Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích và bình luận về luật Hồi giáo và sự thích ứng của luật Hồi giáo với xã hội hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.53 KB, 12 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUẬN MÔN LUẬT SO SÁNH
Chủ đề: Phân tích và bình luận về luật Hồi giáo và sự thích ứng của
luật Hồi giáo với xã hội hiện đại
A. MỞ ĐẦU
Sự phát triển của các hệ thống (dòng họ) pháp luật trên thế giới là kết quả
của sự khác biệt bắt nguồn từ sự khác biệt về điều kiện kinh tế xã hội, chính trị,
tư tưởng pháp lí.... Mỗi hệ thống pháp luật đều có những nguồn gốc xuất hiện,
đặc trưng bản chất và nội dung có những khác nhau. Trong bài tiểu luận này, em
xin giới thiệu và phân tích một số khía cạnh của pháp luật Hồi giáo và sự thích
ứng của loại pháp luật này trong xã hội hiện đại để có cái nhìn tổng quan hơn về
bản chất cũng như sự hòa nhập của pháp luật Hồi giáo trong xu hướng phát triển
của nhân loại.
B. NỘI DUNG


I.
Khái quát về pháp luật Hồi giáo
Hồi giáo, còn gọi là đạo Islam, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các
tôn giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo, và là
tôn giáo đang phát triển nhanh nhất, với số tín đồ hiện nay là 1,57 tỷ, chiếm 23%
dân số thế giới.
Luật Hồi giáo là tập hợp các chế định, các quy tắc xử sự được rút ra từ
những thần khải của thượng đế mà tín đồ Hồi giáo bắt buộc phải tuân theo.
Ở các nước Hồi giáo, bên cạnh luật Hồi giáo còn có luật thực định – chịu
ảnh hưởng rất lớn từ luật Hồi giáo nhưng hoàn toàn không đồng nhất.
Vậy, luật Hồi giáo là gì?
1.Khái niệm luật Hồi giáo

Thuật ngữ Hồi giáo (Islam) có nghĩa là “tuân phục”, đó cũng là tư tưởng
trung tâm của đạo Hồi. Đạo Hồi chính là lời răn dạy của thánh Allah mà
1


Mohammed đã tìm ra và truyền lại cho người đời, điều đó đã được khái quát
thông qua lời cầu nguyện: “không có chúa trời nào khác ngoài Allah và
Mohammed là tiên tri của Ngài”. Các tín đồ Hồi giáo sống tuân theo gới luật đạo
Hồi (Shariah). Trong đó, có những quy định như cấm trộm cắp, nói dối, giết
người, ngoại tình và uống rượu. Sharial cũng bắt buộc người Hồi giáo phải có
đức khoan dung và khiêm tốn, đối xử với nhau một cách công bằng.
Luật Hồi giáo không phải là hệ thống pháp luật gắn với nhà nước mà chỉ

là một phần của Shariah. Luật Hồi giáo không phải là hệ thống các quy phạm
hiểu theo đúng nghĩa mà nó được thượng đế đặt ra một lần và không thay đổi, là
sự thể hiện ý chí của thượng đế chứ không phải nhà nước.
Như vậy, có thể hiểu luật Hồi giáo chính là hệ thống các quy định mang
tính tốn giáo của những người theo đạo và các quy định này hoàn toàn độc lập,
không chịu sự chi phối của nhà nước, không có quyền lực nào có thể thay thế
luật Hồi giáo.
Luật Hồi giáo có phạm vi điều chỉnh là các quyền và nghĩa vụ của các cá
nhân là những người theo đạo Hồi. Mối quan hệ của những người không theo
đạo Hồi nhưng sống ở quốc gia Hồi giáo sẽ được điểu chỉnh bởi các quy phạm
pháp luật nhà nước.
2. Sự hình thành và phát triển của Luật Hồi giáo

Luật Hồi giáo như một phần của giới luật đạo Hồi, có mối quan hệ chặt
chẽ với Hồi giáo và văn minh Hồi giáo nên sự hình thành và phát triển của luật
Hồi giáo gắn với sự hình thành và phát triển của đạo Hồi. Có những nhận định
rằng, ở đâu mà con người không sử dụng luật Hồi giáo thì ở đó đạo Hồi cũng
không tồn tại.
Những tín đồ đạo hồi cho rằng tôn giáo của họ dựa trên những thần khải
từ thượng đế được truyền đạt thông qua các tiên tri (những người được thượng
đế lựa chọn để nói thay cho Ngài). Mohammed được coi là tiên tri của thượng
2


đế mà những thần khải ông nhận được là tuyên ngôn đầy đủ nhất, cuối cùng và

tối thượng nhất.
Năm 622 được coi là năm mở đầu của kỉ nguyên Hồi giáo, là năm đầu
tiên trong lịch sử Hồi giáo sau sự kiện các bộ tộc tin theo lời giảng thuyết của
Mohammed. Trải qua thời gian dài với những biến cố lịch sử dẫn tới sự ra đời
của các quốc gia Hồi giáo. Các quốc gia này sử dụng kinh Koran để áp dụng cho
xã hội phạt giáo. Đây cũng chính là bộ khung pháp luật cho việc tổ chức chính
quyền chính trị cũng như về bổn phận, quyền lợi của “công dân” trong xã hội
Hồi giáo.
Bên cạnh kinh Koran – những giáo huấn của hoàng đế (nguồn gốc quan
trọng nhất của luật Hồi giáo). Ở các quốc gia Hồi giáo, trong trường hợp được
coi là không có “giáo huấn của hoàng đế” thì các tín đồ được phép cùng nhau
thảo luận dựa trên những nguyên tắc nêu trong khải thị trước đó để đưa ra quyết

định, đó chính là nguồn gốc của tập quán bàn bạc (Sunnah) để đi đến sự nhất trí
trong cộng đồng (ijma). Dần dần hình thành nên các nguồn của luật Hồi giáo. Và
như thế, luật Hồi giáo được hình thành.
3. Đặc trưng của luật Hồi giáo
Thứ nhất, luật Hồi giáo mang tính chất tôn giáo. Khác với luật thế tục,
luật của nhà nước (là luật do nhà nước đặt ra). Luật Hồi giáo là bất biến, vĩnh
cửu, con người không thể sửa đổi các nguyên tắc của giới luật Hồi giáo, nó được
truyền bá theo con đường Đạo hồi của các nhà truyền giáo.
Thứ hai, luật Hồi giáo rất mềm dẻo và linh hoạt. Nội dung của luật Hồi
giáo có gốc rễ chủ yếu từ hệ tư tưởng, giáo lí trong kinh Koran, là những lời dạy
của thánh Allah mà các tín đồ sẽ tuân theo. Các nguyên tắc của luật Hồi giáo
được áp dụng bằng các giải pháp pháp lí mềm dẻo và linh hoạt, phù hợp với sự

thay đổi của xã hội.
Thứ ba, luật Hồi giáo không thể bị thay thế bới luật Nhà nước. Nhà nước
không thể đặt ra những quy định trái với luật của thượng đế. Luật nhà nước chỉ
3


Hudud: Tội phạm chống lại Chúa, bao gồm 7 tội: ngoại tình (kể cả thông
dâm), vu cáo, uống rượu (nơi công cộng cũng như ở nhà riêng), tội trộm, cướp
đường, phản đạo, vi phạm kinh thánh.
Quesas: là các tội phạm đòi hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình
người bị hại. Đó là các loại tội phạm: giết người (cố ý hoặc vô ý); gây thương
tích (cố ý hoặc vô ý); cưỡng dâm.

Khác với các hệ thống pháp luật khác, thông thường coi tội phạm giết
người là tội phạm nặng nhất, trong pháp luật Hồi giáo, các tội phạm chống lại
Chúa là tội phạm nặng nhất, còn tội phạm giết người và gây thương tích được
coi là các tội phạm chống lại cá nhân chứ không phải chống lại Chúa, nên được
coi là ít nghiêm trọng hơn Hudud. Nếu phạm tội giết người thì tuỳ theo tình tiết
tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà xử tử hình hoặc chuộc tiền, tài sản.
Các tội Taazir: bao gồm các tội như ăn thịt lợn, đưa ra lời khai man trá,
hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo khiêu dâm, vi phạm luật lệ
giao thông... Hình phạt có thể là tù, phạt tiền và thường là nhẹ hơn các tội
Hudud và Quesas.
Về Dân sự:
Hệ thống luật nghĩa vụ rất phát triển. Nghĩa vụ xuất phát từ hợp đồng chia

làm 2 loại dựa trên việc có hay không sự chuyển giao tài sản:
Nhóm thứ nhất liên quan đến việc có chuyển giao tài sản là đối tượng của
giao dịch dân sự: Hợp đồng trao đổi; Hợp đồng cho vay; Hợp đồng mua bán.
Nhóm thứ hai là nhóm không cần chuyển giao tài sản: Hợp đồng vận
chuyển hàng hoá; Hợp đồng uỷ thác…
Trong thừa kế, người làm di chúc chỉ có quyền định đoạt 1/3 tài sản của
mình. Người thừa kế chỉ hưởng quyền chứ không thừa kế nghĩa vụ. Tài sản phân
chia đều cho những người được thừa kế không phân biệt hàng thừa kế thứ nhất,
thứ hai như con hay cháu, đều hưởng như nhau.
5



Về tố tụng:
Các toà án ở các nước theo đạo Hồi là các toà án Hồi giáo truyền thống
giải quyết các vụ án hình sự cũng như dân sự. Các thẩm phán trong các toà án
Chariat gọi là Quadis được trải qua một khoá đào tạo tôn giáo cũng như pháp
luật. Thủ tục tố tụng được quy định trong kinh Coran. Trước toà, đương sự phải
có hai người đàn ông hoặc một người đàn ông và hai người đàn bà làm chứng.
Nếu chỉ có một người làm chứng thì đương sự có thể thề trước đấng Allah. Lời
thề trước đấng Allah được coi là bằng chứng trung thực.
Về luật Nhà nước:
Những người trung thành với đạo Hồi cho rằng luật Hồi giáo là bất diệt,
không bao giờ thay đổi, đây là loại hình pháp luật cuối cùng và trong tương lai
toàn thể nhân loại sẽ chấp nhận và tuân thủ nó. Vì thế, các văn bản pháp luật do

nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều
chỉnh những chi tiết mà luật Hồi giáo chưa cụ thể hóa hoặc còn bỏ trống.
Các quy định của luật Hồi giáo được xây dựng ở mức khái quát mà ở các
thời kì có thể tìm ra những lập luận ủng hộ trong đó, tạo thuận lợi cho việc giải
thích và áp dụng một cách mềm dẻo, ví dụ như quy định về từ thiện có thể thiếp
lập hệ thống bảo hiểm xã hội theo mô hình phương Tây.
Về đào tạo Luật và hành nghề Luật:
Ở các nước Hồi giáo, các bên tranh chấp không thường xuyên thuê luật sư
đại diện vì chủ yếu họ thường bào chữa bằng cách nhờ người khác hoặc tự mình
bào chữa. Về đào tạo luật thì các nước Hồi giáo không chú trọng việc đào tạo
luật và hành nghề luật mà chủ yếu là dành cho các học giả, những người muốn
làm thẩm phán hoặc luật sư phải theo học kháo thần học chứ không được đào

tạo theo cách truyền thống (Ẳ rập Xê út), vấn đề này được giải thích phần nào
bởi thói quen bào chữa của đương sự nêu trên.
5. Nguồn của luật Hồi giáo
6


Luật Hồi giáo có nguồn gốc thàn thánh, bản chất thần thánh này thể hiện
ở chỗ pháp luật là ý chí của thượng đế, không có gì trên đời có thể thay thế các
điều Thánh Kinh đã dạy.
Luật Hồi giáo có hệ thống nguồn luật bao gồm: Kinh Koran; Sunna; Ijma;
Qias. Đây là bốn “gốc rễ” của luật Hồi giáo, trong đó nguồn cơ bản là Kinh
Koran và Sunna.

5.1. Kinh Koran
Là cuốn thánh kinh bao gồm 114 chương chia thành các tiết với 6237
đoạn thơ. Các chương dài ngắn rất khác nhau, chương dài nhất có 286 tiết,
chương ngắn nhất chỉ có 3 tiết. Kinh Koran nêu ra rất nhiều các luật lệ mà các
tín đồ Hồi giáo phải một lực tuân thủ. Trong Kinh Koran chỉ có rất ít đoạn có thể
áp dụng như những quy phạm pháp luật. Chỉ có khoảng 200 câu thơ (khoảng
hơn 3%) của cuốn thánh kinh đó đó có liên quan đến pháp luật, trong đó có các
nguyên tắc pháp luật; các quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự và hôn nhân
gia đình; các quan hệ hình sự; các quan hệ tố tụng; các quan hệ thương mại, tài
chính và quan hệ quốc tế.
5.2.


Sunna

Đây là nguồn luật quan trọng của Islam sau Kinh Koran. Sunna đưa ra các
quy định mà trong Kinh Koran không có, ví dụ trong luật Hồi giáo lời thề có
tầm quan trọng rất lớn và nó được quy định trong Sunna. Sunna có nghĩa là “con
đường quen đi” là lối sống, cách hành xử trong cuộc đời của Mohammed, là
những lời khuyên dạy hoặc cấm đoán phát xuất trực tiếp từ Mohammed.
5.3.

Ijma

Được sử dụng để giải thích các nguồn cơ bản, là các giải pháp pháp lí cho

những tình huống mới do các học giải Hồi giáo đưa ra trên cơ sở các nguyên tắc
chung của nguồn luật cơ bản được chấp nhận. Nó gần giống như tập quán nhưng
không đồng nhất với tập quán, không cần sự chấp nhận của cộng đồng mà chỉ
7


cần của người có thẩm quyền. Ijma có vai trò quan trọng đặc biệt trong thực
tiễn, có ý kiến cho rằng đây là nền tảng có tính chất giáo điều duy nhất của luật
Hồi giáo.

5.4.


Qias

Thực chất là phương pháp suy luận tương tự để giải thích luật, là cách kết
hợp ý chí củ thần thánh với lí trí của con người. Tuy nhiên, nó chỉ là cách giải
thích và áp dụng luật do luật Hồi giáo được xây dựng trên nguyên tắc uy tín.
Nên việc suy luận này chỉ tạo khả năng giải thích luật một cách hợp lí chứ
không tạo ra được những quy phạm có tính chất nền tảng.
Có một điều đáng chú ý, những người theo nhóm đạo Hồi không chính
thống thường không chấp nhận Ijma mà Qias là nguồn của luật Hồi giáo. Đồng
thời, tập quán cũng như những phán quyết của Tòa án cũng không được coi là
nguồn luật, những phán quyết này chỉ mang tính chất luân lí và có thể xem xét
lại để hoàn thiện, còn tập quán chỉ sử dụng trong trường hợp bổ sung làm sáng

tỏ một nguyên tắc hoặc một quy phạm pháp lí nào đó.
II.

Sự thích ứng của luật Hồi giáo với xã hội hiện đại

Về cơ bản luật Hồi giáo mang đậm nét của dòng họ pháp luật tôn giáo nên
có những điểm khó thích nghi với xã hội hiện đại như:
Luật Hồi giáo được coi là do Thượng đế lập ra một lần và không thay đổi
nên rất khó để điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh, khó thích nghi
với cuộc sống hiện đại.
Luật Hồi giáo có những quy định có tính chất tôn giáo khiến cho luật Hồi
giáo can thiệp vào cả những vấn đề mà pháp luật xét thấy không cần thiết, ví dụ

như tẩy uế trước khi cầu nguyện; tự do cá nhân, mặc dù những hành vi đấy của
cá nhân xét theo phương diện của các dòng họ pháp luật khác là không cần can
thiệp.
8


Luật Hồi giáo không hướng đến sự bình đẳng như những dòng họ pháp
luật khác như xem nhẹ vai trò của người phụ nữ; mặc dù trong những quy định
có bong dáng của việc bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ nhưng dưới góc độ
luật thì những chủ thể nam mới có quyền; ví dụ ở một số nước theo pháp luật
Hồi giáo thì phụ nữ còn chưa có quyền bầu cử; hay như quy định chế độ đa thê
và người chồng có quyền bỏ rơi người vợ

Mặc dù luật Hồi giáo khó thích ứng với xã hội hiện đại nhưng luật Hồi
giáo vẫn đáp ứng được yêu cầu của thế giới Hồi giáo và vẫn luôn là một trong
những hệ thống pháp luật lớn của thế giới đang điều chỉnh mối quan hệ của
khoảng 1,57 tỉ dân. Chính vì thế, các quốc gia Hồi giáo vẫn tiếp tục khẳng định
sự gắn bó với các nguyên tắc của đạo Hồi trong pháp luật của mình, đồng thời
không ngừng tìm cách thích nghi với pháp luật thế giới, nhất là trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay. Có thể thấy một số chính sách thích ứng của luật Hồi giáo
với xã hội hiện đại qua các cách thức sau:
Thứ nhất, Áp dụng tập quán.
Theo luật Hồi giáo, tập quán không phải là nguồn luật nhưng các luật có
thể áp dụng tập quán để lấp những chỗ trống trong luật Hồi giáo. Thông thường,
đó là những tập quán liên quan đến cách tính giá trị hoặc cách thức thanh toán

của hồi môn, việc sử dụng nguồn nước giữa hai chủ sở hữu đất, hoặc tập quán
trong lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên, tập quán đó phải phù hợp với luật Hồi
giáo.
Thứ hai, Sử dụng các thủ thuật pháp lí để loại bỏ các quy định đã lạc hậu.
Trong luật Hồi giáo có rất ít điều khoản mang tính bắt buộc mà luật dành
cho quyền tự do của con người với phạm vi rất rộng. Do đó, để thích nghi với
cuộc sống hiện đại, các luật gia có thể tăng cường sử dụng các thoả thuận giữa
các tư nhân để lẩn tránh các quy định pháp luật không còn phù hợp.
Như trong lĩnh vực hôn nhân – gia đình, chế độ đa thê, theo luật gia đình
Hồi giáo người đàn ông có quyền một lúc lấy nhiều vợ, nhưng không quy định
9



chế độ đa thê là bắt buộc mà chỉ với điều kiện người chồng đối xử công bằng
với tất cả các bà vợ - điều mà không người đàn ông nào có thể thực hiện được.
Ngoài ra, luật Hồi giáo cho phép người đàn ông khi bắt đầu cuộc hôn nhân đầu
tiên tuyên bố từ bỏ quyền lấy vợ tiếp.
Trong lĩnh vực dân sự, luật Hồi giáo cấm cho vay nặng lãi, nhưng người
ta có thể lẫn tránh bằng cách đưa cho chủ nợ hưởng một số sản phẩm từ thu
nhập với danh nghĩa vật đảm bảo hoặc thỏa thuận chia lợi nhuận, bán trả chậm
theo cách nào đó.
Trong lĩnh vực hình sự, một số hình phạt quyết liệt như: “ném đá đến chết
người vợ ngoại tình”nhưng yêu cầu 4 người đàn ông tận mắt chứng kiến hành vi
ngoại tình, điều này là không thể chính vì thế chỉ có tính răn đe về đạo đức.

Thứ ba, Áp dụng các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban
hành (các quyết định hành chính, các văn bản pháp luật của cán bộ).
Theo đạo Hồi, nhà vua không phải là ông chủ của pháp luật mà là đầy tớ
của pháp luật. Do đó nhà vua không thể làm luật. Tuy nhiên, nhà vua phải quản
lí đất nước nên luật Hồi giáo thừa nhận tính hợp pháp của các văn bản pháp luật
do nhà vua và những người có thẩm quyền ban hành.
Như vậy, với nỗ lực của các quốc gia Hồi giáo trong việc tạo ra sự hài hòa
giữa pháp luật Hồi giáo với pháp luật quốc tế. Trong đó, là sự dung hòa giữa các
nguyên tắc của Đạo hồi và các quy định của pháp luật hiện đại. Đảm bảo yếu tố
“đạo” và yếu tố “luật” trong hệ thống pháp luật, rút ngắn “khoảng cách” giữa
các hệ thống pháp luật trên thế giới.
C. KẾT LUẬN

Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu về pháp luật Hồi giáo giúp chúng ta có
cái nhìn tổng quan về các khía cạnh của một “hệ thống” pháp luật lớn trên thế
giới như: nguồn gốc hình thành; bản chất pháp lí; các đặc điểm… Đồng thời,
thấy được sự khác biệt so với một số quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác
10


đang tồn tại song song với luật Hồi giáo và sự nỗ lực thích ứng của luật Hồi giáo
trong xu hướng toàn cầu hóa trước những nhận định tiêu cực về “hệ thống” pháp
luật này.

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
B. NỘI DUNG.....................................................................................................1
I. Khái quát về pháp luật Hồi giáo..................................................................1
1. Khái niệm luật Hồi giáo............................................................................1
2. Sự hình thành và phát triển của Luật Hồi giáo.........................................2
3. Đặc trưng của luật Hồi giáo......................................................................3
4. Những nội dung cơ bản của luật Hồi giáo................................................4
5. Nguồn của luật Hồi giáo...........................................................................6
II.

Sự thích ứng của luật Hồi giáo với xã hội hiện đại...................................8


C. KẾT LUẬN...................................................................................................10

11


TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Tư liệu tham khảo chính
1.1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật so sánh, 2015, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, trang 337 – 359.
2. Tư liệu tham khảo thêm
2.1.
/>option=com_content&view=article&catid=105:ctc20063&id=400:b

2.2.

cvnclhg&Itemid=109
/>
2.3.

luat-hoi-giao.aspx
/>
12




×