Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TL đạo đức TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.34 KB, 28 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
Sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) ở nước ta hiện nay đang hình thành các tư tưởng, ý thức và chuẩn
mực đạo đức mới, tạo nên những sắc thái về đạo đức, lối sống mới trong xã
hội. Đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều tư tưởng, ý thức và những tiêu chí
đạo đức đi ngược lại với những giá trị truyền thống của dân tộc, trở thành một
“vấn nạn” trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Do đó cần có cái nhìn đúng đắn
về thực trạng trên và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế
để điều chỉnh nền kinh tế thị trường phù hợp với mục tiêu và bản chất của
CNXH. Phát triển nền kinh tế thị trường vừa có tác động tích cực, vừa cả tiêu
cực đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt tích cực là tạo điều kiện để xóa
bỏ tâm lý thụ động, ỷ lại của người dân đối với Nhà nước và xã hội; phát huy
tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân, tổ chức và đơn vị; cổ vũ tinh thần
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cá nhân và của cả cộng đồng…
Còn về mặt tiêu cực là sự phân hóa giàu nghèo một cách sâu sắc; động cơ
thực dụng, vụ lợi thôi thúc con người chạy theo lợi ích vật chất thuần túy, coi
nhẹ các nhu cầu và lợi ích tinh thần; kích thích lòng tham lợi, chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống bất chấp đạo lý, làm xói mòn, hủy hoại nền
tảng và những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc... Như vậy, đạo
đức có vai trò hết sức quan trọng và là yếu tố bên trong của chính nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được ý thức và tầm quan
trọng của việc nghiên cứu vấn đề nên tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Vấn đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường” để nghiên cứu. quá trình làm
bài, dù đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm hiểu song do những hạn chế nên
bài làm của tôi không tránh khỏi những thiếu xót, hạn chế, rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận của tôi
được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.



2

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1. Khái niệm đạo đức
Quan niệm khoa học về nguồn gốc của đạo đức là quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác, Ăngghen đã quan niệm đạo đức
nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Theo Mác, Ăngghen, con người khi sống phải có “quan hệ song trùng”.
Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn
cuộc sống của mình. Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con
người phải xông vào tự nhiên để thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác động vào
tự nhiên, con người không thể đơn độc, con người phải quan hệ với con người
để tác động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người và người là hệ quả
của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát
triển của xã hội loài người, Mác, Ăngghen cho rằng “lao động là điều kiện cơ
bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người” (Mác, Ăngghen, toàn tập, T 20,
NXB CTQG. H 1994, tr 641). Rằng “người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi
làm chính trị, khoa học, nghệ thuật…”. Xuất phát từ con người thực tiễn, chứ
không phải con người thuần túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến
quan niệm về phương thức sản xuất quyết định đối với toàn bộ các hoạt động
của con người, xã hội loài người. Trong “Lời tựa” của tác phẩm “Góp phần
phê phán chính trị - kinh tế học”, Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống
vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.



3

Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại chính
sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” (Mác, Ăngghen toàn tập,
T13, NXBCTQG H1993, tr 15). Luận điểm này chính là chìa khóa để khám
phá tất cả các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở
bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự
biểu hiện của những năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con
người. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. “Xét cho
cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” (Mác, Ăngghen toàn tập, T20,
NXBCTQG, H1994, tr 137).
Những phong tục đạo đức của người nguyên thủy, đời sống của xã hội
văn minh là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và các hoạt động nhận thức của
xã hội đó. Sự phát triển từ phong tục đạo đức của người nguyên thủy đến ý
thức đạo đức của xã hội văn minh là kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao
của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Xã hội Cộng sản nguyên thủy là bước đầu tiên con người thoát khỏi
trạng thái động vật. Hoạt động thực tiễn của xã hội hết sức thấp kém, chưa tạo
nên sản phẩm thặng dư, và do đó, tư hữu và chế độ tư hữu chưa có tiền đề
khách quan để xuất hiện. Trong xã hội chưa có hiện tượng áp bức xã hội,
nhưng con người vẫn bị nô dịch bởi những lực lượng tự phát của tự nhiên.
Tuy nhiên, xã hội nguyên thủy đã đem lại nội dung “ngây thơ” “thuần phác”
nhưng “tốt đẹp thơ mộng” cho đạo đức người nguyên thuỷ. Đạo đức này chưa
biết nói đến thói xấu, cái ác trong xã hội văn minh. Đây là “ý thức bầy đàn
đơn thuần” của “bản năng được ý thức”. Ý thức đạo đức chưa tách ra thành
hình thái độc lập.



4

Đạo đức của con người nguyên thuỷ là hình thái sinh thành trừu tượng
của đạo đức. Hình thái của nó cũng trừu tượng và không có tính duy lý.
Những hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp tạo nên những
cơ sở kinh tế, xã hội và tinh thần cho sự phát triển ý thức đạo đức. Những hệ
thống đạo đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy “những
quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho
vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản
xuất và trao đổi” (Mác, Ăngghen toàn tập T 20, CTQA H 1994 tr136) Những
hệ thống đạo đức đó phản ánh và điều chỉnh những quan hệ xã hội đa dạng,
phong phú và phức tạp, trong khi ý thức nói chung và đạo đức nói riêng của
người nguyên thủy chỉ phản ánh hoàn cảnh gần nhất có thể cảm giác được.
Đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản
xuất tinh thần của xã hội. Đây là một bước tiến, làm đạo đức phát triển so với
xã hội nguyên thủy. Tuy nhiên, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những
cái ác, tham lam, ích kỷ, lừa dối… mà loài người phải đấu tranh hàng ngàn
năm nay để chống lại nó.
Về mặt hình thức, đạo đức của xã hội văn minh đã phát triển vượt bậc.
Do nhận thức của loài người vượt bỏ tư duy cụ thể, chuyển sang xây dựng lý
luận… Nội dung đạo đức được thể hiện dưới hình thức kinh nghiệm, khái
niệm, lý tưởng, chuẩn mực và đánh giá đạo đức, do đó đạo đức ngày càng
phát triển về cấu trúc. Và đến lượt mình, sự hoàn thiện cấu trúc làm cho phản
ánh và điều chỉnh đạo đức trở nên sâu sắc, tự giác. Nội dung của đạo đức
được thể hiện dưới những hình thức cụ thể.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, nội dung và hình thức của đạo đức
phát triển nhưng chưa thật nhân đạo, chưa hoàn thiện. Sự hoàn thiện của nội
dung đạo đức (thật sự nhân đạo) chỉ có thể đạt được khi con người chiến
thắng được tình trạng đối kháng giai cấp và tạo ra những điều kiện để có thể



5

“quên được tình trạng đối kháng giai cấp”. Điều kiện đó chỉ có thể bắt đầu có
được bằng đạo đức cộng sản trong xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội
xã hội chủ nghĩa. Sự hoàn thiện đạo đức được bắt đầu từ đạo đức của giai cấp
công nhân “có nhiều nhân tố hứa hẹn” để dẫn tới một kiểu đạo đức “thật sự có
tính nhân đạo”. Như vậy, xã hội cộng sản nguyên thủy với trình độ bắt đầu
làm nảy sinh đạo đức do hoạt động thực tiễn và nhận thức đã phát triển đạo
đức. Xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai mà hiện thực hôm nay đang
bắt đầu xây dựng sẽ hoàn thiện đạo đức cả về nội dung lẫn hình thức.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra
trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất,
trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát
triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các
quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng
phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan,
là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan
hệ người – người, cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả
của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng
có đạo đức. Đạo đức “đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào
con người còn tồn tại” (Mác, Ăngghen toàn t T3, CTQG, H 1995, tr 43)
1.2.Nền kinh tế thị trường
* Khái niệm thị trường
Thị trường là hình thái tổ chức nơi đó người sản xuất và người tiêu
dùng gặp nhau trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Đặc tính cơ bản của thị trường là
cạnh tranh và tự do tham gia. Trên cơ sở tự do mua bán, thị trường mang lại
lợi ích cho cả hai bên vì người bán thấy có lợi mới bán và người mua nếu

không thấy lợi ích của việc trao đổi thì không mua. Lợi ích đó lớn hay nhỏ tùy
thuộc vào mức độ hoàn hảo của thông tin về thị trường.


6

Thông tin thường là phi đối xứng với ý nghĩa là người bán và người
mua không có cùng độ chính xác về thông tin liên quan đến hàng hóa hay
dịch vụ; thông thường thì người bán biết rõ về chất lượng hàng hóa hơn người
mua. Nhưng sự phi đối xứng về thông tin qúa lớn thì thị trường không bền
vững. Ví dụ cực đoan là nạn làm và bán hàng giả.
Trong trường hợp này người bán có thể lừa người mua một vài lần, chứ
không thể lừa mãi. Do đó thị trường bền vững đòi hỏi sự thành thật, trung
thực, sự tin cậy giữa những người tham gia thị trường.
Nguyên lý của thị trường là cạnh tranh. Cạnh tranh đem lại hiệu quả
cao trong việc sử dụng các nguồn lực, và cung cấp ra thị trường những hàng
hóa và dịch vụ với chất lượng ngày càng tốt và giá cả hợp lý. Đó là giá cả ở
trạng thái bình thường trong đó người bán được bảo đảm một tỉ lệ tiền lời
nhất định và người mua thỏa mãn với giá đó. Để xác lập được trạng thái thị
trường như vậy, cạnh tranh phải ở trong khuôn khổ luật pháp, theo những
"luật chơi" đã được quy định. Nhà nước bảo đảm những điều kiện để có cạnh
tranh bình đẳng, chính đáng. Sự công bằng trong cạnh tranh là một trong
những điều kiện để kinh tế thị trường có chất lượng tốt. Nạn độc quyền, đấu
thầu không công khai hoặc có sự móc ngoặc giữa cán bộ nhà nước với một
bên tham gia đấu thầu dĩ nhiên là xa lạ với kinh tế thị trường.
Adam Smith (1723-1790), người được xem là ông tổ của kinh tế học,
tác giả cuốn sách kinh điển Quốc phú luận(An Inquiry into the Nature and
Causes of the Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, đưa ra hai khái niệm về
giá cả: giá tự nhiên và giá thị trường. Giá tự nhiên là giá thành của sản phẩm
(gồm các chi phí về tư bản, lao động, và các đầu vào khác) cộng với một tỉ lệ

lợi nhuận của người sản xuất. Giá thị trường là giá theo kết quả trao đổi giữa
người bán và người mua. Trong điều kiện tự do tham gia thị trường và cạnh
tranh lành mạnh, giá thị trường sẽ hợp nhất với giá tự nhiên. Trong quá trình


7

điều chỉnh để hai loại giá đó hợp nhất lại, có sự chuyển dịch các nguồn lực từ
nơi có nhu cầu thấp đến nơi cao.
Do đó, thị trường là công cụ hữu hiệu để phân bổ các nguồn lực làm
cho hoạt động kinh tế có hiệu quả. Các cá nhân tham gia thị trường với động
cơ vì lợi ích của riêng mình nhưng kết quả là họ cũng mang lại lợi ích cho xã
hội, vì qua sự điều chỉnh của thị trường (mà Smith gọi là "bàn tay vô hình"),
nguồn lực xã hội được phân bổ hợp lý. Dĩ nhiên có những trường hợp ngoại lệ
(những lĩnh vực nằm trong phạm trù được gọi là "sự thất bại của thị trường")
cần có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước.
* Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một phương thức hoạt động kinh tế do loài người
tạo ra để giải quyết vấn đề sinh tồn và phát triển. Thị trường là một cơ chế
phù hợp với lợi ích, còn trao đổi là một quá trình tổ hợp các lợi ích. A. Smith,
nhân vật đại diện cho phái kinh tế học cổ điển khi ca ngợi về cơ chế trao đổi
thị trường, đã yêu cầu mọi người tiến hành hoạt động tuân theo những qui tắc
sau đây: một là, sản xuất để thu được lợi nhuận; hai là, căn cứ tình hình nhu
cầu của xã hội – do quan hệ cung cầu hàng hoá phán ánh – để quyết định sản
xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu chứ không phải căn cứ vào truyền thống, tập
tục hoặc mệnh lệnh hành chính; ba là, đua nhau sản xuất hàng hoá được xem
là có lợi, đồng thời ra sức cải tiến công cụ, kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản
xuất. Căn cứ vào những quy tắc trên, người sản xuất chỉ sản xuất để thu được
giá trị trao đổi hoặc lợi nhuận, còn tác dụng chủ đạo của thị trường đối với
hoạt động kinh tế mới có thể đưa lợi ích trở thành nguyên tắc tiêu chuẩn quan

trọng hàng đầu trong hoạt động kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất
của xã hội, mọi người không ngừng tăng thêm tích lũy, mở rộng sản xuất và
thị trường, kích thích tiêu dùng. Cầu lợi, cạnh tranh, trao đổi, không ngừng
mở rộng sản xuất và tích lũy, khai thác và mở rộng thị trường, kích thích tiêu
dùng v.v.. mới là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh tế thị trường của


8

mọi người. Bất cứ ai khi bước vào hoạt động kinh tế thị trường nếu vi pnạm
những quy tắc đó đều có thể dẫn tới thất bại. Sự thực, bản chất của luân lý
trong kinh tế thị trường chính là ở chỗ đó.
- Về mặt tích cực:
Cơ chế thị trường kích thích sự phát triển kinh tế, nâng cao tổng công
lợi xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển con người về mọi mặt, trong đó có
đạo đức. Con người tham gia vào hoạt động kinh tế thị trường về nhân cách
được độc lập, tự do có quyền bình đẳng trong cạnh tranh, giữ chữ tín trong
trao đổi và tăng cường quan tâm phát triển lợi ích chung của toàn xã hội.
Tham gia vào kinh tế thị trường, con người có điều kiện phát triển nhân
cách cá nhân: Tính quyết đoán, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính năng động
sáng tạo trong lập thân, lập nghiệp được khẳng định.
- Về mặt tiêu cực:
Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, cơ chế thị trường cũng gây ra
hàng loạt những hiện tượng tiêu cực đối với đạo đức và tiến bộ xã hội.
Đó là, sự phân hoá giàu nghèo một cách sâu sắc, từ đó làm sâu sắc
thêm những mâu thuẫn xã hội.
Kinh tế thị trường dễ nảy sinh những tệ nạn xã hội: tham nhũng, tội
phạm, bạo lực. Đó là sự kích thích lòng tham lợi, dẫn đến khai thác cạn kiệt
nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như sức lực của người lao động. Kinh tế
thị trường còn kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan,

lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý. Đặc biệt, đối với những nước
mới bước vào kinh tế thị trường, sự đụng độ giữa kinh tế thị trường và các giá
trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng trở thành một vấn đề nan giải.


9

Như vây, kinh tế thị trường vừa có ảnh hưởng tích cực, vừa có ảnh
hưởng tiêu cực đối với đạo đức.
Là một lĩnh vực đặc trưng cho nhân tính, đạo đức rất nhạy cảm trước
tác động của kinh tế thị trường, nó trở thành vấn đề cấp bách gây ra mối quan
tâm không chỉ trên bình diện lý luận mà cả trên bình diện thực tiễn. Vì thế,
việc lựa chọn nội dung và hình thức giáo dục thích hợp có ý nghĩa quan trọng
trong việc định hướng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.


10

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI VIỆT
NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY
2.1. Vai trò của đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay
Thứ nhất, đạo đức mới góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành
mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức chịu sự tác động và
ảnh hưởng quyết định của kinh tế,; đồng thời, đến lượt nó, đạo đức cũng tác
động mạnh mẽ đến kinh tế như một sức mạnh được vật chất hoá. Tuỳ thuộc
vào trạng thái của đạo đức trong kinh tế như thế nào mà sự tác động của nó có
thể làm cho kinh tế suy thoái hay tăng trưởng; sự phát triển của kinh tế có thể
đem lại ấm no, hạnh phúc, công bằng cho con người hay làm trầm trọng thêm

tình trạng áp bức, bóc lột, bất công, bất bình đẳng; thu hẹp hay khoét sâu
thêm khoảng cách giàu nghèo...
Cơ chế thị trường với tác động của những quy luật kinh tế khách quan,
đặc biệt là quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị đã tạo ra những hiệu ứng nhất
định về xã hội - đạo đức. Ở đây, hiệu quả và lợi nhuận là mối quan tâm đầu
tiên của mọi chủ thể kinh tế; do đó, người ta coi “thương trường như chiến
trường”, ngày đêm lao tâm khổ tứ, tìm mọi cách để sản xuất, kinh doanh sao
cho có lãi, thu về nhiều tiền của. Trong “cuộc chiến” ấy, rất có thể người ta
gạt bỏ mọi quy phạm đạo đức, chỉ tôn thờ duy nhất một thứ - đồng tiền, gắn
hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống với nó. Sự sùng bái đồng tiền có thể trở thành
một nguyên tắc xử thế và chuẩn mực hành vi của không ít người, là nguyên
nhân của không ít hành vi trái đạo đức, thậm chí vi phạm luật pháp.
Do tính chất khốc liệt của nó, kinh tế thị trường vừa là nguyên nhân,
vừa là điều kiện dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội một
cách nhanh chóng. Đồng thời, những bất công, bất bình đẳng trong xã hội, vì
thế, có cơ hội và điều kiện sinh sôi, nảy nở. Thực tế đó có thể dẫn đến kết cục


11

ngoài mong muốn của chúng ta: sự suy thoái về mọi mặt của đời sống xã hội,
không chỉ về đạo đức, lối sống mà cả về kinh tế.
Đạo đức mới với bản chất khoa học và cách mạng thực sự là liều
thuốc vô cùng quan trọng có thể ngăn chặn những căn bệnh “nan y” của kinh
tế thị trường. Cùng với việc hoàn thiện cơ chế thị trường, xây dựng đạo đức
mới trở thành một giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền
vững, lành mạnh của nền kinh tế, là sự khắc phục tình trạng phát triển thuần
kinh tế nhưng lệch chuẩn về đạo đức, sự tăng trưởng về kinh tế nhưng sa sút
về đạo đức xã hội như đã nói ở trên. Một nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường được xây dựng và phát triển với những chuẩn mực của đạo đức

mới sẽ là sự thống nhất cao giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến
bộ xã hội, từng bước khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường đối với đời sống đạo đức xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước trong điều kiện như vậy sẽ thực sự là yếu tố thuận lợi cho
tiến bộ xã hội đích thực, cho xã hội tương lai mà chúng ta đang hướng tới –
xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, đạo đức mới vừa góp phần hiện thực hoá mục tiêu chính trị
của Đảng ta, vừa góp phần củng cố, giữ gìn sự ổn định của chế độ chính trị.
Trong mối quan hệ giữa chính trị và đạo đức trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, có thể thấy rõ, hầu như giữa đường lối chính trị và quan niệm đạo đức
cách mạng không có sự khác biệt. Mục đích chính trị của giai cấp công nhân
Việt Nam và đạo đức cách mạng là một, đó là xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân. Do đó, ở mỗi con người cộng sản đều là sự thống nhất cao độ
giữa con người chính trị và con người đạo đức, phẩm chất chính trị chân
chính cũng là phẩm chất đạo đức cách mạng; ngược lại, phẩm chất đạo đức
cách mạng cũng bao hàm phẩm chất chính trị của họ. Trong đó, đạo đức cách
mạng là gốc để đề ra đường lối chính trị đúng đắn, còn chính trị là đường lối,
là biện pháp để thực hiện những nội dung, nguyên tắc của đạo đức cách mạng.


12

Cùng với việc nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, việc giữ gìn và nâng
cao phẩm chất đạo đức cách mạng ở người cán bộ, đảng viên là yêu cầu cấp
bách. Phải chăng sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên Xô và Đông Âu trước đây có nguyên nhân từ việc không thường xuyên
giữ vững sự thống nhất giữa lập trường chính trị cộng sản với đạo đức cách
mạng? Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – cơ sở của một xã hội
công bằng, bình đẳng, dân chủ, văn minh vì sự phát triển toàn diện của cá

nhân, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của con người có phát triển vững mạnh và
bền chắc hay không phụ thuộc đáng kể vào việc chúng ta có xây dựng được
những con người mới với tư tưởng, đạo đức, tác phong xã hội chủ nghĩa hay
không. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của đạo đức mới trong
việc củng cố, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ ba, đạo đức mới giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát
huy giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc.
Ngày nay, khi xã hội hiện đại đang hàm chứa nguy cơ xa rời hoặc đứt
đoạn với các giá trị truyền thống – cái làm nên bản sắc dân tộc thì vấn đề bảo
tồn và phát huy các giá trị truyền thống được đặt ra như một nhiệm vụ quan
trọng và cấp bách hơn bao giờ hết. Không chỉ riêng Việt Nam, các quốc gia
khác trên thế giới, đặc biệt các nước phát triển ở châu Á cũng đã và đang phải
đối mặt với thách thức này, đồng thời đang phải “gồng mình” lên để tìm cách
giải quyết. Trong đó, có thể thấy Singapo là một trong những ví dụ điển hình.
Các học giả Singapo cho rằng, do nhu cầu phát triển kinh tế và du nhập kỹ
thuật phương Tây, Singapo đã phải đối mặt với những tác động tiêu cực của
lối sống phương Tây và các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng. Trong khi đó,
truyền thống đạo đức phương Đông, đặc biệt là đạo đức Nho giáo ngày càng
bị mai một đi. Người dân Singapo đang cảm thấy họ bị mất gốc; gia đình
truyền thống của họ vốn là cơ sở của xã hội, nay đã bị xáo trộn khiến cho xã
hội mất ổn định về nhiều mặt. Trước thực trạng đó, các nhà lãnh đạo Singapo
đã tiến hành những chiến dịch tuyên truyền rầm rộ trên các phương tiện thông


13

tin đại chúng và khởi xướng nhiều phong trào “tái sinh về văn hóa” nhằm
thúc đẩy việc khôi phục những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhất là
của Nho giáo.
Khác với các quốc gia tư bản, Việt Nam đang thực hiện nền kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải có những
con người xã hội chủ nghĩa với phẩm chất đạo đức cách mạng - đạo đức mới.
Hơn mọi thứ đạo đức khác, đạo đức mới, một mặt, là sự phản ánh cuộc sống,
đấu tranh xây dựng xã hội mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động;
mặt khác, nó là sự kế thừa có chọn lọc và phê phán những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của quá khứ. Ở đạo đức mới, người ta có thể thấy rõ sự
đồng thuận giữa các giá trị đạo đức truyền thống với những chuẩn mực đạo
đức mới; hơn thế, đạo đức mới còn là sự đổi mới, nâng các giá trị truyền
thống lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Như vậy, xây
dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay cũng chính là một trong những biện
pháp thích hợp để bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, nhất là
các giá trị đạo đức truyền thống.
Thứ tư, đạo đức mới góp phần quan trọng cho thắng lợi của cuộc đấu
tranh chống tham nhũng hiện nay.
Tham nhũng là tệ nạn vô cùng nguy hiểm cho xã hội trên tất cả các
phương diện. Về mặt kinh tế, tham nhũng làm rối loạn chính sách phân phối,
gây thất thoát tài sản nhà nước, làm cho nền kinh tế mọt ruỗng, suy yếu, dẫn
tới không đủ sức thực hiện các mục tiêu kinh tế đã đề ra. Về mặt xã hội, tham
nhũng làm gia tăng tình trạng bất công, nghèo đói, thất nghiệp cùng nhiều tệ
nạn xã hội khác. Về mặt chính trị, tham nhũng làm suy giảm niềm tin của
nhân dân, gây bất ổn về chính trị – xã hội, đến một mức độ nào đó sẽ dẫn tới
sự sụp đổ chính quyền…
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực và phù hợp với thực
tiễn xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế


14

thị trường cũng bộc lộ khá gay gắt những mặt trái, tiêu cực của nó. Đây chính

là một trong những nhân tố cơ bản làm nảy sinh và tạo môi trường thuận lợi
cho tham nhũng hoành hành. Lợi dụng chức quyền được Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao cho, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến
chất đã vơ vét của công, tham ô, sách nhiễu, tiêu xài công quĩ vô tội vạ, xa
dân, không sâu sát với công việc... Có thể nói, tham nhũng đã và đang trở
thành “quốc nạn”, gây bất bình lớn trong dư luận và làm suy giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, trở thành thứ giặc “nội xâm” vô
cùng nguy hiểm cho sự bình yên của đất nước và sự vững vàng của chế độ.
Trước thực trạng này, Đảng ta chỉ rõ tham nhũng là một trong bốn “nguy cơ”
và “nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong
nhiều tổ chức kinh tế là một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của
chế độ ta”.
Thứ năm, đạo đức mới góp phần quan trọng tạo ra cơ chế “phòng
ngừa”, “miễn dịch” cho xã hội, đặc biệt là cho thế hệ trẻ trước những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường cũng như những “âm mưu diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch.
Sự tác động của mặt trái của cơ chế thị trường tới đạo đức xã hội là
tương đối rõ và có thể dễ dàng nhận diện; tuy nhiên, để có thể “miễn dịch”
trước nó lại là vấn đề không đơn giản. Hành vi của con người vốn chịu sự chi
phối của cơ chế lợi ích. Bản năng sống cùng thói quen tư hữu do điều kiện
sinh hoạt vật chất hiện tại đem lại khiến con người luôn có xu hướng muốn
thu vén vì lợi ích riêng của bản thân mình. Song, trong rất nhiều trường hợp,
lợi ích của cá nhân lại mâu thuẫn với lợi ích của người khác, lợi ích của cộng
đồng, của xã hội. Đạo đức mới với những chuẩn mực của nó, một mặt, không
hề phủ định lợi ích cá nhân, luôn thừa nhận và khuyến khích cá nhân phấn
đấu vì lợi ích chính đáng của mình; mặt khác, đạo đức mới cũng hướng hành
vi con người đến việc giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng và xã hội. Khi xuất hiện mâu



15

thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, đạo đức mới lại hướng người
ta đặt lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân. Như vậy, đạo
đức mới đòi hỏi con người có một trình độ nhận thức và tính tự giác cao độ
trong việc thực hiện các hành vi đạo đức, vượt lên trên những toan tính cá
nhân, những hành vi bản năng, tầm thường.
2.2. Thực trạng đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay
Tính chất hai mặt của kinh tế thị trường ở nước ta cũng thường xuyên
được đề cập qua các kỳ đại hội Đảng, rằng đời sống vật chất của xã hội được
nâng lên, cải thiện rõ rệt, nhưng đời sống tinh thần, đạo đức xã hội thì xuống
cấp, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta chậm nhận
thức ra mặt trái của kinh tế thị trường. Nói đến những biến đổi, biến động
trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay thực ra là bàn về tác
động của kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như văn
hóa, là văn hóa. Bao giờ nó cũng nằm trong kinh tế và chính trị, chịu sự quy
định khá chặt chẽ của kinh tế và chính trị. Không thể bê nguyên xi các chuẩn
mực đạo đức của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước mang tính tự cung
tự cấp vào trong xã hội hiện đại. Trái lại, cũng không thể phủ nhận những
nguyên tắc có tính hằng số của đạo đức xã hội truyền thống. Chính các
nguyên tắc đó tạo nên tính liên tục của sự phát triển xã hội, sự gắn kết giữa
quá khứ với hiện tại và tương lai, sự gặp gỡ giữa các quốc gia, dân tộc. Cố
nhiên, trên nền tảng chung của những nguyên tắc đạo đức cổ truyền, xã hội
hiện đại cũng đặt ra những vấn đề mới. Lao động và giao tiếp xã hội là hai
lĩnh vực cơ bản của đời sống, ở đó thể hiện rất rõ hệ giá trị đạo đức của xã
hội. Sự biến động về đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
cũng thể hiện tập trung trên hai lĩnh vực này. Trước kia, với kỹ thuật thô sơ,
người nông dân luôn miệt mài trên đồng ruộng, để sản xuất ra lúa gạo nuôi
sống gia đình mình và xã hội. Để có hạt gạo, bát cơm, họ phải đổ mồ hôi, sôi

nước mắt: Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần...


16

Đó là lời nhắn gửi chất chứa đạo lý là phải trân trọng biết ơn những người
nông dân chịu đựng gian khó làm ra sản phẩm nuôi sống cả xã hội.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nhất là qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, vấn đề đạo đức xã hội càng được quan tâm giáo
dục thường xuyên. Khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư không
chỉ được vận dụng trong lao động sản xuất, mà còn trong tất cả các hoạt động
xã hội, trong mọi tổ chức, địa bàn dân cư... Một phong trào yêu nước rộng lớn
đã xuất hiện ở khắp mọi nơi. Kết quả là đã xuất hiện các anh hùng, chiến sĩ thi
đua, các đơn vị và tập thể điển hình tiên tiến. Tất cả các đơn vị và cá nhân tiêu
biểu đều có chung một phẩm chất đem hết sức mình cống hiến cho xã hội,
cho đất nước, cho nền độc lập dân tộc. Khi ấy, lợi ích cá nhân và tính cục bộ
địa phương, đơn vị bị cho là thứ yếu.
Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, chúng ta đã khắc phục thiếu
sót của tư duy cũ bằng cách quan tâm nhiều hơn đến lợi ích trực tiếp của
người lao động. Nhờ đó năng suất lao động được nâng cao, sản phẩm xã hội
tăng nhanh, đời sống người dân được cải thiện. Nhưng, sự quan tâm đến lợi
ích của người lao động lại không song hành với việc giáo dục ý thức trách
nhiệm xã hội của mỗi người, thậm chí vấn đề giáo dục đạo đức xã hội bị coi
nhẹ. Nếu trước đây các khái niệm lý tưởng, khát vọng, là những điều gần gũi,
thiêng liêng, thường xuyên được nhắc tới, thì ngày nay các khái niệm đó lại ít
được đề cập. Khi con người phai nhạt lý tưởng, thiếu những khát vọng cao
đẹp, thì nó thường bị trói buộc vào những tham vọng thấp kém. Tư tưởng
chạy theo đồng tiền, chạy theo lợi ích vật chất trong một bộ phận xã hội (kể
cả người lao động làm ra vật chất hay sản xuất ra sản phẩm tinh thần) đã dẫn
tới hiện tượng tha hóa trong lao động. Có nghĩa là quá trình lao động cũng là

quá trình đánh mất bản ngã. Các sản phẩm lao động, trong một số trường hợp,
không thể hiện trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm và cả lương tâm của
người lao động. Trái lại, nó bị chi phối trực tiếp bởi lợi ích, lợi nhuận tầm
thường trước mắt. Đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng xuất hiện ngày càng
nhiều hàng hóa kém chất lượng, hàng giả, thậm chí cả hàng hóa độc hại. Cũng


17

vì lợi ích cá nhân, không ít cán bộ đã quên lãng trách nhiệm xã hội của mình,
gây nhiều phiền hà cho người dân khi thực thi công vụ. Nạn vòi vĩnh, tham
nhũng, đòi hối lộ tràn lan.
Khi hoạt động lao động không thể hiện được giá trị đạo đức, bị tha hóa,
nó sẽ tác động xấu đến các mối quan hệ xã hội, từ quan hệ cung cầu trong sản
xuất hàng hóa, quan hệ phục vụ và được phục vụ trong các cơ quan hành
chính công, trong trường học, bệnh viện và cả quan hệ trong gia đình. Có
nghĩa là giao tiếp xã hội cũng xuống cấp.
Dân tộc ta vốn có truyền thống sống tình nghĩa với nhau. Tình nghĩa đã
chi phối mọi quan hệ giao tiếp xã hội. Ngày nay, trước tác động của mặt trái
của kinh tế thị trường, không ít người đã chạy theo xu hướng thực dụng, vụ
lợi, bất chấp tình nghĩa. Lối sống cơ hội, nịnh bợ, “gió chiều nào theo chiều
ấy”... đang làm vẩn đục các quan hệ. Sự phân cấp, phân tầng xã hội theo địa
vị, chức vụ, tài sản diễn ra khá nặng nề. Người dân cảm thấy khép nép, lo
lắng, khi có việc đến cơ quan công quyền. Nhiều vụ, việc tiêu cực ở các địa
phương, các đơn vị bị bỏ qua, không ai dám phanh phui...
Trong khi các quan hệ ngoài xã hội đang suy giảm, thì gia đình là bến
đỗ của con người cũng đang bị lung lay, xung đột vì các lợi ích cá nhân. Xu
thế giải thể gia đình nhiều thế hệ diễn ra trên thế giới cũng đang tác động tới
nước ta. Mối quan hệ ràng buộc các thành viên gia đình trong một tổ ấm đang
bị đe dọa. Nhiều vụ ly hôn, ly thân, hôn nhân ngoài giá thú, hôn nhân thử

nghiệm xuất hiện làm mất đi tính chất thiêng liêng trong quan hệ gia đình
cùng với sự gia tăng nạn bạo hành gia đình, bạo lực học đường đã làm cho xã
hội bất an, tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ.
Những biểu hiện về suy giảm đạo đức nói trên không chỉ diễn ra trong
người dân, mà đáng tiếc, trong đó có cả một số cán bộ, đảng viên. Cố nhiên,
đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức có quyền, thì sự
suy thoái về đạo đức còn có những biểu hiện tha hóa riêng. Đó là tệ quan liêu,
thói đam mê quyền lực, thói hách dịch, tham nhũng, hối lộ, hủ hóa. Trong
những năm cuối đời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần tỏ ra bức


18

xúc trước các hiện tượng đó, đặc biệt hiện tượng đam mê quyền lực. Ông đã
ví thói đam mê quyền lực như nghiện ma túy. Ai bập vào thì khó mà từ bỏ.
Đam mê quyền lực sẽ làm hủy hoại nhân cách con người. Nhận định đó đang
được chứng thực trong thực tế. Tệ “chạy chức”, “chạy quyền” cũng đã xuất
hiện làm cho quyền lực không còn là trách nhiệm pháp lý, mà đôi khi bị biến
thành hàng hóa.
Một biểu hiện khác của sự suy thoái về đạo đức trong cán bộ đảng viên
là lời nói không đi đôi với việc làm, thiếu sự trung thực với những người khác
và với chính mình. Trước quần chúng thì luôn nói rành mạch theo các nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, luôn nhắc đến trách
nhiệm của người cán bộ, đảng viên, nhưng khi thực thi quyền lực thì họ chỉ
hướng vào lợi ích cá nhân, lợi ích phe nhóm.
Sự xuất hiện của một số kẻ cơ hội chủ nghĩa cũng là một biểu hiện về
suy thoái đạo đức và chính trị hiện nay. Đặc điểm nổi bật và chung nhất của
những người này là trong mọi hành vi và mối quan hệ, đều tìm cách lợi dụng
thời cơ để trục lợi. Loại người này sẵn sàng đánh mất lương tâm và danh dự
của mình. Họ rất giỏi luồn lách, xu thời, mạnh ai thì theo người đó, việc gì có

lợi cho bản thân thì làm, ra sức xoay xở.
2.2. Nguyên nhân
Một là, chủ nghĩa cá nhân, công thần, kiêu ngạo, chạy theo lối sống
hưởng thụ, làm giàu bằng mọi giá.
Trải qua hàng chục năm kháng chiến, dân tộc đã đánh thắng hai đế
quốc lớn là Pháp và Mỹ, nhiều người đã có những công lao nhất định trong sự
nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Song cũng có người do
tự đánh giá quá cao công lao của mình, tự cho rằng mình đã chịu nhiều hy
sinh gian khổ bây giờ lẽ đương nhiên phải được hưởng thụ, nên đã trở thành
"ông quan cách mạng" quan liêu, tham nhũng, ngày càng xa cách quần chúng.
Họ không từ mọi thủ đoạn tham ô, hối lộ, tiêu xài lãng phí, sống xa hoa, trụy
lạc. Họ tìm mọi cách vơ vét tiền của nhân dân, lợi dụng chức quyền “bán" chữ


19

ký rút tiền Nhà nước, tổ chức buôn lậu, bao che cho nhau cùng hàng trăm
mánh lới khác. Chính sự suy thoái về đạo đức của họ đã dẫn đến các bệnh họa
xã hội, làm suy thoái nền đạo đức xã hội.
Điều đáng lo ngại nhất là tệ tham nhũng diễn ra ở nhiều ngành, nhiều
cấp, từ Trung ương đến địa phương và thậm chí ở ngay các cơ quan thực thi
pháp luật.Tệ tham nhũng có sức phá hoại lớn đối với toàn bộ các giá trị đạo
đức xã hội. Tệ tham nhũng làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho
quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ mất niềm tin, dao động về lý
tưởng và ít nhiều bị tiêm nhiễm ý thức phản đạo đức. Điều đáng nói là trước
tình hình đó, công tác xây dựng Đảng, công tác đấu tranh chống lại các hiện
tượng tiêu cực trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước còn thiếu những biện
pháp hữu hiệu.
Hai là, pháp luật không nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng.
Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động,

ảnh hưởng lẫn nhau.Một xã hội có nền đạo đức tốt sẽ là cơ sở để pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh và tự giác.Mặt khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ
đắc lực cho việc giữ gìn, phát triển một nền đạo đức xã hội tốt đẹp.
Trong thực tế vấn đề này không phải bao giờ cũng được quán triệt đầy
đủ.Pháp luật có lúc còn bị coi thường.buông lỏng. Tình trạng bao che, “ô dù”
đã làm cho phép nước không nghiêm gây nên sự bất bình trong quần chúng, là
một nhân tố khiến giá trị đạo đức xã hội suy giảm, cản trở việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế, xã hội tạo kẽ hở cho những kẻ tham nhũng lợi dụng đục
khoét tài sản quốc gia, làm giàu bất chính.
Ba là, xã hội ta còn bị ảnh hưởng khá nặng nề bởi các tàn tích của đạo
đức phong kiến.


20

Đất nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ một nền kinh tế
kém phát triển, chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nông
nghiệp, với những giá trị văn hoá làng xã bền vững cùng những tư tưởng đạo
đức phong kiến nặng nề. Ở nhiều nơi, vẫn còn hiện tượng “phép vua thua lệ
làng". Tình trạng cát cứ địa phương theo kiểu "trống làng nào làng ấy đánh,
thánh làng nào làng ấy thờ” vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Nền đạo đức phong
kiến in đậm trong phong tục, tập quán, thói quen, biểu hiện qua các hành vi
đạo đức như gia trưởng, độc đoán, tham quyền cố vị coi thường pháp luật, tư
tưởng trọng tâm, cục bộ, bản vị vẫn còn khá phổ biến trong đời sống xã hội ta
hiện nay.
Nhiều giá trị đạo đức phong kiến chẳng những cản trở việc xây dựng
nền đạo đức mới mà còn là bạn đồng hành của chủ nghĩa thực dụng.cá nhân
vị kỷ, kìm hãm sự tiến bộ, sáng tạo, cản trở công cuộc đổi mới, làm chậm quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bốn là, xã hội ta đã và đang bị ảnh hường của lối sống tư sản.

Từ khi đất nước tiến hành đổi mới với chủ trương phát triển kinh tế thị
trướng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống kinh tế - xã hội đã cô
nhiều biến đổi tích cực, song cũng nảy sinh không ít những tiêu cực. Kinh tế
thị trường với quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... ở một khía cạnh nào đó
đã khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chỉ coi trọng giá trị
vật chất mà coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ chú ý lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi
ích cộng đồng, chỉ chú ý lợi ích trước mắt mà coi nhẹ lời ích cơ bản lâu dài.
Đó là lối sống chỉ biết lợi ích của cá nhân mình, tất cả vì lợi nhuận, vì lợi
nhuận người ta sẵn sàng chà đạp lên lợi ích của người khác, sẵn sàng vứt bỏ lợi
ích của tập thể, của xã hội. Vì lợi nhuận, người ta không từ bỏ một thủ đoạn bất
chính nào, kể cả buôn gian bán lận, lừa đảo, trộm cắp...


21

Việc đấu tranh khắc phục sự suy giảm về đạo đức xã hội chắc chắn là
một công việc lâu dài, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có nỗ lực và quyết
tâm cao, phải tiến hành kiên quyết và đồng bộ với nhiều giải pháp thiết thực,
cụ thể. Điều quan trọng là cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phải từng
bước xây dựng đạo đức mới, biết kết hợp hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích tập thể
và lợi ích cá nhân, khắc phục và đẩy lùi các nguyên nhân gây ra sự xuống cấp
đạo đức. Tất nhiên, xây dựng dạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường
không phải là một vấn đề đơn giản, dễ dàng.Vì vậy, cần thiết phải có những
biện pháp thích hợp để những giá trị đạo đức mới có thể từng bước phát triển.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3.1. Thiết thực nâng cao hiệu qnả của giáo dục đạo đức,
hoàn thành việc chuyển hoá giáo dục đạo đức
Sự vận hành của kinh tế thị trường làm nảy sinh những thách thức

nghiêm trọng đối với việc chỉnh hợp luân lý kinh tế và giáo dục đạo đức song
nó cũng cung cấp một cơ hội phát triển đầy đủ. Muốn nắm bắt được cơ hội
đó, đối với việc giáo dục đạo đức trong các trường học hiện nay, phải từng
bước thực hiện sự chuyển hoá trong giáo dục đạo đức:
Một là, từ thuyết giáo luân lý chuyển hoá rèn luyện đạo đức. Tất cả
quan điểm trong môn học luân lý đạo đức đều là thế giới quan mà quan niệm
tự nhiên, quan niệm lịch sử xã hội và quan niệm nhân sinh biểu hiện ra, phải
biến nó thành những giá trị chuẩn mực về đạo đức trong lòng học sinh, hình
thành niềm tin vững chắc;
Hai là, từ giáo dục quy phạm chuyển hoá sang giáo dục tố chất. Nếu
nói giáo dục quy phạm chú trọng giáo dục về hành vi tập quán, thì giáo dục tố
chất lại là giáo dục về phương pháp tư tưởng. Điều đó chỉ ra cho mọi người
thấy là phải làm gì và làm như thế nào, từ đó khiến cho họ chấp hành quy
phạm một cách tự giác hơn.


22

Ba là, về phương thức giáo dục đạo đức, phải từng bước chuyển dần
việc giáo dục lấy giáo viên là chính, trên lớp là chính sang hướng tự giáo dục
lấy học sinh là chính, thẩm thấu là chính. Việc giáo dục đạo đức truyền thống
lấy sách vở, lên lớp là hình thức chủ yếu, giới hạn trong đạo đức trừu tượng,
về khách quan mà nói, rất dễ làm cho tâm tư tình cảm của đối tượng giáo dục
bị ngược hướng, từ đó khó có thể đạt được hiệu quả. Việc giáo dục thông qua
các hình thức sinh động gắn giáo dục vào việc quản lý, phục vụ và sinh hoạt
của học sinh, chú ý đến tính chủ động và tính tự giác của học sinh, từ đó nhất
định sẽ thu được hiệu quả giáo dục lớn hơn.
3.2. Giáo dục đạo đức truyền thống trong gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội cho nên nếu đạo đức gia đình không được
chăm lo sẽ đến đến sự suy thoái và đứt gãy đạo đức xã hội. Hiện nay, lối sống

hiện đại đang tác động mạnh đến văn hóa gia đình ở các đô thị lớn mà ở đó
các bậc cha mẹ gần như bất lực trước những thay đổi trong lối sống của con
cái. Sự phát triển mạnh mẽ của internet, bên cạnh những tích cực đáng được
thừa nhận thì nó cũng đã tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống và nhân cách
thanh thiếu niên. Việc hình thành một lớp cư dân mạng mà ở đó có sự tham
gia khá đông của con em học sinh và đi liền với hoạt động đó là sự méo mó
về nhân cách đã thật sự đụng chạm mạnh mẽ đến đạo đức gia đình truyền
thống, trong đó có sự đánh mất bản sắc gia đình.
Nếu như cái hiện đại mỗi ngày thường xuất hiện dưới nhiều hình thức
để thách thức nhu cầu của lớp trẻ thì những giá trị truyền thống của văn hóa
gia đình lại được thẩm thấu thường nhật trong từng tế bào xã hội. Những giá
trị đạo đức truyền thống của văn hóa gia đình không phải từ trên trời rơi
xuống mà nó được bảo lưu, giữ gìn từ nhiều thế hệ của mỗi cộng đồng. Hàng
ngày con cái luôn được bố mẹ giáo dục về đạo đức gia đình, về sự hiếu để với
ông bà, bố mẹ, kính trên nhường dưới, không nói dối, không trộm cắp, ma tuý


23

cờ bạc…Một nhà văn từng nói rằng “hãy cho con cái đạo đức thay vì tiền
bạc”, điều đó là quá đúng vì tiền bạc có thể làm hư hỏng con người. Tuy
nhiên, nếu giáo dục đạo đức không đúng cách, không đúng thời điểm, không
nêu gương từ bố mẹ thì con cái có thể bị bội thực vì nó quá cũ và nhàm chán
trong khi đó những quan niệm về đạo đức có thể thay đổi.
Như vậy, không thể không phát huy giá trị đạo đức gia đình trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Gia đình là tế bào của xã hội, là
nơi đầu tiên đạo đức nảy mầm, sinh sôi và được nuôi dưỡng. Nền tảng đạo
đức xã hội sẽ không thể tồn tại nếu không bắt đầu từ đạo đức gia đình. Chính
vì vậy mà phải “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt
Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia

đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và
xã hội”. Thực tế cho thấy “tư tưởng yêu nước cũng như ý thức dân tộc thường
bắt nguồn từ tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, làng xóm hoặc khối phố.
Cho nên đối với một người ở xa Tổ quốc, tình cảm gia đình, tình làng nghĩa
xóm, thường gợi nhớ lại thời thơ ấu, những tình cảm thân thương của người
ruột thịt...những bài hát, điệu hò quê hương, xóm làng...”. Hiện nay, có nhiều
gia đình chỉ lo làm ăn kinh tế mà bỏ rơi đạo đức gia đình. Hậu quả là con cái
bỏ học, sa vào nghiện ngập, tội phạm. Những đồng tiền bất chính có từ tham
nhũng, buôn lậu...đã giết chết những giá trị đạo đức đang vừa mới nảy sinh
trong gia đình. Nhiều giá trị văn hóa gia đình như vợ chồng hòa thuận, con
cháu hiếu để, kính trên nhường dưới đã bị đổ vỡ và trở nên xa lạ với một bộ
phận lớp trẻ. Khi bất lực trước những đổ vỡ đó nhiều người tìm cách biện
minh, đổ lỗi cho “cha mẹ sinh con, trời sinh tính” mà quên rằng, một nhân
cách hình thành phải trải qua quá trình “học ăn, học nói, học gói, học mở” hay
“phần nhiều do giáo dục mà nên”(Hồ Chí Minh).
3.3. Phát huy các thiết chế văn hóa đạo đức


24

Suy cho cùng, mọi thiết chế xã hội đều có chức năng giáo dục đạo
đức cho mỗi con người, mỗi thành viên trong xã hội bởi lẽ đạo đức là một
thành tố của nền tảng tinh thần của xã hội. Không có xã hội nào tồn tại mà
không cần vai trò của đạo đức. Tuy nhiên, đạo đức có được phát huy hay
không là nhờ vào quá trình giáo dục trong đó vai trò của các thiết chế xã
hội là hết sức quan trọng.
Với chức năng dạy chữ, dạy nghề và dạy làm người, thiết chế giáo
dục - đào tạo có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách con người. Để
làm được điều này, phải xuất phát từ một triết lý giáo dục vì con người, vì
lương tâm, trách nhiệm con người đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ

quốc. Nhà trường không nên bỏ rơi việc giáo dục đạo đức làm người dẫn đến
đạo thầy trò bị xâm phạm. Giáo dục mà chạy theo thành tích và tiêu cực thì
nhất định sẽ bào mòn đạo đức xã hội.
Các đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh…cần có những quy ước, quy chế, quy phạm về mặt đạo đức
khi tham gia vào các công tác xã hội, tham gia vào các phong trào xây dựng
người tốt việc tốt, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa.
Các thiết chế tôn giáo dùng sức mạnh tính thiêng, những điều cấm kỵ
và sự linh nghiệm để giáo dục đạo đức cho con người, làm cho con người
đùng tham, sân, si mà hãy làm điều lành, điều tốt. Hiện nay các thiết chế này
đã có vai trò nhất định trong việc xây dựng đạo đức, nhân cách con người.
Thông qua sức mạnh dư luận xã hội, hệ thống thiết chế thông tin đại
chúng cần lên án cái ác, nêu gương cái tốt để định hướng giá trị đạo đức cho
xã hội. Hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng đang sử dụng sức mạnh
của mình cho công cuộc xây dựng xã hội mới nhưng không tránh khỏi việc
lạm dụng nó vì lợi ích cá nhân.


25

Các thiết chế văn hóa, dù là truyền thống hay hiện đại đều có chức
năng giáo dục đạo đức trong quá trình hoạt động của mình. Một nhà cộng
đồng hay một trung tâm văn hóa, một nhà hát…đều phải có sự hướng giá trị
văn hóa nói chung và đạo đức nói riêng.
Phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa đạo đức này thì việc giáo dục
đạo đức cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta sẽ thành công.


×