Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIEULUAN vai trò của pháp luật nói chung đối với quản lý xã hội ,tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.57 KB, 24 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ vai trò rất quan
trọng. Xét trên phương diện chung nhất, pháp luật là công cụ để thể chế hóa
đường lối chính sách của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực
hiện có hiệu quả trên quy mô toàn quốc; Pháp luật là dụng cụ để nhà nước quản
lý mọi mặt đời sống xã hội, là công cụ để nhân dân phát huy dân chủ và quyền
làm chủ, thực hành quyền và bổn phận của mình.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của
pháp luật đối với quản lý xã hội được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều
đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh,
mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính. Trong quá trình
phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật là công cụ
quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước.
Pháp luật với tư cách là nguyên tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó luôn
tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội nói chung, cũng như tới
các nguyên tố của thượng tầng chính trị - pháp lý nói riêng. Sự tác động và ảnh
hưởng của pháp luật biểu thị ở nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại
đối tượng và từng loại quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh của luật pháp. Nhưng
sự mô tả cụ thể của sự tác động đó bao giờ cũng đặt trong khuôn mẫu của các
hành vi xử sự được xác định, mà các chủ thể luật pháp phải tuân thủ, chấp hành
hoặc lấy làm cơ sở để dùng chúng hợp với những điều kiện tương ứng trong hoạt
động thực tại bình thường.
Sự khác nhau về trình độ điều chỉnh nói lên vai trò của luật pháp được biểu
lộ ở các hình thức chính để tổ chức thực hiện các chức năng của nhà nước là xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hành luật pháp và bảo vệ pháp luật. Để giải quyết
những nhiệm vụ vô cùng phức tạp đòi hỏi nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp lý
kiên cố, cho nên phải chú trọng công tác xây dựng luật pháp. Quá trình xây dựng
luật pháp luôn gắn liền với việc tổ chức thực hiện luật pháp. Song phải chú trọng
tới việc bảo vệ pháp luật, đảm bảo cho luật pháp phát huy được vai trò trong quá
trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, đảm bảo cho nó không bị xâm hại, không bị


khinh thường.

1


Tuy nhiên, những điểm nói trên mới chỉ phản ánh vai trò pháp luật ở bình
diện chung. Để thấy rõ vai trò của pháp luật cần phải xem xét nó ở góc độ cụ thể
gắn với việc thực hành các chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhu cầu
điều chỉnh bằng luật pháp các quan hệ xã hội. Vì luật pháp được đặt ra nhằm thực
hành những mục đích đã được xác định. Những mục đích đó luôn xuất phát từ
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhu cầu cấp thiết phải
có sự điều chỉnh luật pháp các quan hệ xã hội trong thời kỳ quá độ, cũng như
trong mỗi giai đoạn cụ thể. Chính vì những lý do trên mà em đã chọn nghiên cứu
vấn đề: “ Vai trò của pháp luật nói chung đối với quản lý xã hội” làm nội dung
tiểu luận môn học Vai trò của pháp luật đối với quản lý xã hội. Em mong rằng
quan tiểu luận này bản thân sẽ tìm hiểu được nhiều hơn về vai trò của pháp luật
trong mọi hoạt động của đời sống xã hội.

PHẦN II: NỘI DUNG
2


CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NÓI CHUNG TRONG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1 Pháp luật
Pháp luật được ra đời cùng với nhà nước, là công cụ sắc bén để thể hiện
quyền lực nhà nước, duy trì và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước ban
hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Nhà nước và pháp
luật là sản phẩm của sự phát triển đến một trình độ nhất định của xã hội. Cả hai
hiện tượng đều là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy chúng ta có

thể hiểu: Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.1.1 Bản chất của pháp luật
Theo học thuyết Mác - Lê nin, pháp luật chỉ ra đời, tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp. Vì vậy cũng giống như bản chất của nhà nước, bản chất
của pháp luật được thể hiện ở tính giai cấp và tính xã hội.
1.1.1.1 Tính giai cấp
Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở ý chí của giai cấp thống trị và
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai
cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí giai cấp mình một cách tập
trung, thống nhất thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hoá qua các văn
bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực
hiện. Mặt khác tính giai cấp của pháp luật còn được biểu hiện ở mục đích điều
chỉnh quan hệ giữa các tầng lớp trong xã hội nhằm tạo ra một xã hội trật tự, ổn
định, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là
công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật mới, nó thể hiện ý chí của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó điều chỉnh các mối quan hệ xã hội với
mục đích đem lại lợi ích cho số đông người lao động trong xã hội, xây dựng xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.2 Tính xã hội
Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Từ xa xưa con
người đã sớm biết điều chỉnh các mối quan hệ của mình. Con người là một thực
thể có thể nhận thức được các quá trình phát triển, con người đã biết điều chỉnh
các mối quan hệ một cách có ý thức. Khi thiết lập các quy định pháp luật, con
người loại bỏ dần tính tự phát trong quan hệ xã hội. Điều đó đã chứng tỏ giá trị xã
3


hội của pháp luật nhằm chống lại tình trạng lộn xộn và tự phát trong xã hội. Tính

xã hội của pháp luật được thể hiện ở khía cạnh đó là bảo vệ lợi ích thiết thân của
các giai cấp khác, góp phần ổn định, trật tự an toàn xã hội, đồng thời pháp luật
cũng bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương nhằm đảm bảo sự công bằng xã hội.
Xét về bản chất, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa
mang tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ
với nhau trong một thể thống nhất.
1.1.2 Những hình thức của pháp luật
1.1.2.1 Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành
hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy
định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc trong Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó
có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.1.2.2 Tập quán pháp
Tập quán pháp là những tập quán được Nhà nước thừa nhận có giá trị pháp
lý, trở thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Khi Nhà nước cần điều chỉnh một quan hệ xã hội, thông thường Nhà nước sẽ ban
hành các quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quan hệ xã hội mà Nhà nước cần điều
chỉnh lại đang được điều chỉnh bởi các quy phạm tập quán. Vì thế, nếu những tập
quán này phù hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã hội của Nhà nước, thì
Nhà nước sẽ sử dụng phương pháp thừa nhận, làm cho tập quán đó trở thành quy
tắc xử sự có tính bắt buộc chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Như vậy, để
được coi là tập quán pháp thì bản thân quy phạm tập quán đó bắt buộc phải được
Nhà nước thừa nhận bằng một trong hai cách: hoặc thông qua một quy định mang
tính nguyên tắc cho mọi trường hợp, hoặc thông qua một quy định chi tiết cho
từng trường hợp cụ thể.
1.1.2.3 Tiền lệ pháp
Tiền lệ pháp hay phép xét xử theo tiền lệ (án lệ) là một hình thức của pháp

luật, theo đó Nhà nước thừa nhận những bản án, quyết định giải quyết vụ việc
của tòa án làm khuôn mẫu và cơ sở để đưa ra phán quyết cho những vụ việc hoặc
trường hợp có tình tiết hay vấn đề tương tự sau đó. Tiền lệ pháp còn là quá trình
4


làm luật của toà án trong việc công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong quá
trình xét xử
Ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng tiền án lệ. Ưu điểm của hình thức này
đó là xử án rất nhanh, tuy nhiên cũng đòi hỏi người trong cơ quan toà án cần phải
có trách nhiệm cao khi giải quyết vụ việc và bản án sẽ là văn bản có tính pháp lý,
trở thành chuẩn mực, là cơ sở để áp dụng cho những vụ án có tính chất tương tự
xảy ra.
1.2 Quản lý xã hội
1.2.1. Khái niệm
Quản lý xã hội: Là sự tác động liên tục có tổ chức của chủ thể quản lý xã
hội với đối tượng của nó nhằm quản lý xã hội theo đặc trưng.
1.2.2 Đối tượng của quản lý xã hội
Đối tượng của quản lý xã hội đó là mọi hoạt động của con người diễn ra
trong các mối quan hệ xã hội.
1.2.3 Chủ thể của quản lý xã hội
Chủ thể của quản lý xã hội đó là bên phát sinh ra mệnh lệnh quản lý xã hội
và nhiều chủ thể kết hợp tạo thành hệ thống.
1.2.3 Khách thể của quản lý xã hội
Khách thể của quản lý đó là hệ thống các hoạt động và các mối quan hệ
trong quá trình hoạt động diễn ra trong cuộc sống của con người.
1.3 Vai trò của pháp luật nói chung trong quản lý xã hội
Trong đời sống xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ vai trò rất quan
trọng. Pháp luật là công cụ để thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng, bảo
đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hành có hiệu quả trên quy mô toàn quốc

gia, lãnh thổ; là dụng cụ để nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội; là
công cụ để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hành quyền và
nghĩa vụ của mình đối với xã hội.
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
NÓI CHUNG ĐỐI VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý xã hội
Hiện nay ở nước ta hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ cho
mọi hoạt động diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội…Hệ thống pháp luật đã góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Pháp luật
5


đã tạo ra một hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của con người trong cộng
đồng, nó quy định cụ thể về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong
hoạt động quản lý xã hội, đồng thời pháp luật cũng đưa ra trách nhiệm của đối
tượng quản lý khi tham ra các hoạt động.
Ở Việt Nam hiện nay thực tiễn vai trò của pháp luật được thể hiện rất rõ
nhất là trong gần 30 năm đổi mới.
Trong quá trình đổi mới, để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra trên mọi
lĩnh vực, hệ thống pháp luật của nước ta có nhiều thay đổi rõ rệt thể hiện rõ nhất
trên lĩnh vực kinh tế, nhiều Luật mới được ra đời như Luật đầu tư, Luật thương
mại… Đặc biệt trong những năm gần đây pháp luật về quyền con người, quyền
công dân ngày được chú trọng, nó được thể hiện ở nội dung của Hiến pháp năm
2013. Trong lĩnh vực này, nội dung ở Hiến pháp năm 1980 đề cập đến quyền con
người và quyền công dân nhưng còn mang tính hình thức, chưa thực hiện trong
thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên đến Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013
thì các quyền này được hoàn thiện hơn, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đề cập dành riêng ở
chương riêng và chương thứ II của bản Hiến pháp. Nội dung này được đề cập rõ

ràng hơn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt tại kỳ họp thứ 9, Quốc
hội khoá XIII, Quốc hội đã xem xét, thảo luận thông qua nhiều dự án luật quan
trọng, trong đó có nhiều luật được xác định là luật khung, là nền tảng cho các luật
khác trong hệ thống pháp luật. Nhằm tiếp tục thể chế hoá các quy định của Hiến
pháp về tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội sẽ thông qua nhiều dự án luật quan
trọng như: Luật Tổ chức chính phủ (sửa đổi), Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, Luật Trưng cầu ý dân, Luật biểu tình… Đối với Luật Tổ chức chính
quyền địa phương được xây dựng để tổ chức hợp lý chính quyền địa phương phù
hợp với Hiến pháp năm 2013; bảo đảm chính quyền địa phương các cấp hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả, hệ thống hành chính nhà nước thống nhất thông suốt
từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và giám sát hoạt động của chính
quyền địa phương. Căn cứ vào nội dung dự thảo Luật sẽ là cơ sở quy định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của các cơ quan quản
lý xã hội phù hợp với đặc điểm nông thôn, thành thị, từng đơn vị hành chính.
Đồng thời đó cũng là cơ sở để phân định cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu, tăng cường công khai, minh bạch, bảo đảm sự
6


tham gia của các tổ chức chính trị xã hội và công dân trong tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương.
Tuy nhiên thực tế cho thấy bên cạnh vai trò của pháp luật là tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động quản lý xã hội thì hiện nay pháp luật Việt Nam cũng còn có
những hạn chế nhất định đó là: Ở một số lĩnh vực chưa có Luật điều chỉnh, có lĩnh
vực phải dùng Nghị định để điều chỉnh như: Quy định về quyền con người, Luật
biểu tình, Luật tiếp nhận thông tin vv…Hơn nữa chất lượng văn bản pháp luật ở
Việt Nam không cao. Qua kết quả khảo sát chất lượng văn bản pháp luật năm
2014 của 14 Bộ theo chấm điểm của các doanh nghiệp số điểm được chấm nằm
trong khung điểm từ 51 đến 59 điểm/100 điểm. Nhiều văn bản pháp luật thiếu tính

khả thi, còn sao chép nội dung không phù hợp với tình hình thực tế của nước ta,
một số tiêu chí còn yếu kém như: Thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất, tính minh
bạch, còn áp đặt một chiều không đi vào cuộc sống… Nguyên nhân dẫn đến hạn
chế đó chính là nhiều chính sách liên quan đến việc xây dựng luật còn mang tính
cục bộ về lợi ích bộ, ngành, thiếu tính liên thông giữa các chính sách, trình độ cán
bộ, công chức tham gia xây dựng văn bản luật còn hạn chế... Qua thực tiễn công
tác xây dựng luật cho thấy bộ nào xây dựng luật cũng thường nghĩ đến lợi ích của
bộ, ngành mình, lĩnh vực mình; ít chú trọng đến lợi ích quốc gia, lợi ích của dân
để xây dựng chính sách. Điều này đã ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của luật.
Một ví dụ có thể dễ dàng nhận thấy là các luật mới được ban hành đều có xu
hướng quy định về giấy phép, về điều kiện kinh doanh mà chưa thực sự quan tâm
đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Hơn nữa, quy định về điều kiện kinh doanh
khác nhau ở mỗi loại hình dịch vụ khác nhau do các luật khác nhau điều chỉnh,
nên các doanh nghiệp phải đăng ký rất vụn vặt và cứng nhắc. Điều này gây không
ít khó khăn cho doanh nghiệp. Do vậy giải pháp đặt ra đối với công tác xây dựng
hệ thống pháp luật hiện nay là rất lớn.
2.2 Pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý để tạo lập ra bộ máy nhà nước
quản lý xã hội.
2.2.1 Pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý để thành lập các cơ quan, tổ chức
quản lý xã hội.
Dựa vào những quy định trong các văn bản pháp luật mà các cơ quan, tổ
chức quản lý xã hội được thành lập từ Trung ương đến địa phương.
Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận, nhiều
loại cơ quan nhà nước, tổ chức quản lý xã hội. Để bộ máy đó hoạt động có hiệu
quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, bổn phận của mỗi loại cơ
7


quan, mỗi cơ quan phải xác lập được một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ
giữa chúng, phải có những phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động để tạo

thành một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực hành quyền lực nhà
nước. Toàn bộ những nội dung đó chỉ có thể thực hành được khi dựa trên cơ sở
vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. Hiện nay bộ
máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương ở nước ta còn cồng kềnh, chức
năng nhiệm vụ còn chồng chéo, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước chưa liên
thông, giải quyết công việc chưa thống nhất…hoạt động của bộ máy nhà nước có
nơi còn gây phiền hà cho tổ chức, công dân khi giả quyết công việc …
2.2.2 Pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý để hình thành hệ thống quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý xã hội.
Thông qua nội dung các văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt
Nam mà các cơ quan, tổ chức quản lý xã hội dựa trên chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình để giải quyết các nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu của xã hội. Ngược lại
cũng từ những nội dung của các văn bản pháp luật người dân biết được nơi cần
đến để giải quyết yêu cầu của mình theo đúng thẩm quyền quy định.
2.2.3 Pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý để thiết lập mối quan hệ đến các cơ
quan tổ chức.
Đó là dựa vào những văn bản pháp luật mà thiết lập nên mối quan hệ công
việc giữa các cơ quan, tổ chức và giữa cơ quan, tổ chức với công dân. Mối quan
hệ đó được thể hiện ở việc Nhà nước ta đưa vào áp dụng trong cải cách hành
chính đó là thực hiện: Một cửa một cửa liên thông theo hướng hiện đại. Thực hiện
cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch,
công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính, loại bỏ những rườm rà,
chồng chéo, dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Cơ chế “ một
cửa”, “một cửa liên thông” là giải pháp đổi mới về phương thức làm việc của cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương các cấp, nhằm tạo chuyển biến cơ bản
trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức và công dân.
Nhờ vậy mà mọi yêu cầu của tổ chức và công dân được giải quyết nhanh gọn,
giảm chi phí, giảm thời gian, công sức... của cá nhân, tổ chức.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần
thiết phải tiến hành cải cách hành chính, coi đây là một giải pháp quan trọng góp

phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cải cách hành chính ở Việt
Nam hiện nay được triển khai trên nhiều nội dung đó là: cải cách thể chế, cải cách
8


tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hoá nền hành chính, trong đó cải
cách thủ tục hành chính là một khâu quan trọng và được đặt ra ngay từ giai đoạn
đầu của tiến trình cải cách. Trên cơ sở nội dung những văn bản pháp luật mà mối
quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức và công dân ngày càng chặt chẽ hơn, tạo động
lực cho mọi hoạt động của tổ chức, công dân ngày càng thuận tiện hơn.
Thực tiễn Việt Nam những năm qua cho thấy khi chưa có một hệ thống
các quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thích hợp và chuẩn xác để làm cơ sở cho
việc củng cố và hoàn thiện bộ máy quốc gia, thì dễ dẫn đến tình trạng trùng,
chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan
nhà nước, bộ máy dễ sinh ra cồng kềnh và kém hiệu quả. Trên cơ sở tổng kết về
tình hình bộ máy nhà nước Đảng ta đã khẳng định phải “tiếp tục cải cách bộ máy
nhà nước… thực hiện hợp nhất quyền lực trên cơ sở phân công, phân cấp rành
mạch, bộ máy tinh giảm, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng”. Qua các kỳ Đại
hội Đảng ta tiếp tục khẳng định và đề ra những phương hướng và biện pháp quan
trọng, trong đó đã nhấn mạnh phải chú trọng phát huy vai trò của pháp luật.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung,
hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã có bước phát
triển mới, tạo cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân. Đặc biệt là Hiếp pháp năm 2013 đã chứng minh pháp luật Việt Nam hiện nay
dần hoàn thiện đặc biệt là về việc xây dựng bộ máy nhà nước, bộ máy quản lý xã
hội, xây dựng nội dung về quyền con người vv…
2.3 Pháp luật tạo lập mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và cá nhân
đối với quản lý xã hội

Pháp luật với nhân cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ pháp lý, nó luôn
tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ nói chung, cũng như tới các yếu
tố của thượng tầng chính trị - pháp lý nói riêng. Sự tác động và ảnh hưởng của
luật pháp thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại đối tượng và
từng loại quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh của luật pháp. Nhưng biểu hiện cụ
thể của sự tác động đó bao giờ cũng phản ánh trong khuôn mẫu của các hành vi
xử sự được xác định, mà các chủ thể luật pháp phải tuân thủ, chấp hành hoặc lấy
làm cơ sở để sử dụng chúng hợp với những điều kiện tương ứng trong hoạt động
thực tế thường ngày.
9


Sự khác nhau về trình độ điều chỉnh nói lên vai trò của luật pháp được bộc
lộ ở các hình thức chính để tổ chức thực hành các chức năng của quốc gia là xây
dựng luật pháp, tổ chức thực hiện luật pháp và bảo vệ pháp luật. Để giải quyết
những nhiệm vụ vô cùng phức tạp đòi hỏi nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp lý
vững chắc, bởi vậy phải chú trọng công tác xây dựng luật pháp. Quá trình xây
dựng pháp luật luôn gắn liền với việc tổ chức thực hành luật pháp. Đồng thời phải
chú trọng tới việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật phát huy được vai trò
trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, đảm bảo cho nó không bị xâm hại,
không bị khinh thường.
Mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân đối với quản lý xã hội đó
chính là mối quan hệ, sự tác động hai chiều giữa Nhà nước đối với cá nhân và cá
nhân đối với nhà nước trong quản lý xã hội. Pháp luật quy định về quyền và nghĩa
vụ của cá nhân, tổ chức khi tham gia các hoạt động trong cộng đồng cũng như
trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, cá nhân khi xảy ra vi phạm.
Trong những năm vừa qua pháp luật của Việt Nam có nhiều bước phát triển mới
cả về số lượng và nội dung văn bản pháp luật như các quy định về quyền con
người ngày càng hoàn thiện hơn, quyền công dân và các cơ chế đảm bảo quyền
công dân được xây dựng. Việc tăng cường hiệu lực và phát huy vai trò của quốc

gia trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội luôn gắn liền với quá trình thực
hiện và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực của quần
chúng, đảm bảo công bằng giữa các tầng lớp nhân dân. Với bản chất và những
đặc điểm đặc thù của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa giữ vị trí trung tâm trong
hệ thống chính trị, tác động mạnh mẽ tới các bộ phận hợp thành của hệ thống
chính trị; song cũng chịu ảnh hưởng của sự tác động trở lại của các bộ phận đó.
Bởi vậy, việc thiết lập và triển khai thực hiện nội dung hệ thống pháp luật giữ vai
trò rất quan trọng. Xét trên bình diện chung nhất, pháp luật là công cụ để thể chế
hóa đường lối chính sách của Đảng, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng được thực
hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; Pháp luật là phương tiện để quốc gia
quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để quần chúng phát huy dân chủ
và quyền làm chủ, thực hành quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời pháp luật
cũng là cơ sở để nhà nước thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với tổ
chức và công dân trong xã hội.
2.4 Pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ
chức và quản lý kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của nhà nước
10


Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế có phạm vi rộng và phức tạp bao gồm
nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà quốc gia cần xác lập, điều tiết và giải quyết
như: hoạch định các chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các
chế độ tài chính, tiền tệ, giá cả … toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý từ hoạch
định chính sách, đề ra kế hoạch cho tới tổ chức thực hiện trên thực tiễn, thẩm tra
giám sát, tổng kết và đánh giá kết quả… đều đòi hỏi sự hoạt động hăng hái của
quốc gia để tạo ra một cơ chế đồng bộ, xúc tiến quá trình phát triển đúng hướng
của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực. Do thuộc tính phức tạp nhiều vấn
đề quan trọng cần giải quyết và khuôn khổ rộng trên quy mô toàn quốc của chức
năng quản lý kinh tế, nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động
kinh tế cụ thể mà chỉ thực hành việc quản lý hành chính - kinh tế. Quá trình đó sẽ

không thể thực hiện được nếu như không dựa vào pháp luật. Chỉ có pháp luật với
những thuộc tính đặc thù của nó mới là cơ sở để đảm bảo cho quốc gia hoàn tất
được chức năng của mình trong lĩnh vực kinh tế.
Quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam những năm vừa qua đã là
một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của luật pháp luật. Tình trạng thiếu hệ
thống quy phạm pháp luật kinh tế, cũng như sự tồn tại quá lâu những văn bản,
những quy phạm luật pháp kinh tế của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp đã làm
giảm hiệu lực quản lý của nhà nước, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam và làm phát sinh nhiều vấn đề gây bức xúc trong nhân dân. Trong những
năm gần đây, nhiều văn bản pháp luật kinh tế được ban hành kịp thời hợp với tình
hình mới đã có tác dụng thiết thực, tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước, xúc
tiến sự phát triển của kinh tế mang lại những thành quả bước đầu quan trọng. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định nền kinh tế của nước ta là: Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước… bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, dùng cơ chế thị trường, vận
dụng các hình thức kinh tế thị trường và phương pháp quản lý của kinh tế thị
trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn
chế và khắc phục mặt thụ động của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của quần
chúng. Chính vì vậy chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện khung pháp
lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động
tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho mọi thành phần kinh tế với các hình
thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh
theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ.
11


2.5 Pháp luật bảo đảm trật tự an toàn xã hội và bình đẳng xã hội
Pháp luật xã hội chủ nghĩa với thuộc tính và những đặc thù của mình có vai
trò rất quan trọng trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thực
tế trong thời kỳ quá độ, bên cạnh hệ thống quy phạm pháp luật đuợc đặt ra để điều

chỉnh, chỉ dẫn hành vi xử sự của các chủ thể, thiết lập một thứ tự quan hệ pháp
luật, thúc đẩy quá trình phát triển và những tiến bộ xã hội, pháp luật còn chứa
đựng những quy phạm cấm mọi hành vi gây mất ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội, xâm hại đến ích lợi của nhà nước, tập thể, công dân. Những biện
pháp được pháp luật quy định để ứng dụng trong những trường hợp có vi phạm
pháp luật của cá nhân hay một tổ chức thể hiện sức mạnh quốc gia, quyền lực của
dân chúng một cách công khai có ý nghĩa rất lớn để răn đe, dự phòng, đồng thời là
cơ sở để xử lý và trừng phạt nghiêm khắc những hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong lĩnh vực này, luật pháp là phương tiện sắc bén nhất vì nó thể hiện sức mạnh
của nhà nước trong việc gìn giữ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Đây là vai trò đặc biệt quan trọng của pháp luật bởi vì mục tiêu cuối cùng
của công tác quản lý xã hội đó là ổn định xã hội. Hiện nay pháp luật n ước ta bao
gồm những quy định về bảo vệ, bảo đảm trật tự an ninh, an toàn xã hội, các chế
tài xử phạt, xử lý vi phạm pháp luật được quy định trong Bộ luật hình sự, pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật dân sự …. Nhờ những chế tài xử phạt đó đã
góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó Đảng, Nhà
nước ta cũng đã chỉ đạo xây dựng các văn bản có nội dung quy định về an sinh xã
hội như: Luật Bảo hiểm, chế độ chính sách đối với người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số…Đặc biệt, trong kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII, Quốc hội lần đầu tiên
xem xét Luật Trưng cầu ý dân, Luật biểu tình một trong những quyền công dân cơ
bản, đã được ghi nhận ở nhiều nước. Luật này được xây dựng nhằm thể chế hoá
các quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc
tế; phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, tăng
cường đoàn kết và đồng thuận xã hội, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình, tham gia rộng rãi, trực tiếp vào những vấn đề trọng
đại của đất nước thông qua các cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật.
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY

12


VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NÓI CHUNG ĐỐI VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI

Những năm vừa qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm củng
cố hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của toàn dân, nhưng do chưa có đủ hệ
thống quy phạm pháp luật để tạo ra cơ sở pháp lý kiên cố cho việc tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị, nên việc phát huy sức mạnh của cả hệ thống đó còn
có những hạn chế nhất định. Đó là một số lĩnh vực chưa có Luật điều chỉnh, có
những lĩnh vực phải dùng Nghị định để điều chỉnh chẳng hạn như quy định về
quyền con người, Luật tiếp nhận thông tin, Luật biểu tình, một số quy định trong
luật còn dùng từ ngữ chung chung, chưa rõ ràng gây khó khăn trong quá trình áp
dụng, một số điều luật còn đưa ra thời hiệu nên dẫn đến những thiệt thòi cho
người dân, nội dung các ngành luật còn chồng chéo, nội dung không thống nhất,
có nội dung luật đưa ra chưa kịp thời với những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn
nên khó giải quyết, việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan trong hệ thống pháp luật chưa rõ ràng vv…Chính vì vậy những trong nội
dung tiểu luận này người viết xin đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy
vai trò của pháp luật nói chung đối với quản lý xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
3.1 Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ
và các bộ, ngành nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Giải pháp này đặt ra yêu cầu đối với Quốc hội, Chính phủ cần tập trung xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Yêu cầu được đặt ra đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay
đó là tiến độ và chất lượng dự thảo nội dung các văn bản luật, pháp lệnh. Để nâng
cao vai trò của pháp luật đối với quản lý xã hội thì đòi hỏi các dự án luật cần phải
được ban hành ngay sau khi Hiến pháp được thông qua, như vậy mới có thể đáp
ứng kịp thời yêu cầu của quản lý xã hội. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này

thì Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục coi trọng, dành ưu tiên hàng đầu
cho công tác xây dựng pháp luật nói chung và thực hiện chương trình xây dựng
luật pháp lệnh nói riêng; kịp thời cho ý kiến về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và
nội dung cơ bản cơ bản của các dự án, dự thảo; chỉ đạo tăng cường công tác pháp
chế của Bộ, ngành Trung ương. Thủ tướng Chính phủ cần dành thời gian thích
đáng để chỉ đạo, định hướng tư tưởng quan trọng đối với các dự án, dự thảo, xử lý
kịp thời những vướng mắc, khó khăn trong quá trình xem xét, thông qua và trình
các dự án, dự thảo luật. Bên cạnh đó nhằm nâng cao chất lượng của công tác thẩm
13


định các văn bản Chính phủ cần thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án
luật triển khai thi hành Hiến pháp. Đồng thời tổ chức việc lấy ý kiến của các nhà
khoa học, các chuyên gia về từng nội dung của các dự án luật, pháp lệnh và các
văn bản quy phạm pháp luật trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ làm
sao để luật đưa ra phải có tính khả thi, đi vào cuộc sống. Muốn làm được điều này
thì ngay sau khi Luật, pháp lệnh được Quốc hội thông qua, Thủ tướng Chính phủ
cần có quyết định phân công cụ thể trách nhiệm cho từng Bộ, ngành trong việc
nghiên cứu, soạn thảo, tiến độ trình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành
luật, pháp lệnh. Bên cạnh đó Nhà nước cần có chế độ chính sách phù hợp hỗ trợ
cho công tác xây dựng hệ thống pháp luật, đồng thời kiện toàn tổ chức pháp chế
các bộ, ngành…Cần kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân,
nhất là trách nhiệm của người đứng đầu để xảy ra tình trạng chậm triển khai thi
hành luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết, chưa bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, và chưa phù hợp với
thực tiễn.
Bộ Tư pháp, Văn phòng chính phủ cần cử công chức có trình độ, am hiểu
về quy trình, nội dung để tham gia soạn thảo, chỉnh lý, theo dõi ngay từ đầu, liên
tục suốt quá trình xây dựng, trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khi xây
dựng luật, pháp lệnh, các cơ quan chủ trì soạn thảo cần cân nhắc kỹ, chỉ đưa vào

nội dung luật, pháp lệnh những vấn đề thật cần thiết phải quy định chi tiết và có
tính khả thi cao, những nội dung không thể quy định cụ thể hơn luật thì kiên quyết
không đưa vào nội dung luật, pháp lệnh.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề
phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của
pháp luật không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn tạo môi trường
thuận lợi cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới. Để làm được điều
đó, đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng. Trước
hết, cần phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò của pháp luật
trong việc xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ
vấn đề này là một quá trình khó khăn và lâu đài. Trải qua thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, cần phải “tăng cường pháp chế, xây
đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp
luật”. Gần đây, Đại hội X của Đảng đã khẳng định rằng, chúng ta cần “Xây dựng
cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc
14


tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp”. Điều đó cho thấy, việc xây dựng và từng bước hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền đang trở thành vấn đề thực sự có ý nghĩa cấp bách
trong điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Bởi vì, đây là vấn đề
không những góp phần tăng cường cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền
làm chủ của mình, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và nuôi
dưỡng ý thức đạo đức mới.
Tiếp đó, chúng ta cần phải xây dựng đồng bộ và hoàn. thiện hệ thống pháp
luật. Phương châm chỉ đạo của Đảng ta là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng
tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật”. Vấn đề này có liên
quan chặt chẽ với việc nghiên cứu các giá trị, đặc biệt là các giá trị truyền thống.

Thông qua quá trình đó, chúng ta có thể lựa chọn các chuẩn mực, các giá trị phù
hợp để luật hóa chúng, biến thành những quy phạm chung của xã hội mà mỗi
công dân đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Có thể nói, đây là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp bách trong quá trình xây dựng một xã hội
tiến bộ, văn minh ở nước ta hiện nay.
3.2 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức tham gia xây dựng hệ
thống pháp luật
Thời gian qua, dự luận nhân dân rất bức xúc trước một số văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành nhưng không sát thực tế, không được cuộc sống
chấp nhận, nguyên nhân chủ yếu được đưa ra đó là: Cơ quan chủ trì soạn thảo
chưa hoặc không nghiên cứu kỹ lưỡng hoặc lấy ý kiến chưa sát với đối tượng chịu
sự tác động của văn bản; trách nhiệm của các cơ quan phối hợp, cơ quan tham
mưu trong quá trình ban hành văn bản; việc công khai lấy ý kiến các chuyên gia,
các nhà khoa học, các tổ chức xã hội còn hạn chế. Do vậy giải pháp để thực hiện
yêu cầu này đó là: Cần kiện toàn các Ban soạn thảo, tổ biên tập theo hướng nâng
cao trách nhiệm, kỹ năng và chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của
từng thành viên; tránh hình thức; huy động các chuyên gia, các nhà khoa học có
kinh nghiệm sát với thực tế vào Ban soạn thảo, Tổ biên tập để đưa ra các phương
án, lựa chọn và đánh giá tác động kỹ lưỡng các quy phạm đưa ra trong dự án, dự
thảo.
Tăng cường công tác thẩm định của Bộ Tư pháp, thẩm tra của Văn phòng
Chính phủ về các nội dung của các quy phạm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp,
tính khả thi và khách quan trong quá trình thẩm định, thẩm tra. Đồng thời tăng
15


cường sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, lấy ý kiến các đối tượng
chịu sự tác động của văn bản trong suốt quá trình xây dựng, soạn thảo và kiểm
tra sau khi văn bản được ban hành. Hơn nữa cần đề cao trách nhiệm pháp lý của
những chủ thể chủ trì xây dựng, trình ban hành văn bản. Công tác tham mưu ban

hành văn bản pháp luật cần phải làm sao đảm bảo được tính khách quan, công
bằng trong chính sách, hạn chế tối đa tính cục bộ trong quá trình xây dựng, ban
hành, trình văn bản quy phạm pháp luật.
Để nâng cao vai trò của pháp luật đối với quản lý xã hội thì yêu cầu tiếp
theo đó là cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia xây dựng
hệ thống pháp luật. Bởi một luật, pháp lệnh khi được ban hành yêu cầu phải có
tính đồng bộ, tính thống nhất, tính minh bạch, tính khả thi, không áp đặt một
chiều và luật đó thực sự phải đi vào cuộc sống. Muốn đạt được như vậy thì người
tham gia xây dựng hệ thống pháp luật cần có trình độ hiểu biết về pháp luật, về
cuộc sống, hiểu sâu về vấn đề nội dung của luật, có kiến thức thực tế, có tâm của
người cán bộ cách mạng, bỏ ngoài những lợi ích nhóm, tư hữu cá nhân, luôn đặt
lợi ích chung lên đầu có như vậy luật đó mới thực sự có tính khả thi và đi vào
cuộc sống. Nhà nước có chế độ chính sách phù hợp để đội ngũ công chức làm
công tác xây dựng văn bản pháp luật yên tâm, hết lòng, hết sức với công tác xây
dựng pháp luật, tránh tình trạng những người giỏi trong công tác xây dựng pháp
luật có xu hướng ra đi và sắp xếp những công chức hạn chế về chuyên môn,
nghiệp vụ tham gia làm công tác này.
3.3 Nâng cao chất lượng các cơ quan làm luật và đội ngũ cán bộ thực
thi pháp luật
Để nâng cao vai trò và hiệu quả của hệ thống pháp luật đối với quản lý xã
hội, bên cạnh các biện pháp đã nêu, cần phải quan tâm đến chất lượng của các cơ
quan làm luật và đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật. Thực tế những năm vừa qua
cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và
yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người.
Đã có không ít trường hợp cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc
trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những trường hợp vi phạm,
thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật. Do vậy, việc nâng cao chất
lượng của các cơ quan này cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang là đòi hỏi cấp
bách hiện nay.

16


Bên cạnh đó việc nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức
tuân thủ luật pháp của nhân dân cũng là một giải pháp qua đó nhằm giải quyết tốt
mối quan hệ giữa dân chủ với luật pháp, phát huy vai trò của luật pháp trong việc
củng cố và mở mang dân chủ có như vậy quyền dân chủ mới thực sự được phát
huy có hiệu quả. Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân,
nâng cao tinh thần chấp hành pháp luật. Đứng trước pháp luật, mọi công dân đều
bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật đều
phải bị xử lý nghiêm khắc. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng,
hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Trong
thực thi pháp luật, về phía Nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh,
thưởng phạt phải rõ ràng, về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều
có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật.
3.4 Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật sau khi luật, pháp lệnh được ban hành
Để nâng cao vai trò của pháp luật cần tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào đời
sống thông qua hoạt động giáo dục pháp luật. Bởi vì, một hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu những quy định của nó không được
mọi người biến thành hành động trong thực tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật chưa phải là đã xong, mà còn phải tuyên
truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Theo Người, việc giáo dục pháp
luật là một trong những công đoạn hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp nâng
cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng hình thành những nhu
cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới, đồng thời, góp phần củng cố ý thức về
nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích chính
đáng của người khác, khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý.
Để thực hiện được giải pháp này các ngành, các cấp khi triển khai các hoạt

động PBGDPL cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện theo kế hoạch, chương
trình cụ thể trong từng giai đoạn, có biện pháp thực hiện phù hợp với từng nhóm
đối tượng, địa bàn và điều kiện thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương. Kiện
toàn Hội đồng phối hợp, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật các
cấp theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Tiếp tục đa dạng hóa và đổi mới cách thức thực hiện, đảm bảo các hình
thức, nội dung được triển khai thực hiện trên cơ sở bám sát định hướng chỉ đạo về
17


công tác PBGDPL của cấp trên, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế và đặc
thù của từng đơn vị, địa phương, cộng đồng dân cư, tạo điều kiện cho cán bộ,
công chức, người dân, nhất là người dân miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và một số đối tượng đặc thù thuận lợi trong việc tiếp cận, tìm
hiểu pháp luật, đặc biệt chú trọng tuyên truyền miệng qua các hoạt động văn hoá,
lễ hội, tuyên truyền lưu động; phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng,
trong đó, chú trọng phổ biến qua mạng lưới truyền thanh cơ sở vào thời gian thích
hợp để người dân dễ dàng nghe và tiếp thu được. Trong công tác PBGDPL cũng
cần đề cao vai trò, uy tín của các già làng, trưởng thôn, cán bộ hoà giải vì những
người này có thuận lợi là biết ngôn ngữ, lại am hiểu phong tục tập quán, đặc điểm
đời sống của đồng bào nên việc tuyên truyền của họ sẽ có hiệu quả hơn.
Duy trì và tiến tới cải tiến hình thức, nội dung của việc xây dựng, phát hành
Bản tin tư pháp hành tháng, các loại tài liệu tuyên truyền pháp luật khác; phối hợp
xây dựng các Chuyên mục “Giải đáp pháp luật”, “Pháp luật và đời sống” trên báo,
đài của địa phương.
Củng cố và phát triển các hệ thống thông tin pháp luật phù hợp tại các cơ
quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp; nâng cao khả năng hợp tác
giữa các cơ quan, tổ chức làm công tác thông tin pháp luật tạo thành mạng lưới
thông tin pháp luật thống nhất từ trung ương đến địa phương thực hiện việc tổ

chức, quản lý và cung cấp thông tin pháp luật; hình thành các cơ quan đầu mối
làm nhiệm vụ cung cấp thông tin pháp luật phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật
của các tầng lớp nhân dân.
Kết hợp PBGDPL với trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ
sở. Giữa PBGDPL, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở có mối
quan hệ mật thiết trong việc xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường sự hiểu biết
pháp luật, khuyến khích thói quen ứng xử xã hội bằng pháp luật trong nhân dân.
Để nâng cao hiệu quả, phát huy thế mạnh của các hình thức này, cần đưa yêu cầu
thực hiện PBGDPL vào Quy chế hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, tư
vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và các tổ hòa giải ở cơ sở; hình thành trách nhiệm
tự giác thực hiện PBGDPL cho đối tượng, cho khách hàng khi trợ giúp pháp lý, tư
vấn pháp luật; nâng cao chất lượng, hiệu quả và mở rộng đối tượng, phạm vi hoạt
động trợ giúp pháp lý lưu động để đảm bảo mọi người dân đều có khả năng được
hưởng dịch vụ này khi cần thiết.

18


Để làm tốt công tác tuyên truyền, PBGDPL cần có sự tìm hiểu về thái độ
của người dân đối với pháp luật, họ hiểu pháp luật như thế nào? Pháp luật có vai
trò gì trong cuộc sống của họ. Bởi vậy, khi tuyên truyền, PBGDPL cần giải thích,
phân tích cho người dân hiểu được rằng, pháp luật không chỉ bao gồm các quy
định cưỡng chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải quyết tranh chấp. Pháp luật còn
bao gồm các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến
khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển và
bảo đảm trật tự ổn định. Pháp luật là một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho
con người giao dịch với nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho
các thành viên trong xã hội phụ thuộc và gắn bó với nhau một cách hợp lý.
Các ngành, các cấp cần quan tâm bố trí hợp lý kinh phí, cơ sở vật chất,
nguồn nhân lực cho công tác PBGDPL theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục

pháp luật. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, đãi ngộ lực lượng làm công tác PBGDPL.
Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác có hiệu quả các
văn bản pháp luật cập nhật, lưu trữ trên mạng tin học của Chính phủ, mạng
Internet; xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu pháp luật điện
tử... để đáp ứng yêu cầu công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, cần quan tâm đến những vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, như:
Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật về trình độ
chuyên môn, kỹ năng tuyên truyền; tiếp tục đổi mới hình thức tuyên truyền đa
dạng với nhiều hình thức phân loại theo các đối tượng khác nhau; chú trọng tuyên
truyền tại cơ sở; tích cực đẩy mạnh xã hội hoá công tác PBGDPL; làm thay đổi tư
duy nhận thức của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân về công tác
PBGDPL.
Bên cạnh đó để tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành ý thức đạo
đức nhận thức pháp luật, cần phải đẩy mạnh hơn nữa các chương trình kinh tế - xã
hội, như xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
phải khắc phục những thiếu sót trong các chính sách quản lý kinh tế - xã hội, tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của đất
nước và bối cảnh quốc tế. Mặt khác, cũng cần tăng cường hơn nữa lực lượng,
phương tiện, kinh phí cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, xây dựng các cơ quan
này thực sự trong sạch, vững mạnh.
3.5 Huy động sự vào cuộc của toàn xã hội nhằm nâng cao vai trò của
pháp luật đối với quản lý xã hội
19


Để nâng cao vai trò của pháp luật đối với quản lý xã hội giải pháp cần thiết
đó là chúng ta cần huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, bởi pháp luật
không của riêng ai, mỗi người sống và làm việc trong xã hội đều phải tuân thủ
pháp luật. Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với
xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp, mọi hoạt động của đời sống xã hội

được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp thống
trị.
Trong xã hội không còn đối kháng giai cấp, Nhà nước là người đại điện cho
nhân dân lao động. Cho nên, hoạt động của Nhà nước và hệ thống pháp luật tự
thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Trên phương diện lý luận cũng như
thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền
lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người phát huy
những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với
việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn trọng các
giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và
nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy để phát huy vai trò của pháp
luật đối với quản lý xã hội chúng ta cần huy động toàn hệ thống chính trị từ Trung
ương đến địa phương và quần chúng nhân dân cũng tích cực tham gia xây dựng,
hoàn thiện và tuân thủ hệ thống pháp luật.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Thực tế đó luôn đòi hỏi và thúc đẩy nâng
cao trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp cho lực lượng lao động và xã hội hóa tri
thức khoa học. Từ đó, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và của toàn xã hội cũng
được nâng lên, làm cho khả năng điều chỉnh và tuân thủ pháp luật của mỗi người
ngày càng đi vào nề nếp. Mỗi người trong hoạt động của mình đã có ý thức hơn
trong việc tôn trọng pháp luật, có bản lĩnh hơn trong đấu tranh vì công bằng và lẽ
phải, biết trân trọng và hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Có thể nói, việc
chuyển sự điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội với thói quen theo “lệ”,
và nặng về đạo đức sang điều chỉnh bằng pháp luật, đề cao tính nhân bản là một
trong những chuyển biến quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Bởi lẽ, việc hình
thành ý thức pháp luật của mỗi công dân là điều kiện để nâng cao ý thức đạo đức
và năng lực thực hiện những hành vi đạo đức của mỗi cá nhân.

20



Chúng ta đã biết, cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị
chân chính, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và
xã hội. Pháp luật tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội bằng những quy phạm, điều
khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Các quy phạm pháp luật quy
định chi tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm đoán. Đồng thời, chúng còn
xác định cụ thể các cách cư xử lẫn những hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi
phạm. Ngoài ra, pháp luật còn thực hiện điều chỉnh mối quan hệ giữa con người
và xã hội bằng sự bắt buộc, cưỡng chế từ bên ngoài. Trong khi đó, đạo đức lại
điều chỉnh các mối quan hệ bằng dư luận xã hội, bằng sự giác ngộ và sự thôi thúc
từ bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo
đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Do vậy, có thể nói, pháp luật là công cụ để quản
lý Nhà nước, và pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với công tác quản lý xã hội
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện hay.

KẾT LUẬN
Thực tế những năm vừa qua ở nước ta đặc biệt là trong thời gian gần 30
năm đổi mới cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những
tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Vai trò của pháp luật đối với quản lý xã hội
21


được thể hiện rõ nét, hệ thống pháp luật Việt Nam đã góp phần giữ gìn an ninh
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, những
quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn đề cao tính
nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước do nhân
dân làm chủ. Hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của
con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động được quan tâm. Vì vậy, các
nguyên tắc định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật, như

công bằng, nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội… cũng
chính là những nguyên tắc cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới.
Có thể nói, vai trò của pháp luật sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức
tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi
ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại, đồng
thời pháp luật giúp cho mọi người trong xã hội luôn hiểu rằng pháp luật không chỉ
là công cụ để trừng trị, xử lý vi phạm mà pháp luật còn là công cụ bảo vệ và thực
hiện lợi ích của con người. Trước đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng căn dặn: pháp luật không phải là để trừng trị con người, mà là công cụ bảo
vệ, thực hiện lợi ích của con người”.
Có thể nói, trong tiến trình đổi mới đất nước, pháp luật đã góp phần đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến khả quan
về mặt xã hội, góp phần không nhỏ trong việc củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước ta từng
bước hội nhập với thế giới. Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng, sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ
mới. Nhiều văn bản pháp luật và dưới luật được ban hành và đang đi vào cuộc
sống, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó càng khẳng định một
thực tế là, nếu như pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, hoạt động tuyên truyền
pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn và việc thực hiện ngày càng nghiêm minh
hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng cao hơn, sự định hướng hành vi cho mọi
công dân cũng sẽ tốt hơn.
Tóm lại, muốn xã hội ổn định và ngày càng phát triển, cần phải có hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và
của toàn xã hội, khi đó vai trò của pháp luật đối với quản lý xã hội mới thể hiện rõ
nét. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có ý
nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chính vì vậy,
22



Đảng ta khẳng định rằng, để góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội,
chúng ta phải “hoàn chỉnh hệ thống pháp luật”, cụ thể là: tiếp tục đổi mới tổ chức
và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh
cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Trên cơ sở hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
khi đó pháp luật mới phát huy hết vai trò của mình đối với quản lý xã hội./.

23


24



×