Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Phân tích và đề xuất giải pháp cổ phần hoá nhà máy nhiệt điện phả lại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.09 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ THU HÀ

PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CỔ PHẦN HOÁ
NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN PHẢ LẠI

Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số:

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS NGUYỄN MINH DUỆ

HÀ NỘI - 2005


MỤC LỤC VÀ BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
MỤC LỤC

TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài


4. Kết cấu của luận văn

2
2
3

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỔ
PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM.

1.1.

Khái niệm, bản chất và tác dụng của cổ phần hoá

4

4

1.1.1. Khái niệm và bản chất

4

1.1.2. Tác dụng của cổ phần hoá

6

1.2.

Giới thiệu về công ty cổ phần

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của loại hình công ty


8
9

cổ phần
1.2.2. Đặc điểm của công ty cổ phần trong sự phát triển của

11

nền kinh tế thị trường.
1.3.

Khái quát cổ phần hoá các DNNN trên thế giới –

16

những kinh nghiệm có thể áp dụng ở Việt Nam.
1.3.1. Khái niệm cổ phần hoá các DNNN trên thế giới

16

1.3.2. Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá các

22

nước trên thế giới.
1.4.

Vai trò của Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở Việt
Nam, những vấn đề đặt ra trong công cuộc cải cách

DNNN.

28


1.5.

Một số quan điểm cơ bản để thực hiện quá trình cổ

31

phần hóa các DNNN ở Việt Nam.
1.6.

Đối tượng, hình thức và quy trình cổ phần hóa doanh

34

nghiệp Nhà nước.
1.6.1. Đối tượng cổ phần hóa.

35

1.6.2. Hình thức cổ phần hóa.

35

1.6.3. Quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.

36


CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG VỀ MÔ HÌNH

40

QUẢN LÝ VÀ XU THẾ CỔ PHẦN HÓA NHÀ MÁY
NHIỆT ĐIỆN PHẢ LẠI.

2.1. Khái quát chung về Nhà máy nhiệt điện Phả Lại.

40

2.1.1. Lịch sử hình thànhvà phát triển của Nhà máy nhiệt

40

điện Phả Lại.
2.1.2. Đặc điểm mô hình quản lý sản xuất và tổ chức bộ

42

máy của Nhà máy nhiệt điện Phả Lại.
2.1.2.1. Đặc điểm mô hình quản lý sản xuất ở Nhà máy

42

nhiệt điện Phả Lại.
2.1.2.2. Đặc điểm về quy trình công nghệ và tổ chức sản

43


xuất kinh doanh của Nhà máy nhiệt điện Phả Lại.
2.1.2.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý Nhà máy nhiệt

45

điện Phả Lại.
2.2. Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy

53

nhiệt điện Phả Lại trong những năm gần đây.
2.2.1. Phân tích một số chỉ tiêu cơ bản.

54


2.2.2.Phân tích các chỉ tiêu tài chính.

55

2.2.3. Cơ cấu tổ chức, trình độ công nghệ sản xuất.

56

2.2.4. Những thuận lợi, khó khăn của Nhà máy nhiệt điện

57

Phả Lại.

2.3. Sự cần thiết phải đổi mới mô hình quản lý và xu thế cổ

59

phần hóa Nhà máy nhịêt điện Phả Lại.
2.4. Chiến lược đầu tư sau cổ phần hóa.

59

2.5. Những khó khăn, thuận lợi khi cổ phần hoá Nhà máy

61

nhịêt điện Phả Lại.
2.5.1. Những thuận lợi khi cổ phần hoá Nhà máy nhịêt điện

61

Phả Lại.
2.5.2. Những khó khăn, khi cổ phần hoá Nhà máy nhịêt

62

điện Phả Lại.
65
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CỔ PHẦN HOÁ
NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN PHẢ LẠI.

3.1. Sự cần thiết cổ phần hóa Nhà máy nhiệt điện Phả Lại.


65

3.1.1. Phân tích hiện trạng về mô hình quản lý ngành điện

65

Việt Nam.
3.1.2. Định hướng phát triển ngành điện đến năm 2010.

67

3.1.3. Sự cần thiết hình thành thị trường điện Việt Nam.

67

3.1.4. Sự cần thiết cổ phần hóa các doanh nghiệp trong

68

ngành điện .
3.1.5. Sự cần thiết cổ phần hóa Nhà máy điện Phả Lại.

69

3.2. Xây dựng lộ trình cổ phần hoá Nhà máy nhiệt điện Phả

70

Lại.



3.3. Đề xuất các giải pháp cổ phần hoá Nhà máy nhiệt điện

77

Phả Lại.
3.4. Dự đoán kết quả sau cổ phần hoá Nhà máy nhiệt điện

81

Phả Lại.
KẾT LUẬN

87


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC LOẠI SÁCH:

I-

1. Qui định mới về quản lý tài chính và cổ phần hoá DNNN - Nhà xuất bản tài
chính, năm 2004.
2. Những điều càn biết về cổ phần hoá DNNN - Nhà xuất bản lao động, năm
2002
3. Cổ phân hoá doanh nghiệp Nàh nước – PGS.TS Phạm Ngọc Côn – NXB
Chính trị Quốc gia, năm 2001.
4. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học – GS.TS Vũ Cao Đàm – NXB Thống
kê, năm 2004.
5. Chính sách đối với người lao động khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần –

Nhà xuấtbản chính trị Quốc gia, năm 2002.
6. Đổi mới DNNN ở Việt Nam – Nhà xuất bản kinh tế xã hội, năm 2002.
7. Một số quan điểm cơ bản tiếp tục cảI tổ khu vực DNNN – Nhà xuất bản kinh
tế xã hội, năm 2003.
II. CÁC LOẠI BÁO CÁO, TẠP CHÍ:

1. Nghị định số : 28/1996/NĐ-CP ngày 07/05/1996 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.
2. Nghị định số : 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/2002 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.
3. Nghị định số : 64/2002/NĐ-CP ngày 19/06/2002 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.
4. Nghị định số : 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.
5. Nghị định số : 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính Phủ về Ban
hành quy chế quản lý tài chính của Công ty nhà nước và quản lý vốn Nhà


nước đầu tư vào doanh nghiệp khác.
6. Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN, Tổng công ty Nhà nước.
7. Thông tư số 179/2002/TT-BTC ngày 20/11/2002 của Bộ tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số: 64/2004/NĐ- CP ngày 19/06/2002 của Chính
Phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
8. Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số: 187/2004/NĐ- CP ngày 16/11/2004 của Chính
Phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
9. Báo cáo quyết toán hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy nhiệt điện
Phả Lại các năm 2002,2003,2004.
10. Các văn bản pháp luật và các báo cáo về tình hình CPH của các doanh

nghiệp thuộc EVN do Ban cổ phần hoá và chứng khoán Tổng công ty điện
lực Việt Nam cung cấp.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC LOẠI SÁCH:

I-

1. Qui định mới về quản lý tài chính và cổ phần hoá DNNN - Nhà xuất bản tài
chính, năm 2004.
2. Những điều càn biết về cổ phần hoá DNNN - Nhà xuất bản lao động, năm
2002
3. Cổ phân hoá doanh nghiệp Nàh nước – PGS.TS Phạm Ngọc Côn – NXB
Chính trị Quốc gia, năm 2001.
4. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học – GS.TS Vũ Cao Đàm – NXB Thống
kê, năm 2004.
5. Chính sách đối với người lao động khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần –
Nhà xuấtbản chính trị Quốc gia, năm 2002.
6. Đổi mới DNNN ở Việt Nam – Nhà xuất bản kinh tế xã hội, năm 2002.
7. Một số quan điểm cơ bản tiếp tục cảI tổ khu vực DNNN – Nhà xuất bản kinh
tế xã hội, năm 2003.
II. CÁC LOẠI BÁO CÁO, TẠP CHÍ:

1. Nghị định số : 28/1996/NĐ-CP ngày 07/05/1996 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.
2. Nghị định số : 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/2002 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.
3. Nghị định số : 64/2002/NĐ-CP ngày 19/06/2002 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.

4. Nghị định số : 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính Phủ về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần.
5. Nghị định số : 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính Phủ về Ban
hành quy chế quản lý tài chính của Công ty nhà nước và quản lý vốn Nhà


nước đầu tư vào doanh nghiệp khác.
6. Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN, Tổng công ty Nhà nước.
7. Thông tư số 179/2002/TT-BTC ngày 20/11/2002 của Bộ tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số: 64/2004/NĐ- CP ngày 19/06/2002 của Chính
Phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
8. Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số: 187/2004/NĐ- CP ngày 16/11/2004 của Chính
Phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
9. Báo cáo quyết toán hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy nhiệt điện
Phả Lại các năm 2002,2003,2004.
10. Các văn bản pháp luật và các báo cáo về tình hình CPH của các doanh
nghiệp thuộc EVN do Ban cổ phần hoá và chứng khoán Tổng công ty điện
lực Việt Nam cung cấp.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam đã bắt đầu từ cuối thập kỷ 80. Đại
hôị đảng toàn quốc lần thứ VI đã tiếp tục phát triển thành đường lối đổi mới kinh
tế và nâng chủ trương đổi mới kinh tế lên tầm cao hơn về chất, xây dựng và phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có

sự điều tiết của Nhà nước.
Trong quá trình đổi mới đó thì vấn đề đổi mới khu vực kinh tế nhà nước là
vấn đề phức tạp, mang tính thời sự và thu hút được sự chú ý quan tâm của Chính
phủ, của các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước. Làm thế nào để cơ cấu lại
khu vực kinh tế Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của nó theo
tinh thần các Nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng. Một trong những giải pháp
chiến lược để giải quyết các vấn đề này là tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước nhằm đa dạng hoá sở hữu, đưa các yếu tố cạnh tranh làm động lực để
nâng cao hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu
trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng là một giải pháp có tính phổ biến để cải
cách khu vực kinh tế Nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới.
Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã đi vào cuộc sống của cơ quan
quản lý Nhà nước cũng như từng doanh nghiệp Nhà nước. Riêng đối với ngành
điện, việc cổ phần hóa góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh trạnh của ngành
điện nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung nhằm tăng năng lực tài chính, đầu
tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý, phát huy vai trò làm chủ thực
sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của các nhà đầu
tư đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hòa các lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp,
nhà đầu tư và người lao động. Ngoài ra cổ phần hóa ngành điện còn thu hút nguồn


2

vốn đầu tư xây dựng các công trình nguồn và lưới điện, đáp ứng nhu cầu phụ tải
ngày càng cao, giảm áp lực từ việc tăng giá điện.
Cũng phải nhận thấy rằng cổ phần hoá ngành điện đóng vai trò quan trọng
nhằm thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta phát triển. Cổ phần hóa
ngành điện nói chung và cổ phần hóa các Nhà máy điện nói riêng cũng đóng một
vai trò chính và không kém phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở nước
ta. Mà đặc biệt là cổ phần hóa Nhà máy nhiệt điện Phả Lại nhằm nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh, phát huy tính làm chủ của người lao động trong công
việc, giảm các khoản chi phí sản xuất, đầu tư các công trình lưới điện để đáp ứng
nhu cầu phụ tải ngày càng tăng cao và giảm giá điện.
Nhận thức được tính cấp bách của vấn đề cũng như thực hiện quan điểm của
mình để góp phần vào công cuộc chung của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đổi
mới hiện nay, Tôi đã chọn và đi sâu nghiên cứu đề tài:
“ PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CỔ PHẦN HOÁ NHÀ MÁY NHIỆT
ĐIỆN PHẢ LẠI ”

2. Mục đích của luận án.
Thông qua nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn quá trình cổ phần hoá của
Nhà máy nhiệt điện Phả Lại; quá trình cổ phần hoá, thực tiễn hoạt động của các
doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá trong nước và trên thế giới để đúc
rút những kinh nghiệm, bài học cho công tác cổ phần hoá các Nhà máy Nhiệt điện
ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Luận án nhằm nghiên cứu cách thức, kỹ thuật; quá trình tổ chức đề ra
phương án và giải pháp để tiến hành cổ phần hoá Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại;
Tính khả thi của dự án, những mặt ưu - nhược điểm của việc cổ phần hoá, những


3

ảnh hưởng của nó đến sự hoạt động sản xuất, kinh doanh của Nhà máy nói riêng,
tác động đến đời sống kinh tế xã hội nói chung. Trên cơ sở đó nhằm khẳng định,
xác lập lại về mặt lý luận cũng như các giải pháp cho thực tiễn nhằm xác định
hướng đi phù hợp cho việc cổ phần hoá các Nhà máy nhịêt điện nói riêng hay ở
tầm vĩ mô đó là cổ phần hoá ngành điện trong tương lai để không những đẩy
nhanh tốc độ cổ phần hoá theo đúng tinh thần nghị quyết của Đảng, chính phủ mà
còn nhằm mang lại hiệu quả về kinh tế-xã hội của công tác cổ phần hoá.

4. Kết cấu.
Tên của luận văn: “Phân tích và đề xuất giảI pháp cổ phần hoá Nhà máy
nhiệt điện Phả Lại ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận án được trình bày trong 3
chương.
Chương I: Cơ sở lý luận và chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp ở
Việt Nam.
Chương II: Phân tích hiện trạng về mô hình quản lý và xu thế cổ phần
hóa Nhà máy nhiệt điện Phả Lại.
Chương III: Đề xuất giải pháp cổ phần hoá Nhà máy điện Phả Lại.


4

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ QUÁ TRÌNH CỔ
PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, bản chất và tác dụng của cổ phần hoá
1.1.1. Khái niệm và bản chất
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các nước trên thế giới, bất kể thuộc
thể chế chính trị nào, đều có doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, có sự khác nhau
về mức độ chiếm giữ trong các ngành, khu vực, mục tiêu và cách thức hoạt động
của mỗi nước. Ở các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển, các doanh nghiệp Nhà
nước thường chiếm tỷ lệ thấp – ví dụ ở Mỹ 2% trong tổng sản phẩm quốc dân, ở
Anh 8%, ở Nhật là 11% (năm 1995) – ở các nước như Mehico, doanh nghiệp Nhà
nước chiếm tỷ lệ cao hơn. Ở các nước dân tộc độc lập châu Á, Phi và Mỹ La tinh,
các doanh nghiệp Nhà nước tỏ ra có ưu thế trong việc khôi phục nền kinh tế bị tàn
phá sau chiến tranh. Ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây, doanh
nghiệp Nhà nước chiếm vị trí độc tôn. Khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa tạo ra 98
– 99% tổng sản lượng công nghiệp và tạo ra trên 90% sản lượng nông nghiệp như

ở Bungari, Hungari, Liên Xô cũ, ở Rumani. Các DNNN ở tất cả các nước trên thế
giới nhìn chung hoạt động kém hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp tư nhân, bởi
vì:
- Các doanh nghiệp Nhà nước thường hoạt động trong lĩnh vực kinh tế quốc
phòng, các công trình công cộng, các ngành kinh tế mà tư nhân không muốn đầu
tư hoặc không có khả năng đầu tư vì yêu cầu vốn rất lớn, hiệu quả lại thấp.
- Doanh nghiệp Nhà nước, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước nên tính năng
động sáng tạo, trách nhiệm về tài sản và sự gắn bó của người quản lý với doanh


5

nghiệp không thể nào bằng các doanh nghiệp tư nhân, không tránh khỏi lãng phí
mất mát.
- Các doanh nghiệp Nhà nước thường chịu sự quản lý của nhiều cấp trung
gian, bị Nhà nước can thiệp quá sâuvào quá trình điều hành quản lý sản xuất kinh
doanh. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân cấp trên của họ là luật pháp. Các doanh
nghiệp Nhà nước thường có khuynh hướng độc quyền, ít hoà nhập với thị trường
nên sức cạnh tranh trên thị trường yếu.
Hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp đã trở thành gánh nặng cho
Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà nước đầu tư khá nhiều, song hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước vẫn không tăng lên được.
Để giải quyết gánh nặng đó, Chính phủ các nước đều có xu hướng giảm bớt
bộ phận khu vực kinh tế Nhà nước bằng cách tư nhân hoá một bộ phận doanh
nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được coi là một trong
những giải pháp có hiệu quả nhằm xoá bỏ gánh nặng Ngân sách Nhà nước, tuy
mức độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở mỗi nước diễn ra khác nhau.
- Cổ phần hoá là quá trình kinh tế khách quan. Từ khi ra đời đến nay, lịch sử
đã từng chứng kiến nhiều hình thức Công ty cổ phần. Vấn đề đặt ra là cần phải
nghiên cứu các quá trình dẫn đến các hình thức Công ty cổ phần. Có thể quá trình

đó là quá trình cổ phần hoá.
Như vậy thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là chuyển
quyền sở hữu tài sản và lĩnh vực hoạt động của Nhà nước thành sở hữu của các cổ
đông thuộc các thành phần kinh tế. Nói cách khác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước là quá trình đa dạng hoá quyền sở hữu các doanh nghiệp vốn là của Nhà
nước. Ở đây cần phân biệt rõ giữa cổ phần hoá và tư nhân hoá doanh nghiệp Nhà
nước.


6

Tư nhân hoá là chuyển sở hữu tài sản của Nhà nước vào tay tư nhân hoặc là
chuyển các lĩnh vực hoạt động xưa nay do Nhà nước độc quyền sang cho tư nhân.
Cổ phần hoá là chuyển sở hữu tài sản và lĩnh vực hoạt động mà lâu nay Nhà nước
nắm giữ vào tay các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế Nhà nước hoặc Nhà
nước chiếm phần khống chế.
Về phương pháp – tư nhân hoá có thể được thực hiện bằng nhiều cách như:
bán toàn bộ, cho không, bán một phần. Còn cổ phần hoá là bán toàn bộ hoặc bán
một phần doanh nghiệp Nhà nước cho các cổ đông. Như vậy, cổ phần hoá và tư
nhân hoá doanh nghiệp Nhà nước khác nhau cả về khái niệm, nội dung và cách
thức tiến hành.
1.1.2. Tác dụng của cổ phần hoá
Một là: phân định rõ ràng quyền sở hữu cuối cùng (thuộc Nhà nước) và
quyền sở hữu pháp nhân (thuộc thực thể kinh doanh), quyền kinh doanh. Nhà
nước chỉ quản lý vĩ mô. Doanh nghiệp thực sự trở thành người sản xuất và kinh
doanh hàng hoá độc lập, không những có quyền mở rộng kinh doanh, mà còn có
quyền xử lý tài sản, thật sự trở thành chủ thể tài sản, chủ thể kinh doanh, chủ thể
đầu tư, chủ thể cạnh tranh, chủ thể tự điều tiết, thực sự chuyển đổi cơ chế kinh
doanh.
Hai là: thể hiện sự thống nhất về vai trò song trùng vừa là người lao động

vừa là người chủ sở hữu. Cổ phần nội dung là cổ phần ưu đãi, khiến vai trò cổ
đông và của người lao động thống nhất với nhau trong cùng một công nhân viên
chức. Đồng thời, nó gắn chặt đông đảo công nhân viên chức với vận mệnh của
doanh nghiệp. Với ý nghĩa này, chế độ cổ phần càng phù hợp hơn đối với yêu cầu
của khối cộng đồng lao động liên hợp, khiến doanh nghiệp thật sự thành khối liên
hợp lợi ích của người lao động.


7

Ba là: Tách quyền sở hữu khỏi quyền kinh doanh, giúp ích vào việc chuyên
nghiệp hoá chức năng quản lý kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp. Công ty cổ phần hiện nay là tổ chức đại diện cho nhiều người sở
hữu cổ phần, tập trung vốn giao cho người được đào tạo chuyên môn, có năng lực
tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh. Đó là kết quả của sự phân công xã hội,
khiến quản lý được chuyên môn hoá, trở thành một nghề, có ý nghĩa quyết định
đến việc nâng cao tố chất doanh nghiệp, do đó cũng nâng cao năng lực thích ứng
với nhu cầu thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu trước kia do trình độ
cạnh tranh thấp, một nhà tư bản quản lý có thể ứng phó được, thì ngày nay trên thị
trường cạnh tranh bằng kỹ thuật cao, trí lực cao mà chỉ trực tiếp kinh doanh bằng
kinh nghiệm hạn hẹp của người sở hữu thì không thể đứng vững được. Chính vì
vậy, phải đào tạo một đổi ngũ các nhà kinh doanh có trình độ để điều hành các
hoạt động của doanh nghiệp.
Bốn là: Thích ứng được với yêu cầu tái sản xuất mở rộng, có lợi cho việc
tập trung nguồn vốn trong xã hội. Ngày nay, sự phát triển của nền sản xuất hiện
đại đòi hỏi phải thống nhất tập trung vốn với tập trung kỹ thuật, phải nhanh chóng
lập ra các doanh nghiệp lớn theo mô hình tập trung vốn và kỹ thuật. Nếu chỉ dựa
vào một nguồn vốn thì không đủ. Dù là doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể giải
quyết vấn đề thiếu vốn bằng chế độ cổ phần. Có người cho rằng, có thể dựa chủ
yếu vào nguồn vốn vay ngân hàng để giải quyết vấn đề vốn. Quan điểm này

không toàn diện, đành rằng ngân hàng có vai trò lớn trong việc tập trung vốn giúp
doanh nghiệp, nhưng không thể thay thế được việc tập trung vốn theo hình thức cổ
phần vì:
- Đối với người có tiền, thì ở đâu lợi tức cao thì họ bỏ vào đó. Nói chung
gửi tiền vào ngân hàng tuy độ rủi ro thấp nhưng mức lãi không cao bằng việc mua
cổ phần. Do vậy ở các nước phát triển ngân hàng tuy nhiều nhưng không thể thay


8

thế được các Công ty cổ phần. Ngược lại, xu thế thực tế là cả hai đều ngày càng
phát triển.
- Đại đa số ngân hàng cũng là các doanh nghiệp cổ phầ, một phần khá lớn
vốn của các ngân hàng cũng được gom bằng hình thức góp cổ phần.
Năm là: hình thức Công ty cổ phần giúp cho việc khơi thông nguồn vốn
xuyên khu vực, kết hợp các yếu tố xuyên khu vực. Điều này gắn chặt với việc xây
dựng và mở rộng thị trường vốn. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá khiến cho
các yếu tố sản xuất không ngừng được tổ chức lại, có tính chất xuyên khu vực, lực
lượng sản xuất phát triển từ vùng tập trung sang vùng mỏng yếu, từ vùng kinh tế
phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển. Việc phân phối tài nguyên được thực
hiện chủ yếu thông qua thị trường tài chính, mà một trong những phương thức
thực hiện ấy là giao dịch chứng khoán. Xu thế cơ bản của nền sản xuất xã hội hoá
là kết hợp phân công chuyên môn hoá sâu sắc với hiệp tác, liên kết, liên hợp giữa
các ngành nghề khác nhau trong cùng một ngành, thực hiện hệ thống hoá phải
liên hợp giữa các ngành với nhau, thực hiện đồng bộ hoá và thâm nhập vào nhau,
có trường hợp phải kinh doanh hỗn hợp. Sự đen chéo giữa chiều dọc và chiều
ngang diễn ra xuyên khu vực, thậm chí diễn ra trên phạm vi thế giới. Do vậy,
doanh nghiệp do một người đầu tư vốn không đủ sức đảm đương. Sự phân bố của
kết cấu mạng tất nhiên khiến cho tư bản đan xen vào nhau, thâm nhập vào nhau từ
mọi phía, các quần thể doanh nghiệp và mạng lưới doanh nghiệp ra đời thông qua

sự liên hiệp tư bản. Một Công ty mẹ nhiều Công ty con – một số lượng nhiều hơn
nữa các Công ty cháu, phân bố ở các vùng và các quốc gia khác nhau, quan hệ
giữa họ với nhau chủ yếu là sự thâm nhập bằng cổ phần, phụ thuộc lẫn nhau về
sản xuất và kinh doanh cùng chia lợi nhuận, rủi ro, chúng có thể vừa sử dụng lợi
thế riêng vừa có thể liên hợp lại với nhau thành một lực lượng hiệp tác có hệ
thống. Từ đó khiến nền sản xuất xã hội phát triển.


9

Sáu là: chế độ cổ phần còn giúp ích cho việc mở cửa thị trường, thu hút vốn
nước ngoài. Có những công trình lớn như đường sắt lớn, đường xe hơi cao tốc,
xây dựng thủy lợi, đều có thể áp dụng hình thức Công ty cổ phần để thu hút vốn
và các trang thiết bị kỹ thuật.
Tóm lại, chế độ cổ phần thích ứng với đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá,
giúp vào việc hình thành kết cấu mạng của doanh nghiệp, cấu trúc lực lượng sản
xuất theo chiều dọc và theo chiều ngang. Các doanh nghiệp cổ phần ở các nước
đều phát triển rất mạnh và đan xen lẫn nhau, suy cho cùng do đặc điểm của nền
sản xuất xã hội hoá quyết định. Muốn có hình thức thực hiện chế độ sở hữu tốt thì
cũng phải áp dụng hình thức phổ biến theo đòi hỏi của quy luật của nền sản xuất
xã hội hoá hiện đại.
1.2. Giới thiệu về Công ty cổ phần
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của loại hình Công ty cổ phần
Công ty cổ phần được hình thành từ thế kỷ XVIII và phát triển mạnh mẽ ở
thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đầu thế kỷ XX Công ty cổ phần trở thành hình
thức tổ chức kinh doanh phổ biến ở hầu hết các nước có thị trường phát triển.
Sự ra đời và phát triển của Công ty cổ phần là kết quả tất yếu do sự đòi hỏi
tập trung nâng cao sức sản xuất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của Công ty cổ phần có thể chia làm bốn giai
đoạn:

Giai đoạn 1: Giai đoạn mầm mống
Ngay từ thời tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã có hình thù đầu tiên của
hình thức kinh doanh gọi là “Công ty” đã ra đời. Công ty là thực thể kinh tế không
phải chỉ có một người bỏ vốn kinh doanh, mà có từ hai người trở lên bỏ vốn kinh
doanh nhằm mục đích sinh lời, từ doanh nghiệp nhóm bạn phát triển thành doanh
nghiệp góp vốn. Những năm 70 của thế kỷ XVII, vua nước Pháp đã ban hành sắc


10

lệnh của Công ty. Năm 1773, tại Luân Đôn, tình hình đầu tiên của Sở giao dịch
chứng khoán đã ra đời và năm 1801 thì chính thức được thành lập. Thị trường giao
dịch chứng khoán Mỹ ra đời năm 1790. Đó là thị trường chứng khoán có liên quan
đến doanh nghiệp cổ phần, gồm cả cổ phần tư nhân và cổ phần Nhà nước do Nhà
nước đứng ra thành lập. Như vậy, hình thù ban đầu của Công ty cổ phần có hai
loại: một là doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn, hai là do Nhà
nước thành lập bằng cách phát hành trái khoán, hoặc doanh nghiệp tư nhân góp
vốn. Và trên cơ sở phát triển của chế độ tín dụng, thị trường chứng khoán loại nhỏ
cũng bắt đầu hình thành.
Giai đoạn hai: Giai đoạn hình thành.
Trước và sau cuộc cách mạng công nghiệp, chủ yếu là nửa đầu thế kỷ XIX,
các Công ty cổ phần chính ra đời với hình thức tổ chức và hình thức phân phối
riêng của chúng. Thí dụ: năm 1806 phát triển thương mại của Pháp đã có những
quy định cơ bản về Công ty cổ phần. Thực ra bấy giờ Anh là nước có nhiều Công
ty cổ phần nhất. Qua các Công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được rất dễ
dàng. Bấy giờ công việc xây dựng đường sắt, các công trình lớn tại đa số các nước
đều huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu đường sắt bấy giờ
có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có trường hợp vượt ra ngoài
biên giới quốc gia, phát hành hoặc bán ra nước ngoài, thu lợi nhuận theo hình thức
lợi tức định kỳ. Một số doanh nghiệp lớn của tư bản tư nhân cũng bắt đầu phát

hành cổ phiếu, đồng thời tách dần người đại biểu quyền sở hữu và người kinh
doanh ra làm hai. Đặc biệt là ở những Công ty xuất nhập khẩu hàng hoá, như
Công ty Đông ấn là doanh nghiệp cổ phần bóc lột thuộc địa. Đồng thời, với sự
phát triển của các Công ty cổ phần, các sở giao dịch chứng khoán cũng mọc lên
một cách phổ biến tại các nước phương Tây.
Giai đoạn ba: Giai đoạn phát triển


11

Sau những năm 70 của thế kỷ XIX, Công ty cổ phần phát triển rất nhanh,
mọc lên một cách phổ biến ở tất cả các nước, các ngành, quy mô mở rộng mạnh
mẽ, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ nhanh chưa từng thầy, các tổ chức độc
quyền ra đời. Trong giai đoạn này hầu như tất cả các doanh nghiệp lớn đều áp
dụng hình thức cổ phần, hơn nữa các doanh nghiệp lại xâm nhập vào nhau, hình
thành “chế độ tham dự” với “chế độ tập trung”. Các Công ty nắm giữ cổ phần
khống chế ra đời, tạo thành kết cấu sâu chuổi. Công ty mẹ, Công ty con, Công ty
cháu, hình thành một loạt tập đoàn doanh nghiệp, vượt ra ngoài biên giới quốc gia.
Lúc này tư bản tài chính đã trở thành hình thái chủ thể tài sản xã hội, ngân hàng
kiểm soát công nghiệp, thương nghiệp, đầu sỏ tài chính ra đời. Tương ứng với nó,
thị trường giao dịch cổ phiếu mọc lên ở tất cả các nước, hình thành các trung tâm
tài chính quốc tế, giao dịch chứng khoán hết sức sôi động, nó đã trở thành công cụ
phản ánh các dao động về kinh tế và chính trị, đồng thời còn là sân chơi của các
nhà đầu cơ. Thị trường chứng khoán trong giai đoạn này có tác dụng rất lớn trong
việc khơi thông các nguồn vốn trên phạm vi toàn thế giới.
Giai đoạn bốn: Giai đoạn trưởng thành.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai doanh nghiệp cổ phần có những đặc điểm
mới.
- Dùng hình thức cổ phẩn để lập nên các Công ty xuyên quốc gia và Công
ty đa quốc gia, để liên hợp kinh tế và quốc tế hoá kinh tế cổ phần, hình thành các

tập đoàn doanh nghiệp quốc tế.
- Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần, vừa để làm dịu mâu thuẫn giữa
lao động và tư bản, vừa để thu hút vốn một cách rộng rãi.
- Cơ cấu tổ chức Công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp
luật ngày càng được kiện toàn, và mỗi nước đều có đặc điểm riêng. Lịch sử phát
triển của chế độ cổ phần nói trên cho thấy, sự phát triển của Công ty cổ phần gắn


12

chặt với sự phát triển của nền sản xuất xã hội hoá và trình độ phát triển của nền
kinh tế thị trường được thể hiện ở chỗ:
Một là: mô hình doanh nghiệp cổ phần chẳng những giúp cho quy mô sản
xuất kinh doanh được mở rộng mà còn vượt ra ngoài giới hạn của doanh nghiệp,
hình thành các Công ty cổ phần xâm nhập vào nhau, có quan hệ dọc.
Hai là: mô hình doanh nghiệp cổ phần có quan hệ trực tiếp với sự phát triển
của chế độ tín dụng. Sự phát triển đầy đủ của chế độ tín dụng có nghĩa là tiền vốn
đã trở thành máu của nền kinh tế xã hội. Sự khơi thông nguồn vốn phản ánh sự xã
hội hoá, hàng hoá các yếu sản xuất, là tiêu chí của nền kinh tế hàng hoá phát triển.
Ba là: chế độ cổ phần trở nên phổ biến tới mức hàng loạt người lao động
mua cổ phiếu, chứng tỏ hình thức này có cơ chế nội tại của nó, có thể giúp cho
các chế độ sở hữu xâm nhập vào nhau, giúp người ta chuyển hoá quỹ tiêu dùng
thành quỹ sản xuất trong phạm vi toàn xã hội, và gắn chặt với sự vận hành của nền
kinh tế thị trường.
1.2.2. Đặc điểm của Công ty cổ phần trong sự phát triển của nền kinh tế
thị trường.
Có thể thấy rằng mô hình kinh doanh của Công ty cổ phần đã mang những
đặc điểm mới, cho phép thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường mà
những hình thái khác không thể đáp ứng được. Chúng ta có thể nêu ra một số đặc
điểm sau đây:

- Xét về mặt pháp lý: Công ty cổ phần là một hình thức kinh doanh có tư
cách pháp nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức Công
ty cổ phần. Khác với doanh nghiệp chung vốn, các cổ đông – người cấp vốn cho
Công ty – chỉ có các cam kết tài chính của Công ty trong giới hạn số tiền mà họ
đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu, nghĩa là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi số tiền họ đã bỏ ra. Trong trường hợp


13

Công ty bị phá sản thì họ cũng chỉ mất số tiền họ đã đầu tư vào Công ty mà thôi,
không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ hoặc chung
vốn. Nhờ đặc điểm này, nó đã khắc phục được trở ngại quan trọng mà các hình
thức doanh nghiệp khác không mấy khi dám mạo hiểu để thực hiện các dự án kinh
doanh lớn. Bằng các bán các cổ phiếu, trái phiếu cho những người có vốn muốn
đầu tư để gia tăng thu nhập, nó đã làm cho những người này không phải e ngại
những hâu quả tài chính có thể xảy ra đối với toàn bộ gia sản của họ.
Như vậy, nhờ đặc điểm hình thái Công ty cổ phần – mọi cổ đông bây giờ
chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và Công ty là một hình thức pháp lý đầy đủ,
thuận lợi để kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận - đã cho phép khắc phục được phần
lớn các trở ngại đặt ra của hình thái kinh doanh chung vốn. Nó bổ sung cho doanh
nghiệp một hình thái pháp lý gần như hoàn hảo để huy động những lượng vốn lớn
trong xã hội. Mệnh giá cổ phiếu của Công ty thường định giá rất thấp để có khả
năng khai thác được ngay cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công chúng.
Một nhà kinh tế học đã đánh giá như sau:
“ Sản xuất lớn của hiệu quả về mặt kỹ thuật và một Công ty lớn là một cách
có lợi để nhà đầu tư chia sẻ các rủi ro không thể khắc phục được đời sống kinh
doanh. Không có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và Công ty, thì điều đơn giản là
một nền kinh tế thị trường không thể nào thu hái lợi ích có được khi những lượng
tư bản lớn cần được thu hút vào Công ty với quy mô có hiệu quả, sản xuất ra

nhiều loại sản phẩm bổ sung cho nhau, chia sẻ những rủi ro và sử dụng tốt nhất
tiềm năng của những đơn vị nghiên cứu lớn về kinh tế và quản lý.
- Xét về mặt huy động vốn: Công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành
công. Bởi vì số tiền chỉ dành dụm của nhiều gia đình nếu để riêng thì sẽ không đủ
để thành lập một doanh nghiệp nhỏ, và do đó không thể đem ra kinh doanh được,
thì rõ ràng sự có mặt của Công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ đầu tư một cách


14

có lợi ích và an toàn, những khoán vốn nhỏ nhưng gộp lại thì rất lớn. Các khoản
tiền nhỏ trên có thể gửi ngân hàng hay mua trái phiếu… song hình thức cổ phần có
sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác không thể thay thế được vì:
Thứ nhất: Việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi
tức cổ phần (bằng hoặc cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng) mà còn hứa hẹn mang
đến cho cổ đông một khoản thu nhập “ngầm” nhờ việc gia tăng giá trị của cổ
phiếu khi Công ty làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai: Các cổ đông có quyền được tham gia quản lý theo điều lệ của
Công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông
trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn.
Thứ ba: Cổ đông có quyền được ưu đãi trong việc mua cổ phiếu mới được
phát hành của Công ty trước khi đem ra bán rộng rãi cho công chúng.
- Hình thái Công ty cổ phần đã thực hiện được việc tác quan hệ sở hữu ra
khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng, tạo
nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của đông đảo công chúng một bên và một bên
kia là tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng vốn cho các
cuộc kinh doanh quy mô lớn. Khi các Công ty cổ phần ra đời, C.Mac đã chỉ ra
rằng “ Quyền sở hữu của tư bản bây giờ đã hoàn toàn tách khỏi chức năng của tư
bản trong quá trình tái sản xuất thực tế, cũng hệt chứng năng đó thông qua người
quản lý, tách khỏi quyền sở hữu tư bản”.

Những người đóng vai trò sở hữu trong Công ty cổ phần không trực tiếp
đứng ra kinh doanh mà uỷ thác chứng năng đó cho bộ máy quản lý của Công ty.
Bản thân Công ty được pháp luật thừa nhận như một pháp nhân độc lập tách rời
với các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó, Công ty cổ phần tiến hành các
hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính mình và nhận trách nhiệm đến
cùng với các cam kết tài chính của Công ty.


15

Trong cơ cấu tổ chức của một Công ty cổ phần, phản ánh rất rõ đặc điểm về
sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh. Luật Công ty của
nhiều nước đã nêu ra hai tổ chức chính trị đại diện cho quyền sở hữu của các cổ
đông trong Công ty: đại hội cổ đông và hội đồng quản trị. Quyền sở hữu tối cao
Công ty thuộc Đại hội cổ đông. Đại hội cổ đông thường được tổ chức mỗi năm
một lần để lựa chọn và bãi miện Hội đồng quản trị, quyết định sửa đổi điều lệ
Công ty, phân chia lợi nhuận cổ phần, phát hành thêm cổ phiếu hoặc sát nhập vào
các Công ty khác… Hội đồng quản trị được bầu ra có trách nhiệm bảo toàn và
phát triển giá trị các khoản vốn đầu tư của cổ đông. Chức năng chủ yếu của nó là
đưa những chỉ dẫn mang tính chiến lược, bao gồm những quyết định tài chính và
quyết định đầu tư lớn. Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc về ban Giám
đốc điều hành. Bên cạnh đó, Đại hội cổ đông cũng bầu ra ban kiểm soát thực hiện
việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của Công ty để bảo vệ lợi ích cho những
người góp vốn.
Sự mô tả giản lược hệ thống tổ chức trong công ty cổ phần: Đại hội cổ đông
– Hội đồng quản trị – Ban giám đốc điều hành – Ban kiểm soát, phản ánh sự tách
biệt hợp lý giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh, do đó, nó đáp ứng
được một cách khá lý tưởng những yêu cầu kinh doanh quy mô lớn. Nhờ đặc
điểm này mà trong nền kinh tế thị trường hiên đại, các công ty cổ phần phát triển
đến quy mô lớn không ngừng, hình thành các công ty có tính quốc gia và xuyên

quốc gia. Quyền sở hữu của nó thuộc về hàng vạn, hàng triệu các cổ đông nhỏ
không một ai trong nhóm nào trong nhóm nắm được cổ phần tối đa. Có thể nói
ngày nay, sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần ngày càng ít dựa vào mối
quan hệ sở hữu của các cổ đông mà tuỳ thuộc ngày càng nhiều vào nhân tố chủ
yếu ở hiệu năng quản trị và điều hành quản trị. Sự thay đổi này đã cho phép các
nhà kinh tế có thể luận rằng “ Các doanh nghiệp ngày nay do thị trường chứ không


16

phải do các cổ đông kiểm soát” và cho rằng một cuộc cách mạng về quản lý công
ty đã ra đời thay thế, người chỉ huy thời xưa của nền công nghiệp, với tất cả tài
năng sáng tạo và khả năng tính toán những rủi ro cần thiết để xây dựng một xí
nghiệp lớn, thường có đôi chút của kẻ phưu lưu và thái độ bất chấp công chúng
bằng đội ngũ những người quản lý chuyên nghiệp có tầm quan trọng ngày càng
tăng.
- Các cổ phiếu và trái phiếu thông thường của công ty cổ phần có thể được
chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán. Các cổ đông có thể rút lại
vốn của mình để đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh mới, bằng cách bán các cổ
phiếu, trái phiếu ở các Công ty mà mình muốn. Mặt khác, các cổ phiếu của một
công ty cổ phần chỉ được thanh lý khi công ty phá sản, vì thế bất kể có bao nhiêu
cổ đông bán cổ phiếu hoặc chết đi và bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu
lần do bán hoặc do thừa kế, cuộc sống của doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách
bình thường mà không bị ảnh hưởng. Có thể nói: Công ty cổ phần và thị trường
chứng khoán vừa duy trì được sự ổn định của doanh nghiệp đồng thời tạo nên sự
di chuyển linh hoạt của các luồng vốn xã hội. Như vậy, đặc điểm này của Công ty
cổ phần tồn tại không thể tách rời với sự duy trì và phát triể của thị trường chứng
khoán.
- Nhờ sự phát triển và hoàn thiện của thị trường chứng khoán, khả năng huy
động vốn đầu tư được mở ra hết sức rộng rãi, nó cung cấp cho những cơ hội đầu tư

đa dạng, đơn giản, dễ dàng, thuận tiện cho đông đảo công chúng. Mặt khác, nó
không chỉ là nơi cung cấp vốn mà còn là nơi xếp đặt và phân phối lại các cơ hội
đầu tư theo các cơ hội đầu tư đa dạng của Công ty và công chúng. ở đây, vai trò
của các chủ ngân hàng và những người buôn bán cổ phiếu hết sức quan trọng. Họ
góp phần chuyển đổi các khoản đầu tư thông qua mua bán cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu… trên thị trường cho mọi người và khuyến khích các công ty mới ra đời


×