa điểm là một
quyết định có tầm quan trọng chiến lược. Địa điểm tác động lâu dài đến hoạt
động và lợi ích của doanh nghiệp, đồng thời ảnh hưởng lâu dài đến dân cư
quanh vùng.
Dự án đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn và tham
gia quản lý hoạt động đầu tư (góp vốn vào Công ty TNHH, nhà đầu tư tham
gia Hội đồng thành viên và trở thành người quản lý công ty/hay góp cổ phẩn,
nhà đầu tư trở thành cổ đông và được trực tiếp tham gia Đại hội cổ đông - cơ
quan quản lý cao nhất của công ty cổ phần).
1.2. Chuyển giao công nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam
1.2.1. Các luồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam

16



CGCN NƯỚC NGOÀI
VÀO VIỆT NAM

Luồng 1

Luồng 2

Luồng 3

Chuyển giao qua sự nhập
cƣ của chuyên gia

Chuyển giao qua đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài

CGCN thuần tuý

CGCN theo dự án đầu
tư 100% vốn nước ngoài

CGCN theo dự án
liên doanh

Luồng 1: CGCN qua nhập cư của chuyên gia
Cho đến nay CGCN qua nhập cư của chuyên gia hầu như chưa đáng
kể. Trên thực tế đã có một vài trường hợp thuộc loại này nhưng các dấu hiệu
không đặc trưng và kết quả thu được còn rất hạn chế. Trong các tài liệu chính
thức, chưa có một tài liệu nào nhắc đến một trường hợp cụ thể nào đã được
thực hiện qua luồng này. Các cuộc thăm dò cho thấy một số lớn trong các

chuyên gia được đào tạo bài bản đó vì những lý do khác nhau, có xu hướng
trở về sống và làm việc tại quê hương khi có điều kiện thuận lợi.
Ưu điểm của luồng này:
Đây là hình thức chuyển giao vô hình. CGCN không qua hợp đồng nên
bên nhận thường không phải chịu những hạn chế (về bảo vệ những bí mật) mà
Bên giao hoặc Chính phủ của Bên giao đã đặt ra. Do đó qua luồng này Bên
nhận có thể nhận được những công nghệ mà khó có thể có được bằng con
đường CGCN qua hợp đồng.
Chuyển giao qua con đường nhập cư của chuyên gia tránh được những
thủ tục hành chính rườm rà nên quá trình chuyển giao thường được rút ngắn
hơn nhiều so với quá trình chuyển giao qua hợp đồng.

17


Giá chuyển giao thường khá rẻ do tiết kiệm được chi phí đào tạo và giảm
được nhiều khoản phụ phí khó tránh khỏi trong các cuộc CGCN qua hợp đồng.
Tuy nhiên, luồng này đối với Việt Nam hầu như rất hạn chế bởi Việt
Nam chưa có chính sách đủ mạnh, cũng như chưa có điều kiện cũng như môi
trường tốt để các chuyên gia cũng như Việt kiều trở về làm việc.
Nhược điểm của luồng này:
Do CGCN không thông qua hợp đồng, không có chuyện “bảo đảm”,
“bảo hành” nên xác suất rủi ro thường là cao đối với Bên nhận.
Mỗi chuyên gia nhập cư thường chỉ nắm được một số yếu tố công nghệ
nhất định. Do đó, nếu Bên nhận không chuẩn bị kỹ và nếu không có được một
đội ngũ chuyên gia nhập cư đủ đồng bộ thì kết quả sẽ rất hạn chế.
Vốn của phần lớn chuyên gia - Việt kiều không lớn, trong khi đó các
Công ty trong nước đều thuộc loại quy mô vừa và nhỏ, tài chính còn hạn chế
thì bằng luồng này rất khó thực thi những công nghệ đòi hỏi cần rất nhiều vốn
đầu tư.

Luồng 2: CGCN qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Với luồng thứ hai này, công nghệ đưa vào Việt Nam cùng với hoạt
động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Phần lớn nhà đầu tư nước ngoài đồng
thời là bên CGCN. Công nghệ được sử dụng để thực hiện dự án liên doanh do
nhà đầu tư nước ngoài là bên chuyển giao. Còn đối với công nghệ trong dự án
đầu tư 100% vốn nước ngoài không phải chuyển từ công ty ở chính quốc mà
được chuyển giao từ một công ty khác.
Công nghệ được chuyển giao theo con đường đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ là luồng chính và có số lượng lớn ở Việt Nam. Trong luồng này, phía
nước ngoài thường chuyển giao một cách đồng bộ từ khâu nghiên cứu thị
trường, thiết kế, lắp đặt, công nghệ sản xuất đến quản lý sản xuất, kinh
doanh…., do vậy, chúng ta cần phải quan tâm trong việc đào tạo và bố trí đội

18


ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân để làm chủ các công nghệ nhập, trên cơ sở
đó có bước cải tiến và tiến tới làm ra được những công nghệ mới, độc lập.
Ưu điểm của luồng này:
Vốn để thực hiện các công nghệ được chuyển giao chủ yếu là vốn đầu
tư trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài. Do đó quy mô của luồng này tuỳ thuộc
vào cơ hội đầu tư và môi trường đầu tư ở Việt Nam hơn là phụ thuộc vào khả
năng tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thông qua FDI, cùng với vốn, công nghệ, năng lực quản lý, kinh doanh
được chuyển giao nên hiệu quả phát triển lớn hơn các hình thức chuyển giao
khác.
Bên chuyển giao có trách nhiệm chung đối với sự phát triển của doanh
nghiệp, tức là trách nhiệm của Bên giao công nghệ và Bên nhận công nghệ
được gắn liền với nhau.
Khả năng lan truyền công nghệ nhanh, góp phần tăng cường nội lực

của đất nước.
Nhược điểm của luồng này :
Với nhà đầu tư nước ngoài, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở tận
dụng các yếu tố như lao động rẻ, nguồn tài nguyên phong phú thì vấn đề công
nghệ chuyển giao không được coi là vấn đề trọng yếu khi đầu tư, do vậy khó có
được những công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Đối với dự án 100% vốn nước ngoài: Thực chất đây là chuyển dịch
công nghệ nội bộ của các Công ty đa quốc gia. Trên danh nghĩa thì Công ty
bỏ vốn hay còn gọi là “Công ty mẹ” và “Công ty con” là hai pháp nhân chịu
sự điều chỉnh của hai hệ thống pháp luật khác nhau nhưng trên thực tế, Công
ty mẹ nắm trọn quyền sở hữu, quyền kiểm soát, quyền sử dụng, quyền định
đoạt đối với mọi hoạt động, mọi khoản tài sản của Công ty con. Do đặc điểm
chủ yếu của phân luồng này là Công ty mẹ có khả năng bí mật về công nghệ
(toàn bộ hay từng phần với công ty con (trường hợp Coca-Cola từ hơn 100
19


năm nay vẫn giữ được tuyệt đối bí mật về công thức pha chế với tất cả các chi
nhánh trên khắp thế giới là một ví dụ). Khả năng đó thường được sử dụng một
cách tinh vi, linh hoạt để thu lợi tối đa cho nhà đầu tư bằng nhiều cách:
+ Thổi phồng giá trị của công nghệ được chuyển giao để tăng vốn đầu
tư, do đó mà tăng khấu hao, chi phí, tăng chi phí sản xuất một cách giả tạo và
trốn thuế.
+ Sử dụng công nghệ như để gia tăng vị thể cạnh tranh của “Công ty
mẹ” và tạo điều kiện cho các “Công ty mẹ” giành thêm thị trường bán sản
phẩm, nguyên liệu, phụ tùng vào lãnh thổ.
CGCN theo luồng này nói chung không làm tăng năng lực công nghệ
của các công ty và của lao động Việt Nam mà chỉ làm tăng nguồn lực công
nghệ trên lãnh thổ. Về cơ bản, các nguồn lực công nghệ vẫn thuộc quyền chi
phối, định đoạt của các nhà đầu tư và họ có thể hoàn toàn sử dụng quyền này

trước hết vì lợi ích của họ chứ không phải vì lợi ích của những người bản xứ.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận lại cách đánh giá này vì xét một cách toàn diện,
luồng CGCN qua FDI có thể không thu hút được những công nghệ mới, hiện
đại nhưng nếu có chính sách khuyến khích tốt, công nghệ qua luồng này có
sức lan toả lớn nếu ngành công nghiệp phụ trợ phát triển. Cho tới thời điểm
hiện nay, chúng ta vẫn phải coi trọng nguồn CGCN từ nước ngoài vào Việt
Nam qua luồng này.
Luồng 3. CGCN theo hợp đồng "thuần tuý" (không kèm đầu tư tài
chính của bên giao)
Đây là luồng mà trên thực tế đã hình thành từ lâu ở Việt Nam: Kể từ
khi Miền Bắc được giải phóng cho đến năm 1987 đã có hàng trăm trường hợp
ta nhận kỹ thuật từ nước ngoài (chủ yếu từ Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc và
Ấn Độ và gần 10 nước tư bản phát triển). Vốn sử dụng cho các trường hợp
này hầu hết là vốn tài trợ (vay hoặc viện trợ không hoàn lại) từ các Chính phủ

20


và một số tổ chức quốc tế nhưng công nghệ được giao vẫn theo hợp đồng với
các công ty, xí nghiệp của các nước tài trợ.
Kể từ khi thực hiện "Đổi mới" và "Mở cửa", Việt Nam đã mở rộng
quan hệ, tuy nhiên, do những điều kiện khách quan và chủ quan, quy mô của
luồng này còn rất nhỏ, phương pháp thực hiện về cơ bản vẫn không khác
trước bao nhiêu, hiệu quả chung rất thấp, nhiều trường hợp bị thiệt hại nặng.
Đây là hướng CGCN điển hình nhất. Trong các trường hợp CGCN theo
luồng này luôn luôn có hai bên hoàn toàn độc lập với nhau không bên nào
kiểm soát chi phối bên nào ở bất kỳ mức nào. Do đó, bên nhận sẽ hoàn toàn
làm chủ công nghệ được chuyển giao và sử dụng công nghệ đó trước hết vào
việc phục vụ cho lợi ích trước mắt và lâu dài của mình.
CGCN thuộc luồng này, bên nhận đứng ở vị trí "người mua" (khách

hàng) và chấp nhận thanh toán sòng phẳng, đồng thời được bảo hộ và được
điều chỉnh bởi các điều luật nên bên nhận có vị thế tương đối thuận lợi để chủ
động lựa chọn công nghệ chuyển giao, thương lượng về các điều khoản của
hợp đồng và đòi hỏi trách nhiệm theo hợp đồng của bên giao. Trên cơ sở đó
bên nhận cũng có thể tiếp tục phát triển công nghệ mà không phải thương
lượng lại với bên giao với tư cách một đối tác liên doanh. Do đó, đây là luồng
chuyển giao mà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của bên nhận có thể được
đảm bảo tốt nhất.
Trong các hợp đồng thuộc luồng này, nguồn tài chính cho việc áp dụng
công nghệ được chuyển giao hoàn toàn do bên nhận lo liệu (thuộc nguồn vốn
của bên nhận). Nếu đạt được thoả thuận thanh toán phí chuyển giao theo kỳ
vụ (royalty) trên cơ sở lợi nhuận hay giá bán tịnh thì có nghĩa là bên giao
cũng đã đầu tư trực tiếp bằng một tài sản vô hình vào bên nhận để rồi cùng
chia sẻ lợi ích và cùng gánh chịu rủi ro với bên nhận. Nhờ đó, quan hệ giữa
hai bên được duy trì trong cả một quá trình. Trong quá trình này, bên nhận có
thể áp dụng nhiều giải pháp khôn khéo để tiếp tục khai thác tiềm năng công
21


×