Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN tổ chức một số trò chơi môn tiếng việt lớp 4 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.63 KB, 25 trang )

M ỤC L ỤC
TT

NỘI DUNG

Trang

1

Phần I- ĐẶT VẤN ĐỀ

1

2

Phần II- GIẢI QUẾT VẤN ĐỀ

2

3

1- Cơ sở lý luận

2

4

2- Thực trạng của vấn đề

5


5

3- Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề

6

6

4- Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm

17

7

Phần III- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

18

8

Tài liệu tham khảo

21

0


DANH MỤC CÁC CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

ST

T
1
2
3
4
5
6
7
8
9

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

GV
G
K
TB
GK1
GK2
GK3
GK4
SGKTV4

Giáo viên
Giỏi
Khá
Trung bình
Giám khảo 1

Giám khảo 2
Giám khảo 3
Giám khảo 4
Sách giáo khoa Tiếng Việt 4

ĐẶT VẤN ĐỀ
1


I. Lý do chọn đề tài:
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập
tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm
trong giai đoạn hiện nay.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt các môn học đặc biệt là môn Tiếng
Việt thì mỗi người giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các
tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế
bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách
thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra
thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Đó là một trong
những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con
người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn
ra hàng ngày.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy
học ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em
bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học
tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội dung
học tập lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông qua
các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức một cách dễ dàng, củng cố,
khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng

thú trong học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi một
cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học sẽ ngày một
nâng cao. Chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm:
Tổ chức một số trò chơi môn Tiếng Việt lớp 4 nhằm gây hứng thú học
tập cho học sinh.
2


II. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
- Tổ chức một số trò chơi môn Tiếng Việt lớp 4 nhằm gây hứng thú
học tập cho học sinh
- Đối tượng: Học sinh lớp 4.
III. Mục đích của việc nghiên cứu:
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiều học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường
hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Góp phần gây hứng thú học tập môn tiếng Việt cho học sinh, một môn
học được coi là khó hiểu, dễ gây chán nản trong học sinh thì việc đưa ra các
trò chơi nhằm mục đích để các em học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi học
tập không những chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em
củng cố và khắc sâu các tri thức đó.
- Tạo cho các em có cơ hội phát huy trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng
tạo.
- Tạo cho các em có môi trường giao tiếp thân thiện, rèn được cả 4 kĩ
năng ( nghe, nói , đọc, viết). Tạo cho các em biết cách phối hợp với bạn bè
trong học tập. Ghi nhớ bài học bằng nhiều hình thức, chống học vẹt, không
gây sự nhàm chán, căng thẳng trong học tập. Khi thực hiện trò chơi còn
nhằm củng cố kiến thức đã học cho chọc sinh. Học sinh hiểu và tiếp thu bài

nhanh, các trò chơi được đưa vào tiết học đều mang tính giáo dục cao. Trong
sáng kiến này còn một điểm nhấn mạnh là giáo viên không nên lạm dụng
trời gian trong khi sử dụng trò chơi trong học tập, phải biết cách phối hợp
hài hoà trong việc phân bố thời gian của tiết dạy khi đưa trò chơi vào thực
hiện trong tiết dạy đó.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3


I. Cơ sở lý luận của vấn đề:
1. Vị trí của môn tiếng Việt trong trường Tiểu học:
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng
cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn tiếng Việt cũng
như những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những
nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt
động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.
Môn tiếng Việt ở trường Tiều học là một môn học có nhiều phân môn
nhỏ : phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn, Tập đọc, Chính tả các phân
môn này chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học .
Môn tiếng Việt có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện về
ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, hay những lời văn trong sáng khi viết văn….
Mỗi phân môn đều bắt trẻ phải tư duy, thao tác tư duy cần thiết để con người
phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động
trong thời đại mới.
2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học:
- Ở lứa tuổi Tiểu học, cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay
nói cụ thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ
thể còn thấp nên trẻ không thể làm lâu một việc đơn điệu, dễ mệt và mất tập
chung.

- Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay
khi chúng không tập trung cao độ. Vì vậy, người giáo viên phải tạo ra hứng
thú trong học tập và phải cho các em thường xuyên được luyện tập. Học sinh
Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng nào đó
nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song
các em chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ
4


dùng dạy học, đưa học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành,
tổ chức các trò chơi xen kẽ ... để củng cố khắc sâu kiến thức
* Tác dụng của trò chơi trong dạy học:
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính
quá trình hoạt động, trong bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi.
Trò chơi là loại phổ biến của hoạt động vui chơi là chơi theo luật, luật của
trò chơi chính là các quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu của hành
động trò chơi, luật của trò chơi có thể tường minh có thể không. Trò chơi
học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với kiến thức kỹ
năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học
sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi học
sinh được vận dụng các kiến thức kỹ năng đã học vào các tình huống của trò
chơi và do đó học sinh được thực hành luyện tập củng cố mở rộng kiến thức
kỹ năng đã học. Như vậy trong trò chơi học tập các kỹ năng môn tiếng Việt
được đưa vào trò chơi.
Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học, có thể nói nó
quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em
luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được
chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu
lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi và buồn bã khi thất bại.

Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp
học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn
luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ
qua hoạt động chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ,
nhờ sử dụng Trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động
vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
5


Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục.
3. Cơ sở thực tiễn
Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén, có óc tưởng tượng
phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy nhưng rất dễ bị phân
tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính vì thế nội dung chương
trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt làm thế nào
cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi là điều không thể xem nhẹ. Đặc biệt đối
với học sinh lớp 4, lớp mà các em vừa mới làm quen với những kiến thức
mới mẻ chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là
chủ đạo.
Muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học với mục tiêu: Lấy học sinh làm trung tâm hướng tập
trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Để đạt được hiệu quả
thì người giáo viên là người định hướng, tổ chức ra những tình huống học
tập nó kích thích óc tò mò và tư duy độc lập. Muốn các em học được thì
trước hết giáo viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và lựa chọn, vận
dụng các phương pháp sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương pháp
trực quan, thuyết trình, trò chơi ... hoặc bài nào thì sử dụng phương pháp
giảng giải, kiểm tra, thực hành ... nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý
của học sinh Tiểu học.

Học sinh Tiểu học không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như làm
một việc gì nhiều vì thề giáo viên có thể thay đổi hoạt động học của các em
trong giờ học; cho các em thảo luận, làm bài tập hoặc thông qua trò chơi. Có
như vậy mới gây được hứng thú học tập và khắc sâu được bài học.
II. Thực trạng của vấn đề:
1. Đối với giáo viên:

6


Trong nhiều năm qua, tôi rất may mắn được ban giám hiệu phân công
giảng dạy ở lớp 4 , được dự giờ của đồng nghiệp rất nhiều. Tôi nhận thấy
mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt nhưng một số giáo viên
vẫn còn nặng tâm lý, đây là môn học chính nên trong quá trình giảng dạy họ
rất chú trọng việc truyền thụ kiến thức với mục đích giúp học sinh học tốt
môn này. Việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình
thức hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng. Mặt
khác, còn một số giáo viên khi sử dụng các trò chơi học tập thì chưa chọn
lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc
tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả.
2. Đối với học sinh:
Bạch Hạc là cửa ngõ của thành phố, nơi gặp gỡ của ba dòng sông,
vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời nhưng dân cư chủ yếu sống bằng
nghề khai thác khoáng sản( cát, sỏi), chài lưới … . Do đó các em ở độ tuổi
bậc tiểu học phần nào cũng chịu ảnh hưởng từ gia đình nhất là khi họ phải đi
làm ăn xa , dài ngày hoặc chỗ ở không ổn định. Đặc biệt mấy năm gần đây
do suy thoái kinh tế việc vận tải gặp nhiều khó khăn, việc làm không ổn
định dẫn đến tệ nạn xã hội phát sinh… . Tất cả các yếu tố đó tác động đến
việc học của học sinh . Qua quan sát học sinh học tập tôi nhận thấy còn một
số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt

động học tập. Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập. Khả năng
học tập của học sinh rất khác nhau, cùng một độ tuổi nhưng trình độ của các
em có thể chênh lệch nhau. Mỗi em có một khả năng nổi trội riêng nhưng
các em chưa biết phát huy hết khả năng của mình.
Trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đổi một cách
thức dạy học mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động
hơn khi học Tiếng Việt. Qua đó, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày
7


càng hoàn thiện và phát triển. Vì vậy, vận dụng trò chơi học tập trong môn
Tiếng Việt là hết sức cần thiết.
Trước khi thực hiện đưa các trò chơi vào dạy học trong môn Tiếng
Việt tôi có khảo sát học sinh trong phân môn Luyện từ và câu của môn Tiếng
Việt lớp 4 bài “Từ ghép và từ láy “ tại lớp 4B, vào tháng 9, năm học 2011 –
2012 và thu được kết quả như sau:
 Kết quả khảo sát
Kết quả khảo sát
Tổng số HS

25

G
0

K
9

TB
11


Yếu
5

III . CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ
1. Đối với giáo viên:
- Mỗi trò chơi phải củng cố được một nội dung học cụ thể trong
chương trình (Có thể là kiến thức cần kiểm tra bài cũ, kiến thức bài mới,
kiến thức thực hành, luyện tập…)
- Các trò chơi phải giúp học sinh rèn luyện kỹ năng học tập, phát huy
trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo.
- Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian (Sử dụng trong giờ học từ 5
đến 10 phút), thích hợp với môi trường học tập.
- Trò chơi có sức hấp dẫn, thu hút được sự chú ý, tham gia của học
sinh, tạo không khí vui vẻ, thoải mái.
- Trò chơi cần phải gần gũi, sát thực, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học
sinh. Tổ chức trò chơi không quá cầu kỳ, phức tạp.
- Sử dụng triệt để yêu cầu, nội dung kiến thức cơ bản, cũng như đồ dùng,
phương tiện có sẵn của môn học (ở thư viện, đồ dùng của giáo viên, học
sinh…).

8


2. Đối với học sinh:
Trò chơi học tập Tiếng Việt kích thích hứng thú nhận thức.
Trò chơi học tập bên cạnh chức năng giải trí còn giúp học sinh tự
củng cố kiến thức, kĩ năng, thói quen học tập một cách hứng thú, thói quen
làm việc theo nhiều hình thức (cá nhân, nhóm, lớp). Các tiết học có trò chơi

sẽ thu hút mức độ tập trung của học sinh mà không một phương pháp nào
sánh được.
Trò chơi học tập Tiếng Việt là một trong những phương tiện hình
thành các năng lực trí tuệ.
Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định
của quá trình tâm lí. Trong trò chơi, ở trẻ bắt đầu hình thành sự chú ý có chủ
định và ghi nhớ có chủ định. Khi chơi trẻ tập trung chú ý hơn và ghi nhớ
được nhiều hơn. Bởi vì bản thân trò chơi đòi hỏi trẻ phải tập trung vào
những dữ kiện và đối tượng được đưa vào tình huống của trò chơi cũng như
nội dung của trò chơi.
Trò chơi học tập Tiếng Việt ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển
ngôn ngữ và trí tưởng tượng.
Vui chơi ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của học sinh nói
chung và của học sinh Tiểu học nói riêng. Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi
đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ
nhất định
Trò chơi học tập Tiếng Việt thực hiện chức năng hoạt động luyện
tập thực hành.
Các em được hình thành những kĩ năng phân biệt được bản chất trong
các kiến thức tiếng Việt ở mỗi trò chơi, hiểu được sâu sắc và đầy đủ hơn các
tri thức đã học. Với các trò chơi Thi viết câu gồm các chữ giống nhau ở chữ
9


cái đầu, Thi đặt câu theo mẫu, Thi tìm từ ghép có cùng một tiếng… các em
hiểu rõ hơn về cấu tạo của từ, của câu tiếng Việt, góp phần hình thành và rèn
luyện kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn.
Trò chơi học tập Tiếng Việt giúp hình thành đức tính trung thực, có
kỉ luật, tính độc lập, tự chủ, có ý thức cao.
Khi tham gia trò chơi, học sinh phải tuân thủ theo những quy tắc nhất

định (đã được nêu trước trò chơi). Việc các em tiếp nhận và tuân theo những
quy tắc đó giúp các em có khả năng tự kiềm tra và kiểm tra lẫn nhau trong
trò chơi. Khi tham gia vào trò chơi, nhập vai quan hệ với các bạn cùng chơi
buộc các em phải đem những hành động của mình phục tùng những yêu cầu
nhất định bắt nguồn từ ý đồ chung của trò chơi.
MỘT SỐ TRÒ CHƠI MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4
1. Tổ chức trò chơi trong môn tiếng Việt nói chung và các phân
môn của môn Tiếng Việt nói riêng :
Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ
chức và thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
a. Thiết kế trò chơi trong môn tiếng Việt:
* Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn tiếng Việt nói chung và các
phân môn trong môn tiếng Việt nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài
học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho
phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy tiếng Việt có hiệu quả
cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn
kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau:
+Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục. Trò chơi phải nhằm mục đích củng
cố khắc sâu nội dung bài học. Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lý học sinh
lớp 4, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà
trường.
10


+ Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú. Trò chơi phải
được chuẩn bị chu đáo. Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh
* Cấu trúc của Trò chơi học tập:
+ Tên trò chơi
+ Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến
thức, kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết

kế trong trò chơi.
+ Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò
chơi học tập.
+ Nêu lên luật chơi: chỉ rõ qui tắc của hành động chơi quy định đối
với người chơi, quy định thắng thua của trò chơi.
+ Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.
+ Nêu lên cách chơi.
b. Cách tổ chức trò chơi:
Thời gian tiến hành : thường từ 5 - 7 phút
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi:
+ Nêu tên trò chơi
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ luật
chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi
- Chơi thật
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của ngươi tham dự, giáo viên có thể
nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
- Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp
nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của
học sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn
giản, vui (như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ....)
11


2. Giới thiệu một số trò chơi trong môn tiếng Việt lớp 4
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng
trong quá trình dạy học cho học sinh lớp 4 trong những năm gần đây.
Ví dụ : Bài tập 3 tiết Chính tả, SGK TV/4 tập 2 trang 5. Điền vào chỗ trống
vần iêc hay iêt.
Mục tiêu của bài tập là học sinh nhận diện được các tiếng có chứa vần

iêt, iêc. Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung: Xếp các tiếng trong
tập hợp sau thành 2 nhóm, một nhóm gồm các tiếng có vần iêt và một nhóm
gồm các tiếng có vần iêc. Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung: điền
từ chứa tiếng iêt và iêc dưới hình thức thi đua giữa hai dãy….
Tiến hành thiết kế trò chơi
Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người
chơi, cách chơi…), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài
tập của Sách giáo khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác định
mục tiêu bài tập cần rèn của giáo viên. Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ
năng cần thiết cho học sinh.
Một nội dung trò chơi có thể được thể hiện thành các hình thức tổ chức
trò chơi khác nhau.
Ví dụ: Phân môn luyện từ và câu bài Mở rộng vốn từ: Nhân hậu - Đoàn kết
SGK TV4/T17.
Nội dung trò chơi xếp các từ trong tập hợp sau thành hai nhóm : một
nhóm gồm các từ tiếng nhân có nghĩa là người, một nhóm gồm các từ tiếng
nhân có nghĩa là lòng thương người.
Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau:
Trò chơi chung sức.
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên,
từng nhóm bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã
12


thống nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên
bảng lớp. Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai chuẩn: Chuẩn chính xác
và chuẩn nhanh nhẹn.
* Trò chơi “Chọn ô số”
Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: Luyện tập tả
con vật, Tiếng Việt 4, tập 2, trang 120.

- Mục tiêu : Giúp học sinh:
Phát triển vốn từ ngữ miêu tả con vật, đặc biệt là các từ miêu tả về hoạt
động thường xuyên của con vật. Phát triển kĩ năng trình bày của học sinh.
- Chuẩn bị:
Một bộ ảnh chụp con vật ở các tư thế hoạt động khác nhau có đánh số
từ 1 đến hết số ảnh chuẩn bị được.
Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau:

1

2

3

4

5

6

7

8

9

- Tiến hành:
Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tham gia trò chơi ( khuyến khích
học sinh xung phong ). Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng
phụ. Sau đó giáo viên ( hoặc cử một học sinh khác) dán bức ảnh có số tương

ứng lên bảng, người chơi có nhiệm vụ miêu tả về hoạt động của con vật
trong ảnh (từ 2-3 câu).
Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng
phụ thuộc vào thời gian dành cho trò chơi).

13


Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả
hay nhất. Học sinh nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng
cuộc.
* Lưu ý: Giáo viên có thể thay đổi hình thức chơi bằng cách chia số học
sinh trong lớp thành 3 dãy thi đua với nhau.
* Trò chơi “Đếm số cánh hoa”
Trò chơi được vận dụng để củng cố kiến thức của bài chính tả ở sách
Tiếng Việt 4, tập 1 , trang 56.
Bài tập 3: Thi tìm nhanh từ láy:
Các từ láy có tiếng chứa âm S. Các từ láy có tiếng chứa âm X.
- Mục tiêu: Giúp học sinh:
Học sinh tìm được những từ ngữ có tiếng chứa âm S và X. Nhằm để
khắc phục lỗi chính tả S/X ở học sinh.
- Chuẩn bị:
Nhiều miếng bìa cắt theo hình cánh hoa ( hình 1a ). Vẽ trực tiếp lên
một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa.
Trong mỗi nhị hoa ghi: các từ láy âm S; các từ láy có âm X.( hình 1b )
Các từ láy
âm đầu l

Hình 1a : Cánh hoa


Các từ láy
vần có âm
x

Hình 1b : Nhị hoa

Tiến hành:
Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số bộ nhị hoa
và cánh hoa chuẩn bị được. Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ
ghi từ theo yêu cầu vào các cánh hoa ( mỗi cánh hoa chỉ ghi một từ ) rồi dán

14


vào nhị hoa cho phù hợp. Sau 5-7 phút, giáo viên hô: " Dừng chơi !" Nhóm
nào dán được nhiều cánh hoa đúng và đẹp sẽ thắng cuộc
Lưu ý:
Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu ở các
bài: danh từ chung và danh từ riêng Tiếng Việt 4 tập 1 trang 57……chỉ cần
thay đổi yêu cầu ghi trên nhị hoa. Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc
tư duy của học sinh:
* Trò chơi Nhìn tranh, kể đoạn
Trò chơi thực hiện trong phân môn Kể chuyện sách tiếng Việt lớp 4 bài
" Sự tích hồ Ba Bể" Tiếng Việt 4 tập 1 trang 8
Mục đích:
Rèn kĩ năng kể đúng nội dung từng đoạn của câu chuyện dựa vào
tranh vẽ, gợi ý trong SGK hoặc tranh có sẵn của bộ đồ dùng dạy học.
Luyện trí nhớ trau dồi năng lực diễn cảm mạch lạc đủ ý chính trong
câu chuyện mình định kể.
Chuẩn bị:

Có bộ tranh kể chuyện, ghi rõ tranh 1,2,3,4;
4 học sinh làm ban giám khảo và 1 thư kí;
Có tiêu chuẩn cho điểm chi tiết;
Có bảng điểm chi tiết sẵn
Tranh
Tên
Điểm
Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Xếp

số
HS
GK1
GK2
GK3
GK4
TB
loại
1
2...
Mỗi giám khảo có một bộ thẻ điểm từ điểm 5,6,7,8,9,10 được làm
bằng bìa cứng (kích thước 10cm x 20 cm).


15


Cách tiến hành: Giáo viên tổ chức cho học sinh thi kể từng đoạn theo tranh
của câu chuyện mà giao viên đưa ra (4 học sinh thi kể) BGK cho điểm từng
người thi kể, thư kí ghi chép điểm của từng người kể.
Kết thức cuộc thi thư kí tính điểm trung bình của từng học sinh tham
gia thi và xếp hạng nhất, nhì theo từng tranh và đánh giá cả 4 tranh của câu
chuyện.
* Lưu ý: Tuỳ điều kiện thời gian và hoàn cảnh cho phép mà giáo viên có thể
cho thi kể theo từng tranh hoặc cả một câu chuyện.
* Trò chơi: Nghe đọc đoạn đoán tên bài
Mục đích:
Rèn kĩ năng đọc đúng, rõ ràng một đoạn văn trong bài đã học (tập đợc
lớp 4) tập 1;
Luyện kĩ năng nghe hiểu và nhớ tên các bài tập đọc đã học.
Chuẩn bị:
Yêu cầu học sinh ôn lại các bài tập đọc đã học ở Tiếng Việt lớp 4 tập 1
nhằm phục vụ cho các tiết ôn tập ở giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì
II, cuối học kì II.
Ôn tập giữa học kì I: Dế Mèn bênh vợ kẻ yếu, Thư thăm bạn, Người
ăn xin, Một người chính trực, Một nhà thơ chân chính, Những hạt thóc
giống, Nỗi rằn vặt của An-đrây-ca, Chị em tôi, Trung thu độc lập, Ở vương
quốc tương lai, Đôi giày ba ta màu xanh, Thưa chuyện với mẹ, Điều ước của
vua Mi-đát.
Cách tiến hành:
Giáo viên nêu yêu cầu chơi:
- 2 nhóm tham gia chơi, ngồi đối diện nhau, cử nhóm trưởng điều
hành chung cả nhóm, bốc thăm để chọn nhóm đọc trước.


16


- Nhóm bốc được chọn đọc trước được mở sách giáo khoa để chọn
đoạn đọc (trong một số bài tập đọc đã nêu ra), nhóm còn lại nghe để đoán
tên bài tập đọc đã học. sau khi đã đoán xong thì nhóm 2 lại thực hiện đọc
đoạn văn đã chọn và nhóm 1 lại đoán tên bài tập đọc đã học, mỗi nhóm được
thực hiện 3 lần đoán tên bài và đọc.
- 2 nhóm tham gia chơi đều được tính điểm để so sánh khi trò chơi kết
thúc, giáo viên sẽ chọn nhóm nào được nhiều điểm hơn nhóm đó sẽ thắng
cuộc
* Lưu ý khi đoán tên bài cả hai nhóm đều không được mở SGK, nhóm
2 có thể lấy nội dung của bài tập đọc mà nhóm 1đọc nhưng cần chọn đoạn
văn khác trong bài, đoạn văn nên ngắn gọn không quá dài.
Ví dụ:

Đọc đọc văn
Nhóm 1:

Đoán tên bài

Chị nhà Trò đã bé nhỏ lại gầy yếu quá, người bự những

Nhóm 2:

phấn như mới lột. Chị mặc áo thân dài, đôi chỗ chấm điểm

Dế Mèn bênh

vàng, hai cánh mỏng như cánh bướm non, lại ngắn chùn


vực kẻ yếu

chùn.
Nhóm 2:
Hồng ơi!

Nhóm 1:

Mình hiểu Hồng đau đớn và thiệt thòi như thế nào khi ba Thư thăm bạn
Hồng đã ra đi mẫi mãi.
Nhóm 1:
Tôi lục tìm hết túi nọ túi kia, không có tiền, không có đồng
hồ không có cả một chiếc khăn tay. Trên người tôi chẳng có
tài sản gì.
Người ăn xin vẫn đợi tôi. Tay vẫn chìa ra, run lẩy bẩy.

17

Nhóm 2:
Người ăn xin


Nhóm 2:
Phò tá Cao Tông được 4 năm, Tô Hiến Thành lâm bệnh
nặng. Quan tham trí chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm
hầu hạ bên giường bệnh. Còn giám nghị đại phu Trần Trung
Tá do bện nhiều công việc nên không mấy khi đến thăm Tô

Nhóm 1:

Một người
chính trực

Hiến Thành được.
Nhóm 1:
Có chú bé mồ côi tên là Chôm nhận thóc về, dốc công chăm
sóc mà không nảy mầm.
Đến vụ thu hoạch, mọi người nô nức chở thóc về kinh thành
nộp cho nhà vua. Chôm lo lắng đến trước vua, quỳ tâu:

Nhóm 2:
Những hạt
thóc giống

Tâu bệ hạ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.
Nhóm 2:
Cho đến một hôm, vừa yên vị trong rạp chiếu bóng, tôi chợt
thấy em gái mình lướt qua cùng một đứa bạn. Từ ngạc
nhiên, tôi chuyển sang giận dữ và mặc lời năn nỉ của bạn,

Nhóm 1:
Chị em tôi

tôi bỏ về.
* Trò chơi : Ghép các dòng thơ thành bài
Trong phân môn tập đọc lớp 4 có những trò chơi mang tính khích lệ
các em có hứng thú trong học tập như một số trò c hơi sau:
Mục đích:
Rèn kĩ năng đọc nhanh và thuộc các bài thơ đã học tro SGK lớp 4;
Luyện tác phong nhanh nhẹn, khéo léo trong việc ghép các băng giấy

ghi các câu thơ sao cho đúng các bài thơ đã học.
Chuẩn bị:
- Làm các bộ băng giấy (hoặc bìa cứng) ghi đầu bài và từng dòng thơ
trong bài thơ học thuộc lòng theo TV lớp 4.
18


- Chia lớp thành 2,3 nhóm tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp để học
sinh tham gia cuộc thi có một bộ băng giấy ghi sẵc các dòng thơ của bài thơ
"Mẹ ốm" mỗi dòng thơ là một băng giấy nhỏ.
Mọi khi mẹ thích vui chơi

Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu

Lá trầu khô giữa cơi trầu

Truyện Kiều khép lại trên đầu bấy nay.

- Giáo viên làm trọng tài.
Cách tiến hành:
- Trọng tài đặt trước mỗi nhóm tham gia thi một bộ băng giấy đã
chuẩn bị và xáo trộn thứ tự các băng giấy và úp phần có chữ xuống mặt bàn.
- Trọng tài nêu luật chơi
Không lật băng giấy trước khi có lệnh; không nhìn bài của bạn cùng
chơi;
Nghe lệnh bắt đầu tất cả cùng lật băng giấy đọc và xếp đúng thứ tự
các câu thơ trong bài, cần đặt các băng giấy ngay ngắn và trình bày đúng
theo thể thơ như trong SGK.
Trọng tài hô bắt đầu tất cả cùng thực hiện yêu cầu nhóm nào xếp
đúng, đủ, đẹp, nhanh nhất sẽ là nhóm thắng cuộc.

* Lưu ý:

19


Nếu có nhiều nhóm học sinh cùng xếp xong cùng nhau trọng tài cần
xem xét về cách trình bày, thực hiện luật chơi...
IV. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến đã được áp dụng đối với học sinh lớp 4B trường Tiểu
Bạch Hạc.Tôi nhận thấy không khí trong những giờ học trở nên sôi nổi hơn,
học sinh rất tích cực, các em chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh
kiến thức, thích thú với những hình thức học tập mới lạ. Ngoài ra những kĩ
năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp của các em phát triển vượt bậc.
Những học sinh khá thì ngày càng tự tin năng động, có trách nhiệm cao
trong học tập còn những học sinh thụ động thì trở nên tích cực hơn, bắt đầu
biết chia sẻ, hợp tác với các bạn để hoàn thành một nhiệm vụ học tập,tình
bạn giữa các em thêm gắn bó. Lớp học thành một khối đoàn kết, chất lượng
được nâng lên rõ rệt. Về phía bản thân tôi, tôi cảm thấy giờ dạy nhẹ nhàng
hơn, hiệu quả hơn .
- Kết quả thí nghiệm sau khi thực hiện đưa trò chơi vào các phân môn
trong môn Tiếng Việt. Tháng 5 năm 2012, tôi đã tiến hành khảo sát và thu
được kết quả như sau:
Kết quả khảo sát
Tổng số HS

25

G

K


TB

Yếu

10

9

6

0

- Những kinh nghiệm áp dụng sáng kiến là: Sử dụng trò chơi nhằm
gây hứng thú học tập, khắc sâu kiến thức, tạo được mối quan hệ thân thiết
cho học sinh khi hoạt động chơi mà học.
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
I. Những bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thực hiện trong các giờ học Tiếng Việt hàng ngày, kĩ
năng vận dụng trò chơi của tôi linh hoạt hơn, thành thạo hơn. Tôi có nhiều
20


kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp nhất, đảm bảo
giúp học sinh tìm ra kiến thức mới, rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo mục
tiêu bài tập. Từ đó khả năng sáng tạo được nâng lên một bước, giúp cho cho
tôi thiết kế được nhiều trò chơi học tập hấp dẫn hơn. Việc sử dụng trò chơi
học tập trong tiết học chính là tạo ra một môi trường học tập mà học sinh có
thể tích cực chủ động hơn. Các em mạnh dạn tham gia các hoạt động. Từ đó
những kĩ năng giao tiếp được phát triển. Sự say mê học tập của các em là

nguồn động viên thúc đẩy tôi vận dụng các trò chơi học tập vào tiết học.
Đồng thời luôn tìm tòi, nghiên cứu thiết kế các trò chơi mới để lôi cuốn các
em tham gia vào các hoạt động học tập.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Sử dụng trò chơi với nhiều hình thức, làm cho lớp học thêm sinh
động, học sinh tiếp thu bài nhanh, không gây sự mệt mỏi nhàm chán trong
quá trình học tập. Trò chơi học tập phải có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ
nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện.Trò chơi
cần diễn ra trong một thời gian hợp lí, phù hợp với tất cả các đối tượng học
sinh. Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các trò chơi học tập sẽ có tác dụng rất tích
cực, kích thích hứng thú học tập giúp tiết học đạt hiệu quả cao. Không lạm
dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức quá nhiều
trò chơi trong tiết học gây cho học sinh sự mệt mỏi. Tránh lặp đi lặp lại trò
chơi học tập trong tiết học sẽ không hấp dẫn học sinh.
III. Khả năng ứng dụng và triển khai:
- Sáng kiến này có khả năng ứng dụng cho tất cả các phân môn trong
môn Tiếng Việt của lớp 4, ngoài ra nhiều trò chơi tôi đưa ra có thể dạy cả
trong quá trình thực hiện bài mới hay phần cung cấp kiến thức cho học sinh
hoặc phần ôn tập vào giữa kì và cuối kì cho các em.

21


- Trong quá trình nghiên cứu tôi thấy được các giải pháp của sáng kiến
không mang tính áp đặt cho bất kì một giáo viên nào, mà nó có tính chất
tham khảo và vận dụng linh hoạt vào từng tiết dạy của mỗi giáo viên.
IV. Kiến nghị, đề xuất:
Để giúp đội ngũ giáo viên chúng tôi giảng dạy có hiệu quả hơn, tôi
xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau:
- Tăng cường sử dụng trò chơi học tập trong các tiết dạy của môn

Tiếng Việt.
- Giáo viên phải có thời gian để nghiên cứu các trò chơi một cách kĩ
lưỡng, tránh gây sự nhàm chán trong quá trình thực hiện.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về Tổ chức một số trò chơi môn
Tiếng Việt lớp 4 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh . Trong sáng kiến
chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy cô, bạn bè, đồng
nghiệp đóng góp, chia sẻ những kinh nghiệm hay hơn để áp dụng trong thực
tế giảng dạy có hiệu quả đồng thời chất lượng học tập của các em ngày một
tiến bước . Tôi xin chân thành cảm ơn.
Người viết sáng kiến

Hoàng Thị Minh Hạnh
Tµi liÖu tham kh¶o
1. Tiếng Việt 4(tập 1 + 2)

Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)

NXB GD.

2. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 4(tập 1 + 2) ,
Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)

NXB GD,

3.Phương pháp dạy học Tiếng Việt 4,
Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)
4. Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chuơng trình mớii,
22

NXB GD



Nguyễn Trí

NXB GD

5. Trò chơi thực hành Tiếng Việt, Nguyễn Tuân

NXBGD

6. Vở Bài tập Tiếng Việt 4(tập 1 + 2) ,,

NXB GD.

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
23


...........................................................................................................................
..........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
..........................................................................................................................

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO VIỆT TRÌ
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..
………………………………………………………………………………
…….………………………………………………………………………….
..........................................................................................................................
..
………………………………………………………………………………
……….……………………………………………………………………..
..........................................................................................................................
.........................................................................................................................

24


×