Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Toàn cầu hoá kinh tế những cơ hội, thách thức đối với việt nam hiện nay quan điểm, phương hướng và giải pháp của đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.17 KB, 25 trang )

A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan. Trong hơn một thập kỷ
trở lại đây xu thế hoàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ
gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ, kết thúc thời kỳ
chiến tranh lạnh giữa các nước trên thế giới, đặc biệt là giữa Mỹ và Nga,
chuyển sang một thời kỳ mới – hoà bình, hợp tác, phát triển đôi bên cùng có
lợi, sự phát triển toàn cầu hoá kinh tế đặt ra cho các nước một yêu cầu khách
quan phải có chiến lược hội nhập phù hợp với nền kinh tế thế giới và khu vực.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần phải mở cửa hội nhập với
các nước trên thế giới về nhiều mặt, kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học công
nghệ. Xong quá trình hội nhập, một mặt sẽ đón nhận những cơ hội để phát
triển, nhưng mặt khác cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, mà xu thế toàn
cầu hoá đặt ra.
Việt Nam không nằm ngoài sự phát triển của thế giới, vì là một nước với
điểm xuất phát thấp, sản xuất nền nông nghiệp là chủ yếu, chính vì vậy để có
thể hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế thế giới, thì quá trình toàn cầu hoá
là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Do vậy nghiên cứu, tìm hiểu sâu về
toàn cầu hoá là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý
nghĩa thực tiễn rất quan trọng.
Với tính chất quan trọng đó, nên em chọn đề tài “Toàn cầu hoá kinh tếnhững cơ hội, thách thức đối với Việt Nam hiện nay. Quan điểm, phương
hướng và giải pháp của đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế”. Làm tên đề
tài tiểu luận của mình
2. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về toàn cầu hoá, từ khi bắt đầu manh nha đến khi thực hiện quá trình toàn cầu
hoá kinh tế.
1


3. Phạm vi nghiên cứu


Đề tài bắt đầu từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
quá trình toàn cầu hoá, đến qua trình phát triển và thực tiễn của Việt Nam ta
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thông qua các quan điểm củă chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các tài liệu liên quan
5. Kết cấu đề tài
Gồm 4 phần: Chương I, chương II, chương III, kết luận

2


Chương I

Những vấn đề chung về toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về toàn cầu hoá
Trong hai thập kỷ qua, khái niệm “ toàn cầu hoá” được đề cập một cách
rộng rãi. Ngày nay, toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá
kinh tế đang trở thành một đặc trưng chủ yếu của sự phát triển thế giới.
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ, chính xác và thống nhất về
toàn cầu hoá kinh tế. Tuy có những quan niệm không giống nhau về toàn cầu
hoá kinh tế, nhưng vẫn có thể thấy nét chung nhất trong các quan niệm này:
Thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh tế hiện nay đã bao
trùm gần như tất các nước, mang tính toàn cầu. Các dòng hàng hoá, dịch vụ,
vốn và nhân lực đang dịch chuyển từ nước này đến nước khác ngày càng
mạnh, càng tự do hơn; tính chất của sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
ở tầm quốc tế và trong hợp tác quốc tế cũng đạt cấp độ mới. Từ đó có thể hiểu
toàn cầu hoá kinh tế là qúa trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới
vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng
sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và sự phân

công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất
ngày càng tăng.
Hiện nay, ngày càng có nhiều nước tham gia vào quá trình toàn cầu hoá
và quá trình này cũng đang bị các nước lớn lợi dụng, chi phối để biến nó
thành quá trình bành trướng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra toàn thế
giới.
Theo cách nhìn Mác xít, toàn cầu hoá là một xu thế lịch sử tất yếu bắt
nguồn từ tính chất xã hội của lao động sản xuất và là kết quả của sự phát triển
và quốc tế hoá lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo sự nhìn nhận của
3


chủ nghĩa Mác- Lê nin: xã hội loài người được hình thành và phát triển thông
qua quá trình lao động sản xuất để tạo ra của cải và đấu tranh giữa con người
với nhau để bảo vệ sự sinh tồn. Quá trình lao động sản xuất và đấu tranh đó
buộc từng con người phải tập hợp nhau lại thành những cộng đồng và liên kết
nhiều cộng đồng các dân tộc và tổ chức thành các quốc gia, rồi các quốc gia
tập hợp nhau lại thành những nhóm quốc gia và cộng đồng thế giới. Đó là một
quá trình phát triển xã hội một cách tự nhiên và không thể khác được. Bản
thân lao động sản xuất và đấu tranh sinh tồn là một hoạt động xã hội và tính
hoạt động của xã hội này ngày càng cao hơn, thể hiện ở chổ ngày càng có
nhiều công việc và sản phẩm được thực hiện không chỉ bởi cá nhân mà còn do
sự đóng góp của rất nhiều thành viên, có khi nhiều quốc gia khác nhau. Xã
hội càng phát triển thì sự phân công lao động xã hội trên phạm vi quốc gia
cũng như phạm vi quốc tế càng sâu rộng hơn và tinh vi hơn. Mức độ quốc tế
hoá ngày càng cao của quá trình lao động sản xuất này cũng đồng nghĩa với
sự tăng của xu thế toàn cầu hoá.
Như vậy toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu, là xu thế khách quan của
sự phát triển kinh tế thế giới. Nội dung biểu hiện của quá trình này bao gồm:
- Sự gia tăng của luồng giao lưu quốc tế về thương mại đầu tư vốn, tài

chính công nghệ dịch vụ nhân công...
- Hình thành và phát triển các thị trường có tính thống nhất toàn cầu và
các khu vực. Đồng thời với việc hình thành các chế định (luật chơi) và cơ chế
điều hành các hoạt động giao dịch kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá mở ra nhiều cơ hội, thách thức cho mọi nền kinh tế quốc
gia, dân tộc. Nó là bước phát triển mới và cao của quốc tế hoá kinh tế. Nó đã
hình thành và phát triển qua một chặng đường lịch sử khá dài, bắt nguồn từ sự
phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hoá sản xuất trên phạm
vi quốc tế.
Trong xã hội cổ xưa, các quốc gia, dân tộc tồn tại tương đối biệt lập ít có
quan hệ với nhau nhưng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tăng
4


tiến của sản xuất và trao đổi hàng hoá, sự mở rộng thị trường... thì các mối
quan hệ cũng dần dần mở rộng khỏi ranh giới quốc gia, hình thành các mối
quan hệ quốc tế và quá trình quốc tế hoá được bắt đầu.
Giai đoạn trước chủ nghĩa tư bản ra đời đã có mầm mống của xu hướng
toàn cầu hoá kinh tế, đó là sự giao lưu buôn bán giữa các nước Phong kiến với
nhau. Song chỉ sau khi có những phát kiến lớn về mặt địa lý ở thế kỷ XI-XVI
cùng với sự tiến bộ kỹ thuật hàng hải đã giúp các nước trên các châu lục
thông thương mở rộng giao lưu kinh tế thương mại thì xu hướng toàn cầu hoá
kinh tế mới thực sự biểu hiện rõ ràng.
Mác và ăngghen trong tác phẩm của mình sử dụng thuật ngữ toàn cầu
hoá kinh tế, nhưng các ông đã phân tích một cách sâu sắc về quá trình quốc tế
hoá sản xuất TBCN và xu hướng phát triển của nó:
Nền đại công nghiệp đã xây dựng nên thị trường thế giới vốn được
chuẩn bị từ khi phát hiện ra châu Mỹ. Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về
những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư bản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải
xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối quan hệ ở

khắp nơi.
Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và
tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới... Nó làm cho công
nghiệp mất cơ sở dân tộc. Những ngành công nghiệp dân tộc bị thay thế bởi
những ngành công nghiệp mới. Tức là những ngành công nghiệp mới mà việc
du nhập chúng đã trở thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn
minh, những ngành công nghiệp không dùng những nguyên liệu bản xứ mà
dùng những nguyên liệu đưa từ những vùng xa xôi nhất trên thế giới và sản
phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được tiêu thụ
ở tất cả các nơi trên thế giới thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa
phương và dân tộc vốn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ
biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc...

5


Nhận định về quá trình này Mác và ăngghen đã viết: “Đại công nghiệp
đã tạo ra thị trường thế giới “thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa
phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ
biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc” và “nhờ cải tiến mau chóng
công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông vô cùng tiện lợi, giai
cấp tư sản lôi cuốn cả đến những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh.
Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả
những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một
cách ngoan cường nhất cũng hàng phục”. “Nó buộc tất cả các dân tộc phải
thực hành phương thức sản xuất tư sản nếu không sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất
cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư
sản. Nói tóm lại nó tạo ra cho nó một thế giới theo hình dạng của nó”.
Phân tích trên của Mác và ăngghen cho thấy sự phát triển và quốc tế hoá
sản xuất dưới CNTB đã làm cho các nước gắn kết lại với nhau và tạo ra xu thế

toàn cầu hoá. Đồng thời sự phân tích trên cũng chỉ rõ:
Thứ nhất: quá trình quốc tế hoá kinh tế đã có từ rất sớm, những phát kiến
về địa lý, giao thông vận tải đã mở ra cơ hội cho quá trình quốc tế hoá kinh tế.
Lịch sử quốc tế hoá kinh tế bắt đầu từ sau khi tìm ra châu Mỹ (cách đây gần
500 năm) nhưng tiến trình này chỉ thực sự tăng tốc sau khi cách mạng công
nghiệp ở Anh và các nước TBCN thành công.
Thứ hai: quá trình quốc tế kinh tế mang tính tất yếu khách quan do đòi
hỏi của bản thân nền sản xuất đặc biệt là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phát triển của sức sản xuất vừa đòi hỏi vừa tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế mang tính quốc tế.
Thứ ba: quá trình quốc tế hoá dù mang yếu tố khách quan nhưng nó vẫn
có áp lực chủ quan từ những kẻ nắm các lực lượng kinh tế hùng hậu nhất.
Toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng có tính tất yếu và tính tất yếu đó lại có
nguyên do từ quá trình quốc tế hoá, có sự bắt đầu bằng quốc tế hoá kinh tế.
Tính tất yếu khách quan của toàn cầu hoá kinh tế được quy định bằng quá
6


trình quốc tế hoá kinh tế và sự bùng nổ của cuộc cách mạng Khoa học-công
nghệ đã làm hội tụ các nhân tố cơ bản thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá diễn ra
với tốc độ nhanh. Những nhân tố đó là:
Mạng lưới thông tin toàn cầu: mạng lưới này được nối liền với nhau
bằng hệ thống các đường thông tin siêu cao tốc. Mạng lưới thông tin toàn cầu
bao gồm mạng điện thoại, fax, Internet đã tạo khả năng tiếp cận toàn cầu, kết
nối toàn cầu thu hẹp khoảng cách về không gian thời gian giữa các quốc gia
dân tộc.
Mạng lưới hệ thống siêu thị toàn cầu: Các mạng lưới này không chỉ là
công cụ để các công ty quốc gia bán sản phẩm của họ trên toàn cầu mà nó còn
làm cho các xí nghiệp dù ở quy mô nào cũng có thể đưa ra mục tiêu chiến
lược bán hàng hoá ở khắp mọi nơi trên thế giới. Việc giao lưu hàng hoá vì thế

mà nhanh chóng nhộn nhịp thuận lợi trên phạm vi toàn cầu.
Hệ thống mạng lưới tài chính toàn cầu: việc mở cửa tự do hoá thị trường
tài chính tiền tệ cùng với việc ứng dụng kỹ thuật hiện đại trong nghiệp vụ tiền
tệ đã đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển các nguồn vốn dưới nhiều hình thức, ở quy
mô lớn trên phạm vi toàn cầu.
Sự phát triển mạnh mẽ chưa từng có của các công ty xuyên quốc gia:
theo số liệu của WTO, hiện nay trên thế giới có 60.000 công ty mẹ và trên
500.000 các công ty con. Tổng giá trị tài sản của các công ty xuyên quốc gia
là 30.515 tỷ USD, sử dụng 34,5 triệu lao động. Các công ty này thực hiện
phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước
làm phân xưởng của mình, thông qua phân công hợp tác quốc tế để lợi dụng
ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước. Với
phương châm hoạt động đó, để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế ,
các công ty xuyên quốc gia đã trở thành lực lượng xung kích một cách tự phát
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Như vậy, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ xã hội hoá
sản xuất, toàn cầu hoá có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy quá trình sản xuất
7


của toàn nhân loại, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, mở rộng quan hệ
hợp tác giữa các nước trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.
1.2. Quá trình “toàn cầu hoá” ở Việt Nam
Đối với nước ta, gần một thập kỷ trước đây, vào năm 1991, khi vạch ra
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển
kinh tế- xã hội tới năm 2000. Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ, đổi mới của
Việt Nam hoà trong xu thế chung của sự phát triển thế giới. Việt Nam đổi mới
và thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình và hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Việt Nam theo đuổi chính sách nhất quán của mình: sẵn sàng hợp tác song
phương và đa phương với tất cả các nước. Những quan điểm, tư tưởng đó đã

cho thấy thái độ chủ động và tích cực trong việc nhìn nhận xu thế toàn cầu
hoá.
Bản thân việc tiến hành đổi mới, coi đó là một quyết sách chiến lược, là
một cuộc cải tiến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để đã bao hàm nhận
thức và thái độ của chúng ta: ra sức tận dụng cơ hội, thời cơ lớn để phát triển,
sẵn sàng chấp nhận mọi thách thức nghiệt ngã trong phát triển.
Cũng thông qua đổi mới, Việt Nam đã cải thiện một cách căn bản diện
mạo và mối quan hệ giữa mình với cộng đồng quốc tế. Tiến trình đổi mới là
tiến trình từng bước đưa Việt Nam hội nhập kinh tế một cách thành công và
cũng thu hút mối quan tâm đầu tư, hợp tác của quốc tế vào Việt Nam.
Đó là những thực tiễn và kinh nghiệm quý báu để trong bước chuyển vào
thế kỷ XXI, chúng ta chủ động hội nhập quốc tế phù hợp với xu thế toàn cầu
hoá. Chủ động hội nhập quốc tế trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và toàn
cầu hoá cũng có nghĩa là chủ động chuẩn bị những điều kiện để tham gia vào
quá trình hợp tác phân công lao động quốc tế và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế. Đó còn là chủ động chấp nhận những luật chơi mà cộng đồng quốc tế
đặt ra trong hợp tác kinh tế, giao lưu văn hoá, chủ động xác lập và phát triển
các mối quan hệ, thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam trước cộng đồng thế giới,
chủ động phát triển các nguồn nội lực và tìm kiếm các ngoại lực hỗ trợ cho
8


phát triển của Việt Nam. Thái độ tích cực, chủ động hội nhập còn đòi hỏi đi
liền với nó là những năng lực tương ứng, giữ vững được định hướng xã hội
chủ nghĩa, giữ vững bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc, đấu tranh có
hiệu quả cho một quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế lành mạnh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã vạch rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là
một xu thế khách quan, luôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này
đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia
chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu

cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”. Vấn đề là chúng ta phải có bước
chuẩn bị kỹ cho bước hội nhập. Xác định toàn cầu hoá kinh tế hiện nay mang
tính chất tư bản chủ nghĩa, tuy nhiên đối với nước ta định hướng lên chủ
nghĩa xã hội, nhưng bước hội nhập là rất cần thiết. Bởi vì:
Khi toàn cầu kinh tế còn chịu sự chi phối của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, từ nó đặt các nước kém phát triển về kinh tế trước nhiều thách thức
hơn là thời cơ. Nhưng toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất, nên ngay cả những người bài ngoại ngoan
cường nhất cũng không thể né tránh. Vấn đề không còn là nên hay không, nên
hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, mà phải chủ động tìm cách ứng
xử tốt nhất để giành được cái lợi, tránh bớt tác hại, giảm thiểu rủi ro. Một nhà
nghiên cứu của Việt Nam đã nhận định rất đúng rằng: việc hội nhập của nước
ta vào toàn cầu hoá kinh tế phải đối phó với rất nhiều thử thách gay gắt,
nhưng tất cả những thử thách đó vẫn nhỏ hơn thử thách do không chủ động
hội nhập. Vì vậy, không thể né tránh mà phải chủ động hội nhập. Hơn nữa,
không nên mắc lại sai lầm đối lập một cách giản đơn chủ nghĩa xã hội với chủ
nghĩa tư sản, mà phải biết kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải “Lợi dụng những yếu tố về tài năng tổ chức,
về vốn hiểu biết kỹ thuật mà xã hội trước đã tích luỹ được; những yếu tố mà
chín phần mười và có thể là chín mươi phần một trăm lại thuộc về giai cấp đối
lập một cách thù địch với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa” (VI. Lênin),
9


“Phải học tập chủ nghĩa xã hội phần lớn ở những người lãnh đạo các Tơ- rớt,
phải học tập chủ nghĩa xã hội ở những nhà tổ chức lớn nhất của chủ nghĩa tư
bản. Điều đó không phải là ngược đời,...” (VI. Lênin).
Dĩ nhiên, khi các cường quốc tư bản chủ nghĩa và các công ty xuyên
quốc gia tư bản chủ nghĩa còn theo chúng, chi phối quá trình toàn cầu hoá, thì
các nguyên tắc quốc tế tất nhiên bị chi phối bởi pháp quyền tư sản. Nhờ đó

buộc chúng ta phải thích nghi với các tập quán và quy tắc quốc tế ấy, thậm chí
có khi phải “chịu những hy sinh” nào đó về lợi ích vật chất để “trả học phí”,
nhưng phải kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là vấn đề khó khăn, nhưng không phải là nghịch lý. Trong thời kỳ
thi hành chính sách kinh tế mới ở nước Nga, khi bàn về ký hợp đồng tô
nhượng với các công ty tư bản, VI. Lênin đã viết: “chúng ta đảm bảo rằng
trong bất cứ điều kiện nào, về bất cứ phương diện nào thi khi ký các hợp đồng
ấy trong tất cả các điều khoản, chúng ta sẽ không vượt qua những cái gì đã có
trong luật pháp tư bản chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc cơ bản mà chúng ta không
được quên trong giây phút nào. Chúng ta phải căn cứ vào những quan hệ tư
bản chủ nghĩa mà chứng minh rằng những điều kiện ấy là có thể tiếp nhận đối
với bọn tư bản, là có lợi cho họ, đồng thời chúng ta cũng phải biết rút ra từ đó
cái lợi cho ta. Nếu không thì bàn đến vấn đề tô nhượng đều là bàn suông”.
Như vậy, việc hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế cũng là một
cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế, phải vừa hợp tác vừa đấu tranh để đảm
bảo nguyên tắc cùng có lợi. Khi nhận định về tô nhượng, VI.Lênin “Tô
nhượng không phải là hoà bình với chủ nghĩa tư bản mà là chiến tranh trên
lĩnh vực khác. Cuộc chiến tranh kinh tế thay thế cho cuộc chiến tranh bằng vũ
khí và xe tăng. Thật vậy, cuộc chiến tranh này cũng có khó khăn và cũng có
nguy cơ mới. Nhưng tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ khắc phục được”.
Tóm lại, nhận rõ tính chất của toàn cầu hoá kinh tế hiện nay không phải
để chống nó, mà phải có đối sách thích hợp, tránh mơ hồ, mất cảnh giác. Phải
kiên trì vừa hợp tác vừa chiến tranh, đấu tranh một cách khôn khéo trên cơ sở
10


giữ vững nguyên tắc, nhưng hết sức mềm dẻo, linh hoạt, đễ bảo đảm hợp tác
cùng có lợi.

Chương II


Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Sự nghiệp đổi mới đất nước trong 17 năm qua tạo thế và lực cho nước ta
quá trình hội nhập, bảo đảm điều kiện để nước ta đẩy mạnh cộng nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Song, trên thực tế chúng ta phải thấy rằng, nền kinh tế nước ta
còn lạc hậu, sức cạnh tranh còn rất thấp, lực lượng lao động tuy dồi dào, song
trình độ kỹ thuật và kỹ năng còn thấp; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập,
hệ thống tài chính ngân hàng yếu kém, nên khả năng đương đầu với xu hướng
tự do hoá tài chính toàn cầu rất khó khăn; chưa đuổi kịp sự phát triển nhanh
chóng của hệ thống thông tin- viễn thông toàn cầu.
Quá trình toàn cầu hoá, phát triển sự hợp tác đa phương và song phương
với các nước tạo điều kiện rất thuận lợi cho nước ta mở rộng thị trường xuất
khẩu hàng hoá sang nước khác. Tuy nhiên, vấn đề này còn tuỳ thuộc vào sức
cạnh tranh và những yếu tố khác, như chất lượng hàng hoá, tiếp thị, giá cả của
chúng ta.
Quá trình toàn cầu hoá thúc đẩy hợp tác đa phương và song phương, tạo
điều kiện cho nước ta tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, nhập khẩu kỹ thuật cao;
11


tranh thủ kinh nghiệm quản lý của thế giới để nhanh chóng đi tắt đón đầu, xây
dựng nền kinh tế mới phù hợp với sự phát triển chung trên nền tảng thực tiễn
nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, phải thấy rằng những khó khăn, thách thức
đang đặt ra trước chúng ta rất to lớn. Bởi vậy, phải trên cơ sở kinh nghiệm của
chúng ta trong 17 năm đổi mới và kinh nghiệm của các nước đang phát triển
mà xây dựng cho được chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của
nước ta. Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là chiến lược chủ
động hội nhập nhằm tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, khai thác tốt nhất
nội lực của ta để phát triển đất nước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,

chủ động hội nhập của nước ta xuất phát từ việc thừa nhận lợi ích to lớn của
hội nhập; đồng thời ý thức rằng, sự hội nhập đó cũng đưa lại những thách
thức to lớn, những nguy cơ không thể xem thường.
2.1. Những tác động tích cực của toàn cầu hoá và cơ hội của nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhìn lại một cách khái quát quá trình toàn cầu hoá mở ra cho tất cả các
nước nói chung và Việt Nam nói riêng có khả năng phát huy có hiệu quả
nguồn lực trong nước và sử dụng các nguồn lực quốc tế có lợi. Với nước ta
bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có rất nhiều lợi thế đó là
những cơ hội lớn mà chúng ta cần phải tận dụng có hiệu quả: về vị trí địa lý,
đất nước chúng ta nằm trong khu vực sôi động về kinh tế, giao thông quốc tế
thuận lợi giữa các nước trong khu vực Đông Nam á, châu á và thế giới; về
nguồn nhân lực, đất nước chúng ta có lực lượng lao động trẻ dồi dào, có kinh
nghiệm, trình độ và khả năng tiếp thu kỹ thuật hiện đại nhanh; tài nguyên
thiên nhiên phong phú, đa dạng; hệ thống chính trị vững vàng, ổn định; cơ sở
vật chất, cơ cấu kinh tế thay đổi tích cực, cơ sở hạ tầng phát triển; nền kinh tế
tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Quá trình toàn cầu hoá diễn ra, thị trường được mở rộng, sự giao lưu
hang hoá thông thoáng hơn, hàng rào quan thế và phi quan thuế thuyên giảm,
nhờ đó sự trao đổi hàng hoá tăng mạnh. Bên cạnh đó bằng việc mở cửa thị
12


trường tự do, các dòng vốn cũng vượt biên giới quốc gia, nhiều hình thức đầu
tư, hợp tác sản xuất góp phần điều hoà dòng vốn theo lợi thế so sánh, giữa các
nước tiếp cận được nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài. Mặt khác dưới sự tác
động của toàn cầu hoá, những thành tựu khoa học công nghệ được chuyển
giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi, mạng lưới thông tin và giao thông vận
tải bao phủ toàn cầu góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. Về mặt chính trịxã hội. Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình hợp tác làm hạn chế các vấn đề có
tính chất xã hội như: tội phạm, môi trường, dân số... về chính trị, chính vì xu

hướng lại tuỳ thuộc lẫn nhau do vậy có lợi cho quá trình hợp tác đấu tranh vì
hoà bình.
Với những điều kiện thuận lợi về chính bản thân đất nước ta cộng với
những tác động tích cực do toàn cầu hoá mang lại, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang gặp nhiều thuận lợi rất cơ bản đó chính là cơ hội của đất nước
trong việc phát triển nền kinh tế- xã hội đảm bảo cho điều kiện đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Trước hết chúng ta phải nhận thức rằng: Quá trình toàn cầu hoá và bước
hội nhập kinh tế quốc tế. Là cơ hội cho chúng ta mở rộng thị trường cho sản
phẩm hàng hoá Việt Nam vốn có ưu thế ở một số mặt hàng đặc biệt là các mặt
hàng nông sản, cũng vì thế mà chúng ta có điều kiện thu hút vốn đầu tư từ
ngoài nước đặc biệt là quá trình chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước
ngoài. Đối với các nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam đây cũng là cơ hội để
họ có điều kiện mở rộng quan hệ học tập phong cách quản lý, tiếp thu khoa
học công nghệ mới. Về mặt chính trị, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
chúng ta tránh được tình trạng phân biệt đối xử, tận dụng thế lực trên thị
trường thế giới từ đó nâng cao vị thế quốc tế và tạo thế vững chắc hơn cho
Việt Nam trong quan hệ quốc tế phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đó là những tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế và là những cơ
hội cho đất nước trong quá trình hội nhập nhằm phát huy thế mạnh, sở trường
13


của đất nước. Tuy nhiên toàn cầu hoá kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế cũng đặt ra cho chúng ta những khó khăn thách thức trong quá trình
hội nhập phát triển đất nước.
2.2. Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá và thách thức của
nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những thách thức này xuất phát từ thực tiễn trong nước. Nền kinh tế

nước ta ở trình độ kém phát triển, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, lực lượng sản
xuất trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, khi mà nền sản
xuất của thế giới phát triển cao, kỹ thuật, công nghệ thực tiễn. Trong khi đó
năng lực cạnh tranh của các hàng hoá Việt Nam là kém, nguồn vốn trong
nước là rất ít. Bên cạnh những khó khăn trên một khó khăn và là trở ngại rất
lớn của nước ta trong quá trình hội nhập đó là sự thiếu đồng bộ của hệ thống
pháp luật, các điều khoản còn chồng chéo nhau, “kẽ hở” trong các điều luật
vẫn còn tồn tại... điều này làm cho bước hội nhập sẽ càng khó khăn. Bởi vì
toàn cầu hoá cũng đem lại rất nhiều mặt tiêu cực. Đó là: sự phân hoá giàu
nghèo các quốc gia ngày càng tăng, do các nước phát triển có lợi thế hơn
trong các quá trình kinh tế bởi họ có tiềm lực mạnh về kinh tế nên dễ dàng
thao túng nền kinh tế trên thị trường. Chính vì thế lợi ích các nước phát triển
tất yếu sẽ cao hơn các nước đang và kém phát triển từ đó mà phân hoá giàu
nghèo các quốc gia ngày càng rõ rệt. Một tác động tiêu cực mà chúng ta dễ
nhận thấy đó là do các quá trình kinh tế trên thế giới là một khâu thống nhất
do vậy chỉ cần trục trặc ở một khâu sẽ làm cho nó lan toả toàn cầu, gây ảnh
hưởng toàn thế giới. Bên cạnh những mặt tiêu cực đó do toàn cầu hoá mang
lại quá trình toàn cầu hoá là cơ hội cho các nước phát triển biến các nước
đang và kém phát triển làm nơi tiêu thụ hàng hoá ế thừa và khoa học- công
nghệ lạc hậy. Những vấn đề toàn cầu như tội phạm, môi trường... vì thế mà
nảy sinh. Những biểu hiện tiêu cực trên chính là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng các nước công nghiệp phát triển lợi dụng tự do hoá để áp dụng các hình
thức bảo hộ từ đó chi phối các hoạt động kinh tế thế giới rồi tiếp tục chi phối
14


chính trị, can thiệp nội bộ các nước. Sự kiện Mỹ và Anh tiến hành đánh IRắc
vừa qua là một minh chứng. Điều này đang đặt nhân loại đứng trước những
thách thức vô cùng lớn lao. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
cũng không nằm ngoài những thách thức đó.

Đó là làm sao để hang hoá Việt Nam có đủ sức mạnh cạnh tranh trên với
hang hoá các nước khác, trong khi thực tế là hang hoá dịch vụ Việt Nam là rất
kém vè mọi phương diện trong khi đó đội ngũ các nhà doanh nghiệp nước ta
còn rất yếu kém trong quản lý, trình độ. Trong khi cạnh tranh quốc tế ngày
càng gay gắt thì nhận thức của các ngành, các cấp là chưa nhất quán, tư tưởng
bảo hộ, ỷ lại còn nặng nề, năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế, tệ tham nhũng
quan liêu chưa được ngăn chặn kịp thời; Trong khi đó hệ thống pháp luật,
chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn chỉnh. Bên cạnh đó cùng
với mở cửa thị trường, giao lưu kinh tế, lối sống thực dụng chạy theo đồng
tiền, văn hoá độc hại xâm nhập, các thế lực phản động chống phá có cơ hội
xâm nhập lôi kéo các lực lượng thù địch chống phá nước ta. Mặt khác việc
mở cửa thị trường, đồng nghĩa với việc tạo sự chênh lệch về sự phát triển kinh
tế và mức sống giữa các vùng, tầng lớp dân cư do vậy đòi hỏi đặt ra là làm
sao thu hẹp được khoảng cách đó.
Những thách thức và cơ hội trên mà toàn cầu hoá đem lại cho nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là những yêu cầu vô cùng khách
quan như sự ra đời vấn đề của quá trình toàn cầu hoá mà không nước nào có
thể cưỡng lại được xu thế đó. Do vậy đòi hỏi nước ta trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế phải có bước đi, lộ trình phủ hợp đúng đắn, tận dụng tối đa
những cơ hội mà quá trình hội nhập đem lại đồng thời tránh và khắc phục
những tác động xấu nhất do quá trình mang lại. Vì thế trước hết Nhà nước cần
phải có những phương hướng và giải pháp cho quá trình hội nhập này làm sao
cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải đảm bảo đúng “luật chơi” đồng
thời phải mang lại lợi ích tối đa cho sự phát triển của đất nước.

15


Chương III.


Những quan điểm, phương hướng và giải pháp cho
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
3.1. Quan điểm.
Nhận thức được tiến trình lịch sử của quan hệ quốc tế, các nước không
thể đóng cửa để tự thân phát triển, ngay từ những năm 70 của thế kỷ 20 chúng
ta đã gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia phong trào
không liên kết, nhóm 77, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản
là đấu tranh cho một trật tự thế giới công bằng.
Bước vào thời kỳ đổi mới. Đại hội Đảng lần thứ VI- 1986 đã chính thức
khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, đẩy lùi chính sách bao vây về kinh
tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Đại hội lần
thứ VII- 6/1991. Thông qua cương lĩnh của Đảng và chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế, đồng thời đưa ra đường lối đối ngoại mở rộng: “với chính
16


sách đối ngoại mở rộng, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển”. Đại hội VIII- 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một
nền kinh tế mở”, “đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) nêu nhiệm vụ “tịch cực chủ động thâm
nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc
đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế
hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Tiếp
theo, văn kiện Đại hội IX nhấn mạnh chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự do và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường”, “chính phủ cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn trương
xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và

chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành
và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế- xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế”.
Như vậy, trong mỗi bước đi của mình Đảng luôn luôn xác định vấn đề
hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề khách quan. Hội nhập chính là việc đáp
ứng yêu cầu và lợi ích của nước ta trong quá trình phát triển, đồng thời qua đó
phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực
và thế giới, góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập kinh tế thành công cần tích cực chủ động chuẩn bị về mọi
mặt, tập trung giải quyết các cơ sở, nền tảng, nâng cao môi trường cạnh tranh
chung của nền kinh tế. Những vấn đề cần đặc biệt quan tâm chính là khuôn
khổ pháp lý, cải cách hệ thống chính trị và hành chính.
3.2. Phương hướng
17


Khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu, là bộ phận tổng thể trong
đường lối đổi mới của Việt Nam, là động lực thúc đẩy quá trình mở rộng, là
tiền đề quan trọng bảo đảm thành công của công cuộc xây dựng bảo vệ đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, để hội nhập kinh tế quốc tế thành công cần tích cực chủ động
chuẩn bị về mọi mặt, tập trung giải quyết tốt các cơ sở, nền tảng, nâng cao
môi trường chung của nền kinh tế. Những vấn đề cần quan tâm đó là: pháp lý,
cải cách hệ thống chính trị và hành chính. Vì thế hướng thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế là: Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa
dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập theo lộ trình phù hợp với nền
kinh tế nước ta, bảo đảm thực hiện những cam kết quốc tế; Nhà nước có chính
sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh

doanh hàng hoá, xuất- nhập khẩu tăng nhanh, sản phẩm chế biến...; Đẩy mạnh
các hình thức, lĩnh vực thu ngoại tệ như: du lịch, bưu chính, xuất khẩu...; chủ
động tích cực thâm nhập vào thị trường quốc tế, chủ động thị trường trung
tâm kinh tế của thế giới (Mỹ- Nhật- Tây Âu). Mở rộng thị phần trên các thị
trường mới; tiếp tục mở rộng, cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình
thức đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài; khuyến khích người Việt Nam định cư nước ngoài về nước đầu tư
kinh doanh và doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; tiếp tục tranh thủ
nguồn đầu tư tài trợ các chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức phi
chính phủ. Đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, gắn
chặt việc sử dụng vốn vay và trả nợ.
Tóm lại, tiến hành hội nhập kinh tế chúng ta phải thực hiện các hướng cơ
bản sau:
Thứ nhất: phải thực hiện chuỷn đổi cơ cấu kinh tế. Nhằm thích ứng và
đứng vững được trong cạnh tranh toàn cầu. Nếu không chuyển đổi được cơ
cấu kinh tế có khả năng thích ứng trong cạnh tranh, linh hoạt điều chỉnh phù
hợp với những đổi mới trong công nghệ, những biến động trong kinh doanh
18


thì không khai thác được lợi thế so sánh, dễ bị tổn thương và phải hứng chịu
những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập. Trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế phải biết lựa chọn những ngành có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh
tranh. Những ngành có lợi thế cần tập trung củng cố để có thể cạnh tranh
trong tương lai. Đồng thời cần có những biện pháp bảo vệ hợp pháp và hạn
chế tạm thời đối với những ngành chưa có khả năng cạnh tranh.
Thứ hai: phải cải cách hành chính sâu rộng, mà trước hết phải cải cách
chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô để tận dụng những ưu đãi mà cơ cấu thể
chế hội nhập quy định. Sự cải cách này nhằm bảo đảm sự hài hoà giữa quyền
lợi và nghĩa vụ của nước mình trong thể chế hội nhập, giữa mục tiêu kinh tếxã hội của đất nước với những yêu cầu và đòi hỏi của bên ngoài; giữa vấn đề

kinh tế và thương mại với các lĩnh vực khác; đồng thời phải cải cách luật
pháp, quy chế, quy định cho phù hợp và bảo đảm cho các chính sách đó được
thực hiện. Hai là, phải cải cách và hoàn thiện cơ chế quản lý điều hành quá
trình hội nhập để giữ ổn định trong sự phát triển, kịp thời điều chỉnh và giải
quyết những vấn đề phát sinh, những biến động bất thường gây mất ổn định
kinh tế- xã hội.
Cuối cùng là phải xây dựng, đào tạo được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu của công cuộc hội nhập. Đây là đòi hỏi rất cấp bách, vì các lĩnh vực hội
nhập rất phong phú, nảy sinh nhiều vấn đề mới và phức tạp, từ kinh tế thương
mại, dịch vụ, đầu tư đến khoa học công nghệ, môi trường, sở hữu trí tuệ... tất
cả những điều đó đòi hỏi phải nâng cao trình độ cán bộ, tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước phát triển, của các tổ chức quốc tế để đào tạo, bồi dưỡng được
một đội ngũ cán bộ phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, xây
dựng nền kinh tế mới, một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi, quản lý giỏi, vừa
có năng lực tổ chức thực tiễn, nhạy bén với cái mới, đáp ứng sự phát triển của
đất nước trước những biến động của thế giới.
3.3. Giải pháp.

19


Văn kiện Đại hội IX xác định “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh
thủ mọi thời cơ phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc; bình
đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh; đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ kinh tế đối ngoại; đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của
các thế lực thù địch”.
Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu
quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng
kinh tế độc lập tự chủ. Việc gắn quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta để đảm bảo thành công cần
phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhật: phải ổn định tình hình chính trị, kinh tế và xã hội trong nước.
Về chính trị: chúng ta phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước đối với các hoạt động kinh tế- Chính trị- xã hội trong nước và quan hệ
đối ngoại với bên ngoài, đây chính là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chúng
ta không bị trệch hướng trong quá trình phát triển định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bên cạnh đó việc đảm bảo hài hoà các mối quan hệ dân tộc trong nước,
giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân cũng là một trong những điều kiện đảm
bảo ổn định chính trị trong nước.
Về kinh tế chúng ta phải ổn định kinh tế vĩ mô đó là sự cân đối lớn của
nền kinh tế. Để có được sự ổn định này chúng ta phải tiếp tục đổi mới các
công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế “đổi mới hơn nữa
công tác kế hoạch, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Bảo đảm tính minh bạch,
công bằng trong chi ngân sách Nhà nước. Thực hiện đầu tư vốn phát triển từ
ngân sách Nhà nước căn cứ vào hiệu quả kinh tế- xã hội. Tiếp tục cải cách hệ
thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; nuôi dưỡng
nguồn thu và thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật. Xây dựng hệ
thống ngân hàng thương mại Nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh
20


tiền tệ tự chủ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Thành lập các ngân hàng
chính sách”.<văn kiện Đại hội IX>.
Về xã hội, chúng ta phải hạn chế thất nghiệp, hạn chế tối đa các tệ nạn xã
hội, tăng việc làm... thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và
lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực
mạnh mẽ để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện
bình đẳng trong quan hệ xã hội. Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.

Thứ hai: phải hoàn thiện hệ thống luật pháp. Bởi vì: luật pháp là một
trong hai công cụ (luật pháp và chính sách) quan trọng để đảm bảo hội nhập
thành công, kinh tế phát triển. Các hoạt động hợp tác kinh tế thương mại quốc
tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường, theo xu thế thuận lợi hoá, tự do
hoá, theo “luật chơi” của các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực. Việc hoàn
chỉnh luật pháp của ta phải phù hợp với các thông lệ quốc tế và những nguyên
tắc của các tổ chức mà nước mình tham gia, phù hợp với đặc thù của nước ta,
đặc biệt là đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: phải tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Về kinh
tế, chúng ta tiến hành thực hiện đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới phân
phối điện quốc gia, có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn,
miền núi; phát triển mạng lưới thông tin liên lạc hiện đại và đẩy nhanh ứng
dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là
trong hệ thống lãnh đạo, quản lý và các dịch vụ tài chính, thương mại, giáo
dục, y tế, tư vấn.., phát triển, nâng cấp hệ thống giao thông ở đô thị, nông
thôn, các khu kinh tế, tạo điều kiện cho giao lưu hàng hoá thông thoáng. Bên
cạnh đó phải hoàn thiện hệ thống cảng biển quan hệ, hiện đại hoá các sân bay
quốc tế, nâng cấp các sân bay nội địa... Về xã hội, chúng ta phải đẩy mạnh
việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn như trường học,
trạm y tế, điện, nước sạch, chợ và đường giao thông. Tiến tới phổ cập trung
học cơ sở, đầu tư vào y tế một cách đầy đủ và hiện đại, củng cố và phát huy
bản sắc văn hoá của các dân tộc trong nước.
21


Thứ tư: là đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu mới.
Đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác quốc tế phải có kinh nghiệm trong
hoạt động, trình độ ngoại ngữ phải đáp ứng được yêu cầu, phẩm chất đạo đức
lành mạnh. Với cán bộ kinh doanh phải có sự hiểu biết về luật pháp quốc tế,
về kỹ thuật kinh doanh, đội ngũ công nhân phải đảm bảo lành nghề.

Thứ năm: phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp
và của cả nền kinh tế. Dựa trên việc phát huy lợi thế so sánh về các mặt của
đất nước: con người- nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, với
việc vận dụng tốt những yếu tố tiến bộ khoa học và công nghệ, giáo dục đào
tạo, văn hoá, tổ chức và quản lý, cơ chế và chính sách.
Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực vừa qua,
nền kinh tế nào có sức cạnh tranh cao trên thị trường cả trong nước và quốc tế
thì nền kinh tế đó có sức chịu đựng cao hơn và hạn chế được tác động của
khủng hoảng nhiều nhất. Thực tế cũng cho thấy, không nhất thiết phải là một
nền kinh tế lớn mới đạt được trình độ cạnh tranh cao, mà một nền kinh tế nhỏ
nếu biết khai thác, vận dụng phát huy đến mức cao nhất các yếu tố nêu trên,
đặc biệt là yếu tố con người- nguồn nhân lực có chất lượng cao, sự tiến bộ
khoa học công nghệ và năng lực quản lý thì vẫn có thể đạt được sức cạnh
tranh tốt.
Thứ sáu: đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế- trong hội nhập.
Thực hiện phương châm này chẳng những vừa đảm bảo được lợi ích của nước
ta mà còn có ý nghĩa rất quan trọng để giữ vững độc lập tự chủ, sự cân bằng
trong các mối quan hệ quốc tế, tránh lệ thuộc chiều vào một hoặc một số đối
tác.
Thứ bảy: là tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, đẩy mạnh công cuộc cải
cách hành chính, đổi mới nâng cao hiệu lực bộ máy Nhà nước. Đẩy lùi tình
trạng quan liêu, tham nhũng, thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở xã,
phường và các đơn vị cơ sở.

22


Thực trạng hiện nay một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất
quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, nhiều ngành chưa
thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý Nhà nước không còn phù hợp đã

làm cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế gặp nhiều bất lợi. Do vậy, cơ chế
chính sách cho phù hợp với lộ trình phát triển đất nước luôn là rất cần thiết.
Cuối cùng là: đảm bảo phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa
bằng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với đảm bảo an ninh, đảm bảo độc lập
chủ quyền. Để có được điều này chúng ta phải đặc biệt chăm lo xây dựng
củng cố niềm tin, sự ủng hộ và gắn bó của nhân dân với chế độ với Đảng và
Nhà nước. Mặt khác quan hệ tùy thuộc lẫn nhau, sự đan xen lợi ích giữa nước
ta với các nước tuy có mặt phức tạp nhưng chính sách đa phương hoá quan hệ
đối ngoại là một yếu tố quan trọng góp phần bảo vệ an ninh và chủ quyền
quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.

Kết luận
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, trọng
tâm của nó là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện mở rộng không gian đã phát triển
và tìm kiếm vị trí thích hợp cho mình trong khung cảnh chung của toàn cầu
hoá, thực hiện kết hợp nội lực và sức mạnh quốc tế.
Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế với bước đi và lộ trình
phù hợp là một trong những yếu tố bảo đảm cho sự phát triển nền kinh tế đất
nước và xu thế thời đại. Chúng ta tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế một cách
23


chủ động, gắn chặt với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ chính là sự khẳng
định vị thế và chủ quyền của đất nước với thế giới- Việt Nam sẽ tiến hành hội
nhập thành công, phát triển nền kinh tế- xã hội nhất định xây dựng thành công
xã hội chủ nghĩa. Con đường mà Đảng, Bac Hồ kính yêu đã lựa chọn và nó ăn
sâu vào tiềm thức con người Việt Nam, với lực lượng yêu chuộng hoà bình,
nhân dân tiến bộ trên thế giới nhất định sẽ ủng hộ.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. C.Mác và F.Ănghen: Toàn tập, tập 21, tập 23, tập 24, tập 25; nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
2. V.I.Lênin: toàn tập, tập 27, tập 29, nxb tiến bộ Mátxcơva, 1998
3. Hồ Chớ Minh: toàn tập, tập 5, tập 6, tập 9; nhà xuất bản Chớnh trị quốc
gia, Hà Nội, 2005
4. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006
24


5. Toàn cầu hoỏ kinh tế; Nxb khoa học xó hội, Hà Nội 2001
6. Khoa kinh tế chớnh trị: Giỏo trỡnh kinh tế chớnh trị đại cương, Nxb
chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002
7. Vụ các trường chính trị - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
Kinh tế chính trị Mác – Lênin và một số vấn đề về tổ chức quản lý kinh
tế ở Việt Nam, tập 1, Nxb lý luận chớnh trị, 2004
8. Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trỡnh kinh tế chớnh trị Mỏc – Lờnin, Nxb
chớnh trị Quốc gia, Hà Nội 2006

25


×