Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Vai trò của cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích và lễ hội đền Trần, tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.48 MB, 122 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong bản luận văn này hoàn toàn trung
thực. các số liệu và kết quả công bố trong luận văn là công trình nghiên cứu nghiêm
túc của tôi. Nếu có gì sai phạm tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước đơn vị đào
tạo và pháp luật.
Hà Nội, ngày…. tháng… năm 2015
Học viên

Nguyễn Quỳnh Ngân

1


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới GS.TS Ngô
Đức Thịnh – người thày đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt cho tôi những kiến thức
cơ bản cũng như những đóng góp ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành bản luận văn
này
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thày cô, các cán bộ Viện Việt
Nam học và khoa học phát triển, Đại học quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiến tốt
nhất cho tôi có thể tham gia học tập và hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp thạc sỹ.
Tôi xin gửi lời tới các cụ cao niên trong làng Tức Mặc cùng các đồng chí
lãnh đạo của Ủy ban nhân dân phường Lộc Vượng, tp. Nam Định và Ban quản lý
khu di tích đền Trần – chùa Tháp, tp. Nam Định. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn
bà Trịnh Thị Nga – cán bộ tổ nghiên cứu sưu tầm Ban quản lý khu di tích đền Trần
– chùa Tháp, tp. Nam Định đã cung cấp nguồn tư liệu phong phú và trả lời nhiều
cuộc phỏng vấn trong suốt quá trình thực tế tại địa phương.
Sau hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bàn bè tôi – những người luôn
quan tâm, chia sẻ, động viên, khuyến khích tôi trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày…. tháng… năm 2015
Học viên



Nguyễn Quỳnh Ngân

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

4

ÂL
KHCN và NVQG
NXB
UBND
VHTT
VHTT & DL
JICA

Âm lịch
Khoa học công nghệ và nhân văn quốc gia
Nhà xuất bản
Ủy ban nhân dân
Văn hóa thông tin
Văn hóa thể thao và du lịch
Japan International Cooperation Agency


TP
TW
P

Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
Thành phố
Trung ương
Phường


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỔ
Danh mục bảng

Danh mục biểu đồ

5


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước cùng 54 dân tộc anh em,
Việt Nam có một nền văn hóa phong phú, đa dạng, được đúc kết qua bao nhiêu thế
hệ. Có thể thấy cùng với quá trình phát triển kinh tế là những bước thăng trầm của
văn hóa. Qua gần ba mươi năm đổi mới đất nước đã có những bước phát triển đáng
ghi nhận. Chúng ta không chỉ đổi mới về kinh tế, xã hội mà còn đổi mới trong nhận
thức và tư duy: Phát triển kinh tế gắn bó hữu cơ với phát triển văn hóa – đó là định
hướng của sự phát triển bền vững.
Từ khi bước vào công cuộc Đổi mới năm 1986 nền văn hóa nước ta được

phục hưng trở lại: hàng loạt các lễ hội truyền thống được khôi phục. Hàng năm đều
diễn ra các đợt kiểm kê di tích và trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử, Cục Di sản văn
hóa ra đời năm 2003 mà tiền thân là Cục (Vụ) Bảo tồn bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa
thông tin từ những năm 1960 (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch),….đã làm
cho nền văn hóa nước ta như bước vào một trang mới, cả dân tộc khí thế bắt tay vào
công cuộc cải cách kinh tế, xã hội.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch Việt Nam hiện nay có
khoảng hơn 8000 lễ hội mỗi năm, trong đó chiếm 88% là lễ hội dân gian. Qua các
quá trình lịch sử cùng với các chính sách của Nhà nước, địa phương các lễ hội trải
qua nhiều sự biến đổi.
Từ năm 2000 trở lại đây cứ đầu xuân năm mới những địa điểm như: hội Phủ
Dầy (Nam Định); đền Sòng (Thanh Hóa); chùa Hương (Hà Nội); đền Bà Chúa Kho
(Bắc Ninh),…hay bất kì đền chùa nào nổi tiếng bởi tính “thiêng” mà người ta đồn
thổi nhau thì nhân dân đều kéo nhau đến thắp hương, cầu tài lộc, công danh, … lễ
hội đền Trần, tỉnh Nam Định là một trong những lễ hội được phục dựng và thu hút
đông đảo sự tham gia của du khách thập phương từ mọi miền đất nước.
Trấn Sơn Nam Hạ xưa (nay là thành phố Nam Định) còn được gọi là phủ
Thiên Trường – một vùng đất địa linh nhân kiệt, với hào khí Đông A rực rỡ đất trời,
được coi là kinh đô thứ hai sau kinh thành Thăng Long của thế kỷ XIII – XIV. Nơi
đây đã sản sinh ra những vị vua anh minh, những tướng lĩnh kiệt xuất làm nên ba
6


lần chiến thắng vang dội của dân tộc Việt Nam đánh bại quân xâm lược Nguyên
Mông, cùng truyền thống hiếu học góp phần gây dựng nên vương triều Trần hùng
mạnh, trở thành một trong những triều đại đỉnh cao của chế độ phong kiến ở nước
ta. Và ngày nay dấu ấn đó còn lưu lại tại di tích và lễ hội đền Trần, nay thuộc
phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định.
Ngày 15/10/2007, Thủ tướng chính phủ đã quyết định phê chuẩn xây dựng
dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích lịch sử văn hóa thời Trần ở

Nam Định. Nhận thấy được giá trị khoa học và lịch sử lớn của triều Trần, ngày
27/9/2012, khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần – chùa Tháp được công nhận là di
tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng chính phủ kí quyết định. Ngày 19/12/2014, lễ
hội đền Trần được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Lễ hội đền Trần bao gồm hai lễ hội lớn trong năm là lễ khai ấn tổ chức vào
đêm 14 rạng ngày 15 tháng giêng và lễ hội tháng Tám nhân ngày kỵ Đức Thánh
Trần diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày 20 tháng tám âm lịch hàng năm.
Đặc biệt lễ khai ấn được tổ chức vào đêm 14 rạng ngày 15 tháng giêng hàng
năm là một trong những lễ hội lớn của tỉnh, trong khoảng hơn mười năm trở lại đây
đã vượt ra khỏi phạm vi hương thôn Tức Mặc, trở thành một lễ hội của quốc gia, thu
hút được hàng vạn du khách trên khắp mọi miền đất nước. Trải qua từng thời kì lễ
khai ấn tại đền Trần Nam Định đã có những giai đoạn phát triển khác nhau. Từ một
nghi lễ cung đình của vua quan triều Trần trở thành một nghi lễ lưu truyền trong
dòng họ Trần được tổ chức bởi các vị cao niên trong làng và đến nay tục lệ này
được Nhà nước hóa. Vì vậy lễ khai ấn được diễn ra tại một không gian thiêng (quần
thể di tích văn hóa Trần – hành cung Thiên Trường xưa), vào thời gian thiêng (canh
Tý đêm ngày 14 tháng giêng – thời gian mà các quan chức, nhân dân mở đầu cho
một năm lao động, làm việc mới) và tính thiêng của “lá ấn” được đóng vào canh Tý
đêm ngày 14 tháng giêng.
Qua đó có thể thấy di tích và lễ hội đền Trần, tp. Nam Định chứa đựng giá trị
di sản văn hóa lớn của một triều đại phong kiến Việt Nam. Do đó vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị di sản này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
quốc gia, dân tộc.
7


Mặt khác trong quá trình phục dựng lễ hội nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
dẫn đến những giải thích và quan niệm sai lầm về một số ý nghĩa của lễ hội. Điều
này làm cho lễ hội đền Trần trở thành một vấn đề nóng bỏng của dư luận xã hội.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng hiện nay khuynh hướng “Nhà nước hóa lễ

hội” đang diễn ra sâu rộng trên cả nước. Điều này thể hiện ở chỗ người dân sở tại
với tư cách là chủ thể của lễ hội đang dần mất vai trò và có thể bị gạt ra ngoài lễ
hội, trở thành những người thụ động.Việc nhà nước can thiệp quá sâu làm cho lễ hội
bị sân khấu hóa bởi các diễn viên nghệ thuật chuyên nghiệp theo một kịch bản có
sẵn do đạo diễn dàn dựng. Một số lễ nghi trong lễ hội cũng bị nhà nước hóa khi có
quá nhiều quan chức chính quyền các cấp đến dự lễ và theo một kịch bản mang tính
hành chính nhà nước. Khuynh hướng này đang làm triệt tiêu tính sáng tạo của dân
chúng, làm cho lễ hội mất đi tính hồn nhiên, sinh động vốn có của một lễ hội dân
gian1.
Quần chúng nhân dân là những đối tượng đã sáng tạo nên lịch sử và văn hóa
vậy có nên hay chăng trong công cuộc bảo vệ và phát huy những giá trị di sản văn
hóa người dân trở thành đối tượng thụ động, bị đặt ra ngoài lề công cuộc này.
Do đó cần đặt ra vấn đề phục dựng lễ hội để gìn giữ giá trị nguyên bản cho lễ
hội và trả lại vai trò chủ thể sáng tạo của lễ hội cho cộng đồng cư dân địa phương.
Từ những lý do trên, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Vai trò của cộng đồng
trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích và lễ hội đền Trần, tỉnh Nam
Định” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào tạo thạc sĩ ngành Việt Nam học tại Viện Việt
Nam học và khoa học phát triển của chúng tôi sẽ góp phần vào việc bảo vệ di tích,
cảnh quan, môi trường, giữ gìn bản sắc dân tộc, chủ quyền quốc gia, quảng bá hình
ảnh đất nước con người Việt Nam, nâng cao ý thức người dân đối với việc phát huy
những giá trị di sản văn hóa, khẳng định vai trò chủ thể của cộng đồng nhân dân với
di tích và lễ hội là những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cấp thiết hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1 Bộ VHTT & DL, Cục DSVH: Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, Hà Nội, 2012, tr.49.

8



Di sản văn hóa luôn được xác định là tài sản vô giá của mỗi dân tộc, mỗi địa
phương và mỗi quốc gia, và cả nhân loại, là bằng chứng sinh động, xác thực, cụ thể
nhất về đặc điểm văn hóa của từng cộng đồng, địa phương, dân tộc. Bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa vừa nhằm mục đích giữ gìn những tinh hoa văn hóa truyền
thống, vừa kế thừa và khai thác giá trị của di sản phục vụ cho quá trình xây dựng
kinh tế - xã hội của đất nước.
Đặc biệt trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay văn
hóa dân tộc nói chung và di sản văn hóa nói riêng đã và đang phải đối mặt với nhiều
thời cơ và thách thức lớn. Nhằm thực hiện mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã có không ít công trình nghiên cứu về bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của các học giả trong và ngoài nước.
2.1 Nhóm nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nước ngoài

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một đề tài nghiên cứu luôn thu
hút được sự quan tâm đông đảo của các học giả. Ở mỗi quốc gia có một sự hình
thành và phát triển văn hóa khác nhau nên chính phủ lại có một phương pháp, cách
tiếp cận vấn đề bảo tồn và phát huy di sản riêng biệt và có những bài học kinh
nghiệm sâu sắc.
Trên phương diện pháp lý, UNESCO đã có Công ước về bảo vệ di sản văn
hóa và thiên nhiên thế giới (năm 1972) sau quá trình thực hiện bảo vệ di sản văn
hóa từ những năm 45 của thập niên 90.
Có thể kể đến như Alfey, J và Putnam, T 2 cũng như Ashworth, G.L và P.J
Larkham3 đã coi di sản như một ngành công nghiệp và cần phải có cách thức quản
lý di sản tương tự với cách thức quản lý của một ngành công nghiệp văn hóa với
những logic quản lý đặc biệt phù hợp với tính đặc thù của di sản. Các nhà nghiên
cứu phương Tây lại cho rằng không thể không đề cập tới phát triển du lịch trong
vấn đề bảo vệ và phát huy di sản như Boniface và Fowler 4 Prentice5,....Họ cho rằng
2 The Industrial Heritage:Maganing Resources and User. Routedge, 1992
3 Building a New Heritage: Tourism, Culture and Identity in the New Europe.Routedge, 1994.
4 Heritage and Tourism in the global village. Routedge, 1993

5 Tourism and Heritage Attractions.Routedge, 1993

9


quản lý di sản và du lịch có thể đem lại lợi ích cho cả du khách cùng cộng đồng sở
hữu các di sản nếu du lịch được điều hành một cách đúng hướng. Bên cạnh đó các
tác giả cũng đặt việc quản lý di sản dưới cách tiếp cận toàn cầu hóa. Ở đó các giá trị
độc đáo của mỗi nền văn hóa cần được lưu giữ, được hỗ trợ bởi Nhà nước trước
những thách thức của sự đồng dạng về văn hóa như Corner và Harvey, Boniface và
Fowler6.
Ngoài ra các tác giả nước ngoài cũng quan tâm đến việc làm thế nào để lưu
giữ được các di sản văn hóa thông qua cách tiếp cận mới và phương pháp kĩ thuật
mới như Moore7 và Caulton8.Năm 2004 tổ chức JICA của Nhật Bản cùng với Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn có nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành
nghề thủ công Việt Nam.
2.2 Nhóm nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong nước

Những nhà nghiên cứu văn hóa như: GS.TS Nguyễn Văn Huyên, Phan
Khanh, GS.TS Ngô Đức Thịnh,GS.TSKH Lưu Trần Tiêu, GS. Vũ Khiêu, Cố GS.
Trần Quốc Vượng,.... là những tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu lớn góp
phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nước ta.
Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, có nhiều công trình nghiên
cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa như: Chương trình khoa học cấp Nhà
nước KX.09 bao gồm Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể Thăng Long
– Hà Nội do PGS.TS Nguyễn Chí Bền chủ biên và Bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể Thăng Long – Hà Nội do PGS.TS Võ Quang Trọng làm chủ
biên. Mỗi nghiên cứu trên đều có những cách nhìn khác nhau tuy nhiên đã nêu rõ
khái niệm, mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, các di sản
văn hóa mà Thăng Long Hà Nội đang sở hữu, kinh nghiệm về bảo tồn và phát huy

giá trị di sản văn hóa của các quốc gia trên thế giới và bài học rút ra cho chúng ta.
Nghiên cứu về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa còn một số
công trình khác như Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam
6 Entersprise and Heritage:Crosscurents of National Culture, Routedge, 1991
7 Museum Management. Routedge, 1997
8 Hands on Exhibitions. Routedge, 1998.

10


đương đại (trường hợp Hội Gióng) là cuốn sách tập hợp các nghiên cứu trong Hội
thảo về Hội Gióng vào tháng 4 năm 2010 do Viện Văn hóa nghệ thuật tổ chức với
quá trình nghiên cứu và sưu tầm hội Gióng ở các địa phương và vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị của lễ hội này.
Hai tập Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam được GS. Nguyễn Văn
Huyên được biên soạn lại vào năm 1996 bao gồm những ghi chép của ông đã cho
người đọc một cái nhìn toàn cảnh về lễ hội truyền thống như Lễ hội Gióng, lễ hội
thờ Phục Man ở Yên Sở,…. cùng một số tục thờ dân gian cùng một số công trình
kiến trúc tiêu biểu vào thế kỷ XIX là những tư liệu vô cùng quý báu để sau này khi
phục dựng lại chúng ta có một lớp căn cứ cơ bản.
Bộ sách Một con đường tiếp cận di sản văn hóa Việt Nam do Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch cùng với Cục Di sản văn hóa biên soạn từ 2005 – 2012 là tập
hợp các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả trên các tạp chí Di sản văn hóa đã
góp phần giải mã một số hiện tượng văn hóa, tiếp cận di sản dưới nhiều góc độ khác
nhau đã một phần hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa
dân tộc, nâng cao tầm nhận thức của mỗi cá nhân.
2.3 Nghiên cứu về di tích và lễ hội đền Trần, tỉnh Nam Định
Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh, sự phối hợp của các cơ quan trung ương, chính quyền địa hương. Sở
VHTT & DL đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, đề tài nghiên cứu, tọa đàm

nhằm từng bước làm sáng tỏ các giá trị lịch sử văn hóa của các di tích, lễ hội, danh
nhân thời Trần tại Nam Định:
Ngày mùng 8,9/9/1995 Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nam Hà (nay là Nam
Định) tổ chức hội thảo khoa học Thời Trần và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn trên quê hương Nam Hà. Hội thảo có 36 tham luận của các nhà nghiên cứu
trung ương đến các vụ, viện nghiên cứu và địa phương Nam Định. Hội thảo đã có
những tham luận nhằm đánh giá vai trò, vị thế của vương triều Trần trong các lĩnh
vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội. Đặc biệt hội thảo đi sâu nghiên cứu
nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, công lao của người anh hùng dân tộc Quốc Công
tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Định.
11


Năm 2006 Sở VHTT Nam Định (nay là Sở VHTT&DL Nam Định) thực hiện
đề tài khoa học cấp tỉnh Lễ hội và các giải pháp quản lý lễ hội trên địa bàn tỉnh
Nam Định nhằm nghiên cứu, đánh giá giá trị, thực trạng và đề ra các biện pháp tích
cực trong việc tổ chức, quản lý và phát huy các giá trị của lễ hội, trong đó có lễ hội
đền Trần tại phường Lộc Vượng, tp. Nam Định.
Ngày 4 tháng 7 năm 2009 được sự đồng ý của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nam
Định và Bộ VHTT & DL, Sở VHTT&DL Nam Định phối hợp với UBND tp. Nam
Định và Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: Lễ
khai ấn đầu xuân tại đền Trần Nam Định giá trị và giải pháp bảo tồn, phát huy
truyền thống văn hóa dân tộc.
Tháng 9 năm 2011 Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nam Định tổ chức hội thảo khoa
học: Luận cứ khoa học tổ chức kỷ niệm 750 năm Thiên Trường – Nam Định. Hội
thảo đã thu hút sự tham gia của nhiều học giả ở trung ương, các nhà nghiên cứu.
Đây là cơ sở khoa học và pháp lý làm tiền đề để năm 2012 UBND tỉnh Nam Định
tổ chức lễ kỷ niệm 750 năm Thiên Trường – Nam Định.
Năm 2012 được sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ VHTT &DL, Sở VHTT & DL
Nam Định phối hợp với UBND tp. Nam Định và Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia

Việt Nam tổ chức cuộc hội thảo Mô hình quản lý và tổ chức lễ hội đền Trần, Nam
Định. Từ khi thực hiện đề án được đề ra trong cuộc hội thảo này đến nay lễ khai ấn
đã được tổ chức trang trọng, đảm bảo nghi thức truyền thống, đặc biệt là công tác an
ninh trật tự đảm đảo, việc chuẩn bị và phát ấn được chuẩn bị chu đáo, đáp ứng được
nhu cầu của đông đảo du khách, không còn hiện tượng chen lấn, xô đẩy như trước.
Là một nhà nghiên cứu rất tâm huyết với triều Trần bởi vậy tác giả Hồ Đức
Thọ có rất nhiều tác phẩm như: Vương phi, công chúa triều Trần; Trần miếu – Di
sản văn hóa, Trần triều Hưng Đạo Đại vương trong tâm thức người Việt...viết về
công trình kiến trúc của di tích và những vị vua anh minh, những vị danh tướng,
hoàng hậu, công chúa của Trần triều.
Tác phẩm “Di tích lịch sử văn hóa đền Trần – chùa Tháp tỉnh Nam Định” của
tác giả Trịnh Thị Nga như một cuốn cẩm nag cho du khách khi hành hương tới đền
Trần – chùa Tháp với cái nhìn tổng quan và bao quát nhất về di tích và lễ hội. Hay

12


luận văn “Khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần, tỉnh Nam Định” của thạc sỹ Vũ Đại
An năm 2008 là những công trình đã khảo tả một cách chi tiết các công trình kiến
trúc và lễ hội đền Trần.
Ngoài ra còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu khác nhằm tôn vinh giá
trị văn hóa, lịch sử của di tích và lễ hội đền Trần.
Có thể thấy các công trình nghiên cứu về quần thể di tích đền Trần rất phong
phú nên đã góp phần mô tả cũng như phác họa rất rõ nét các lễ hội và di tích ở tỉnh
Nam Định nói chung và lễ hội đền Trần nói riêng. Qua đó thể hiện màu sắc và giá
trị độc đáo của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh đương đại.
Tuy nhiên trong những năm gần đây (từ năm 2006 – 2011) với sự phát triển
ngày càng rộng về quy mô của lễ hội đền Trần đã diễn ra thực trạng người dân chen
lấn, xô đẩy nhau để tranh giành lá ấn trong đêm 14 tháng giêng. Do đó lễ hội khai
ấn đền Trần trở thành một trong những điểm nóng về dư luận khi xuất hiện nhiều

bài viết trên các báo như “Hậu duệ nhà Trần: Lá ấn bị hiểu sai” (Báo Tiền Phong),
“Trẩy hội đền Trần và khát vọng xin ấn” (Phạm Thu Hà - Tạp chí Người cao tuổi).
Trước thực trạng đó báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ “Lễ hội và
các giải pháp quản lí lễ hội trên địa bàn tỉnh Nam Định” (Ủy ban nhân dân tỉnh
Nam Định - Sở văn hóa thông tin và du lịch tỉnh Nam Định) năm 2007 và hội thảo
Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định đã kết hợp cùng Bộ Văn hoá thể thao và du lịch
cùng Viện văn hóa nghệ thuật tổ chức hội thảo “Lễ khai ấn đầu xuân tại đền Trần
Nam Định, giá trị và giải pháp bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc”
(năm 2009) nhằm đưa ra giải pháp để bảo tồn các giá trị truyền thống vốn có của lễ
hội đền Trần. Có thể nhận thấy rằng báo cáo tổng hợp đề tài cũng như như những
hội thảo trên chỉ đề cập tới vấn đề quản lý lễ hội, chứ chưa đề cập nhiều tới di tích.
Mặt khác việc quản lý lễ hội được xây dựng từ góc nhìn quản lý nhà nước, chưa đề
cập tới vai trò của người dân địa phương. Trong khi đó làng xã là nơi không gian
văn hóa linh thiêng đó tồn tại và chính người dân địa phương là những người trực
tiếp tham gia vào lễ hội, thực hiện những nghi thức cúng tế và đảm nhiệm những
vai trò chính trong quá trình diễn ra lễ hội lại không được quan tâm, chú trọng.

13


Vì vậy công trình nghiên cứu của chúng tôi không xem xét vấn đề dưới góc
nhìn của các nhà quản lí văn hóa mà đứng dưới góc nhìn của cộng đồng dân cư với
những thành viên trực tiếp tham dự lễ hội và bảo vệ di tích đối với quá trình bảo tồn
và phát huy giá trị di tích và lễ hội đền Trần, tp. Nam Định.

3. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra cái nhìn toàn diện về thực trạng quá trình bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa di tích và lễ hội đền Trần.
Nhận thấy được vai trò của cộng đồng cư dân địa phương cũng như những nhà
quản lí văn hóa của tỉnh trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa.

Thể hiện tầm quan trọng của vai trò nhận thức, tìm hiểu về di sản văn hóa,
tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ để làm đưa nó trở thành biện pháp chính trong
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Qua đó đề xuất một số giải pháp trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa đền Trần, tp. Nam Định nhằm đưa di sản văn hóa này ngày càng thu hút đông
đảo quần chúng, trở thành những giá trị văn hóa tốt đẹp, đưa tín ngưỡng Đức Thánh
Trần trở thành niềm tin tâm linh sâu sắc trong tiềm thức người dân Việt.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vai trò của cộng đồng nhân dân trong quá trình bảo
tồn và phát huy giá trị di tích và lễ hội đền Trần.
Khách thể nghiên cứu: cộng đồng nhân dân trong bao gồm cộng đồng làng
Tức Mặc, cộng đồng cư dân tại phường Lộc Vượng và cộng đồng cư dân tại tp.
Nam Định.
5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần với trọng tâm là ba
ngôi đền chính: đền Cố Trạch – đền Thiên Trường – đền Trùng Hoa tại làng Tức
Mặc, phường Lộc Vượng, tỉnh Nam Định.
Phạm vi thời gian: Số liệu và tài liệu thu thập được từ năm 2001 đến năm 2015.
6. Phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành đề tài nghiên cứu: “Vai trò của cộng đồng trong quá trình bảo
tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần, tỉnh nam Định” chúng tôi tiến hành
14


các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu;
phương pháp điều tra định lượng, định tính; phương pháp hồi cố, phương pháp quan
sát và phương pháp liên ngành để tiến hành thu thập thông tin, số liệu, hình ảnh
nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu của luận văn

6.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu: Đối với các nghiên cứu
trong nước và quốc tế thu thập tư liệu trên cơ sở các sách, bài báo chuyên khảo đã
được công bố tự đó phân loại, hệ thống và hình thành hệ thống thư mục các tài liệu
quan trọng nhất trên cơ sở áp dụng các phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy
được các đặc điểm chung cũng như các đặc trưng riêng hiện trạng di tích, của cộng
đồng xã hội dẫn đến nghiên cứu vai trò của cộng đồng đối với quá trình bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa.
6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp thu thập
thông tin thực địa cơ bản của đề tài. Phiếu trưng cầu ý kiến xây dựng dựa trên cơ sở
của nội dung nghiên cứu để thu thập thông tin tại địa bàn nghiên cứu.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được sử dụng nhằm bổ
sung thêm thông tin định tính cho điều tra định lượng. Các vấn đề không trực tiếp
thu nhận được trong phiếu trưng cầu ý kiến được chúng tôi đưa vào nội dung của
các cuộc phỏng vấn sâu tới các đối tượng có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Cơ
cấu đối tượng được lựa chọn dựa trên cơ sở giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn,
nơi ở sao cho sự phản ánh của thông tin thu được có thể mang tính đại diện cho
tổng thể trong nghiên cứu.
6.4. Phương pháp quan sát: Quan sát kết hợp với phỏng vấn nhanh để tìm
hiểu thực trạng của di tích, nhận thức và nguyện vọng của cộng đồng về các vấn đề
nghiên cứu. Để có thêm cơ sở phục vụ cho những phân tích đánh giá cho nghiên
cứu, tác giả sử dụng phương pháp quan sát trong quá trình đi phỏng vấn bảng hỏi.
6.5. Phương pháp liên ngành: Nghiên cứu vai trò của cộng đồng với quá
trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần, tỉnh Nam Định là sự kết
hợp của những kiến thức hiểu biết của nhóm nghiên cứu về nhiều ngành khoa học
khác nhau như văn hóa, kinh tế, xã hội, lịch sử, địa lý,… để giải thích một số vấn đề
liên quan đến nghiên cứu.
15


7. Đóng góp của đề tài

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu có được chúng tôi mong muốn cung cấp
được một số thông tin cơ bản hữu ích và cần thiết về thực trạng quá trình bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa đền Trần, tỉnh Nam Định (bao gồm di sản văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể) cũng như tìm hiểu về nhận thức, vai trò của cộng đồng đối
với việc bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa đền Trần.
Từ đó có những tác động tới người dân để họ ngày càng tham gia vào hoạt
động bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần nói riêng và các di
sản trên cả nước nói chung. Làm cho chính sách xã hội hóa công tác bảo tồn, trùng
tu và phát huy giá trị di tích ngày càng hiệu quả và hữu ích trong quá trình phát triển
của tỉnh Nam Định.
8. Cấu trúc luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Chương 2: Thực trạng quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần.
Chương 3: Sự tham gia của cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát huy
giá trị di tích, lễ hội đền Trần.

16


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
1.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Là một tỉnh nằm trong đồng bằng châu thổ sông Hồng, Nam Định là vùng đất
có lịch sử hình thành lâu đời. Nơi đây cũng chứa đựng những di sản văn hóa độc
đáo mà tới nay vẫn còn lưu giữ được, đó là đền Trần, chùa Phổ Minh, Phủ Dầy,
chùa Cổ Lễ, nhà thờ Bùi Chu,.... Theo thống kê hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có
1655 di tích lịch sử văn hóa9, có hai tôn giáo lớn là đạo Thiên Chúa và đạo Phật. Có

hơn 700 ngôi chùa và hơn 400 nhà thờ đạo Thiên Chúa. Nam Định còn có hàng
trăm lễ hội truyền thống, trong đó có lễ hội mang tính quốc gia và vùng miền rộng
lớn như lễ hội đền Trần, lễ hội Phủ Dầy.
Dân gian ta có câu: “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Ý thức về Cha
chính là Đức Thánh Trần, Mẹ chính là Mẫu Liễu Hạnh. Vì thế hàng năm vào các
dịp lễ hội tháng Ba, tháng Tám du khách thập phương nô nức kéo nhau về tham dự
lễ hội.
Khu di tích đền Trần – chùa Tháp với những giá trị văn hóa, lịch sử tiêu biểu
đã được công nhận là di tích cấp quốc gia đặc biệt của tỉnh Nam Định, đã và đang
thu hút được sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân. Hành cung Thiên
Trường xưa với vị thế là kinh đô thứ hai sau kinh thành Thăng Long chiếm một vị
trí quan trọng đối với triều Trần dưới thế kỉ XIII - XIV. Sau một thời gian dài do
điều kiện chiến tranh và thiên tai hành cung Thiên Trường xưa không còn nữa. Hiện
nay khu cung điện được dựng trên nền cũ tại làng Tức Mặc, phường Lộc Vượng, tp.
Nam Định, có tên là khu di tích đền Trần. Khu di tích đền Trần bao gồm đền Thiên
Trường (còn gọi là đền Thượng), đền Cố Trạch (còn gọi là đền Hạ) và đền Trùng
Hoa. Xung quanh di tích còn có các địa danh lưu lại dấu ấn với Thiên Trường như
làng Liễu Nha, làng Phương Bông,... mỗi ngôi làng thực hiện một chức năng riêng
biệt đối với hành cung Thiên Trường mà chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây.
9 UBND tỉnh Nam Định, Sở VHTT, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ “Lễ hội và các giải pháp
quản lý lễ hội trên địa bàn tỉnh Nam Định”, năm 2007.

17


Gắn liền với di tích là lễ hội đền Trần với hai dịp chính: lễ khai ấn tổ chức
vào dịp rằm tháng giêng và lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo nhân ngày kỵ của
Đức Thánh Trần tổ chức vào dịp tháng tám hàng năm. Hai lễ hội này đã có từ lâu
đời và vẫn được dân làng Tức Mặc duy trì qua bao thế hệ. Tuy nhiên sau công cuộc
Đổi mới lễ hội khai ấn được phục dựng lại một cách quy mô hơn trước và dần dần

đã được Nhà nước hóa, vượt qua khỏi tính chất của một địa phương, thu hút đông
đảo sự tham gia của quần chúng nhân dân trong, ngoài tỉnh cùng các vị lãnh đạo cấp
cao của Nhà nước. Trong khoảng mười năm trở lại đây, lễ hội khai ấn đã trở thành
điểm nóng của dư luận. Khi gõ từ khóa “lễ khai ấn” trên Google có thể thấy xuất
hiện hàng loạt các bài viết nói về lễ hội này: “Cướp lộc ấn đền Trần, Trèo lên bàn
thờ cướp lộc thì đi lễ để làm gì ?....”. Ngay trước giờ khai ấn đền Trần những năm
trước đây khi trực tiếp quan sát lễ hội tôi chứng kiến cảnh người dân giẫm đạp lên
nhau để ném tiền lên kiệu rước từ đền Cố Trạch sang đền Thiên Trường, cảnh người
dân vượt qua các hàng rào để được vào tham dự lễ khai ấn hay có những người dân
sau một hồi chen chúc vào đền thì ngất đi vì mệt lả,... Nếu như lễ hội là nơi con
người tìm cho mình một chốn giao hòa với thần linh, cầu mong những điều tốt đẹp
cho cuộc sống thì bước vào lễ hội này do sự nhận thức sai lệch, đôi khi là sự mê tín
dị đoan họ đã tự đưa mình đến với những cảnh tượng tiêu cực, gây ấn tượng xấu
cho một lễ hội mang tính quốc gia.
Trước thực trạng di tích và lễ hội những năm vừa qua có quá nhiều tiêu cực,
trong tâm tư chúng tôi thôi thúc đi tìm lời giải đáp cho vấn đề nhận thức của cộng
đồng về một di sản văn hóa và vai trò của cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát
huy giá trị di tích và lễ hội đền Trần. Vấn đề nghiên cứu của chúng tôi dựa trên một
số khái niệm và lý thuyết nghiên cứu như sau.
1.2. Một số khái niệm và hướng tiếp cận lý thuyết nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1.
Khái niệm vai trò cộng đồng
a. Khái niệm “Vai trò”

Vai trò là việc triển khai thực hiện các chức năng những điều kiện kinh tế xã
hội văn hoá mang tính lịch sử xã hội cụ thể bằng việc tổ chức các hoạt động xã hội
để giải quyết những vấn đề nào đó mang lại những lợi ích mà xã hội mong đợi.

18



b. Khái niệm và lý thuyết “cộng đồng”

Trong đời sống xã hội, khái niệm “cộng đồng” được sử dụng một cách tương
đối rộng rãi để chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm tương đối khác nhau về quy
mô, đặc tính xã hội.
Theo nghĩa rộng thì “cộng đồng” là nói đến những khối tập hợp người, các
liên minh rộng lớn như cộng đồng thế giới, cộng đồng Châu Âu, cộng đồng các
nước Asean... Theo nghĩa hẹp hơn thì “cộng đồng” được sử dụng cho các đơn vị xã
hội cơ bản là gia đình, làng, hay một nhóm xã hội nào đó có những đặc tính chung
về lý tưởng xã hội, giới, tuổi, nghề nghiệp, thân phận xã hội.
“Cộng đồng” theo quan niệm Mác-xít là mối liên hệ qua lại giữa các cá
nhân được quyết định bởi sự cộng đồng các loại lợi ích của các thành viên có sự
giống nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp thành
cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của
họ, sự gần gũi giữa họ về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị, chuẩn mực, nền sản xuất,
sự tương đương về điều kiện sống cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các
mục tiêu và phương tiện hoạt động.
Ở nghiên cứu này chúng ta hiểu “cộng đồng” theo quan niệm Mác- xít và
theo nghĩa hẹp, có nghĩa “cộng đồng” ở đây là những người dân cùng sống trong
một làng, một phường, thành phố cùng chung điều kiện sống, những lợi ích mà địa
phương mang lại cho họ, đồng thời cùng chung những mục đích nhất định trong
mối quan hệ hài hòa với mọi người trong cộng đồng.
Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh: “Xã hội loài người có nhiều dạng liên kết, tập
hợp con người thành các loại cộng đồng khác nhau, như liên kết theo huyết
thống (gia đình, dòng họ), liên kết theo cư trú (làng xã, quốc gia...) và liên kết
theo lợi ích (giai cấp, nghiệp đoàn...). Tuy nhiên, hơn tất cả các dạng liên kết hiện
tồn, thì gia đình (nhà) và làng xã là sự kết hợp tập trung nhất các mối quan hệ huyết
thống, cư trú và lợi ích. Trong đó gia đình, gia tộc và mở rộng ra dòng họ là một

dạng liên kết mang tính sinh học, huyết thống, liên kết trên cơ sở cùng cư trú và lợi
ích, còn làng xã là dạng liên kết dựa trên cơ sở cùng cư trú và lợi ích. Do vậy, gia
đình, dòng họ và làng xã là ba dạng liên kết đặc trưng cho xã hội nông nghiệp, nông
19


thôn, hình thành từ lâu đời ngay trong lòng xã hội nguyên thủy, tồn tại trong các
hình thái xã hội có giai cấp tiền công nghiệp và chừng mực nào đó trong xã hội
công nghiệp và hậu công nghiệp.
Từ ba dạng liên kết, ba hình thức tổ chức xã hội nông thôn cơ bản nêu trên
tạo nên các mạng lưới xã hội (social network) khá đa dạng của nông thôn. Mạng
lưới xã hội được hiểu như là mối liên hệ giữa các cá nhân, các nhóm xã hội khác
nhau trong một thực thể xã hội nhất định, dù đó là chính thống hay phi chính thống,
thường xuyên hay bất thường. Các mạng lưới xã hội "chuyên chở" các mối quan hệ
qua lại về kinh tế, xã hội và văn hóa giữa các cá nhân hay nhóm xã hội, bảo đảm
tính liên thông, cân bằng, ổn định, gắn kết của một thực thể xã hội. Mạng lưới xã
hội này thường liên quan tới tính xã hội, gắn kết xã hội và vốn xã hội”. Thể chế xã
hội có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành các mạng xã hội. Trong một thực
thể xã hội nhất định, luôn luôn có sự hiện diện của hai hoạt động mạng lưới xã hội.
Một loại mang tính phi chính thống (phi quan phương). Thí dụ trong nông thôn
Việt Nam cổ truyền các mạng lưới liên quan tới việc mua bán, tương trợ về nông
sản, liên quan tới hoạt động thủy nông của một làng hay liên làng, các quan hệ biếu
xén, quà cáp, các mạng lưới liên quan tới nghi lễ, hội hè, tang lễ, cưới xin, mạng
lưới liên quan đến các nhóm người đồng niên, đồng khóa... Một loại mạng lưới xã
hội khác mang tính chính thống (quan phương), như quan hệ quyền lực (chính
quyền, đảng phái), các tổ chức đoàn thể, hội đoàn... Hai hoạt động mạng lưới xã hội
mang tính chính thống và phi chính thống này thường xuyên xen trộn, hòa quyện,
tương tác, thậm chí xung đột nhau10
Có thể kết luận vai trò của cộng đồng là một quá trình mà trong đó người
dân, tổ chức xã hội, đoàn thể, chính quyền địa phương nhận một số trách nhiệm cụ

thể và tiến hành các hoạt động nhằm đáp ứng những mong đợi của xã hội.
Vai trò của cộng đồng không chỉ đơn giản là huy động nguồn lực cho xã hội
mà yếu tố quan trọng nhất là phải đảm bảo cho những người chịu ảnh hưởng được
tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
10 Ngô Đức Thịnh, Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội cho phát triển trên
tapchicongsan.org.

20


Như vậy theo hai khái niệm trên có thể thấy ngay từ thuở Trần sơ, dòng họ
Trần với nguồn gốc từ những người dân làng chài chuyên đánh bắt cá để mưu sinh,
sau này làm ăn giàu có nên đã có những vị trí nhất định trong triều Lý, giúp nhà Lý
dẹp loạn, khôi phục triều chính. Từ đó từ nhà Lý được chuyển giao sang triều Trần
trong hòa bình mà vẫn thu phục được lòng dân, làm nên thắng lợi của quân dân Đại
Việt trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông cùng sự thịnh trị của chế độ
phong kiến dưới vương triều Trần.
Với tinh thần cố kết cộng đồng dòng tộc, họ Trần luôn phát huy tinh thần yêu
nước, chống giặc ngoại xâm và đồng lòng tri ân với các bậc tiên tổ. Ngày nay dòng
họ Trần tại làng Tức Mặc, phường Lộc Vượng nói riêng và cộng đồng địa phương
tại tp. Nam Định nói chung được coi là những chủ thể chính trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa đền Trần, tp. Nam Định. Vậy cộng đồng này đã có
những hoạt động như thế nào nhằm thực hiện tốt vai trò của mình trong quá trình
gìn giữ và làm lan tỏa những tinh hoa văn hóa, giá trị lịch sử tiêu biểu để phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2.1.2.

Khái niệm “Bảo tồn và phát huy giá trị di tích”
a. Khái niệm di tích lịch sử văn hoá
Từ trước tới nay trong các văn bản quốc tế, quốc gia và các nhà nghiên cứu

đã nêu ra một số định nghĩa (khái niệm) về di tích lịch sử văn hoá cách mạng.
Chúng tôi tập hợp giới thiệu một số khái niệm cơ bản nhất để tham khảo và vận
dụng:
-

Khái niệm di tích nêu trong Hiến chương Venice (Hiến chương Quốc tế về
bảo tồn và trùng tu di tích và di chỉ 1964). Trong điều 1 của bản Hiến
chương: Khái niệm di tích lịch sử không chỉ là một công trình kiến trúc đơn chiếc
mà cả khung cảnh đô thị hoặc nông thôn có chứng tích của một nền văn minh riêng,
một phát triển có ý nghĩa, hoặc một sự kiện lịch sử. Khái niệm này không chỉ áp
dụng với những công trình nghệ thuật to lớn mà cả đối với những công trình khiêm
tốn hơn vốn đã cùng với thời gian thâu nạp được một ý nghĩa văn hoá.
Khái niệm nêu ra trên đây chúng ta nhận thấy chủ yếu tập trung vào các
công trình kiến trúc, hoặc tổng thể công trình kiến trúc lớn (đô thị) ngoài ra còn đề

21


cập đến các công trình khiêm tốn hơn, nhưng cùng với thời gian khi đã thâu nạp
được ý nghĩa văn hoá cũng trở thành di tích. Trường hợp như những công trình
kiến trúc nhà ở dân gian, có một thời kỳ nào đó trong lịch sử phát triển loại hình
kiến trúc này rất phổ biến nhưng sau đó do đời sống kinh tế, văn hoá phát triển,
người dân đã phá đi cải tạo để xây mới đáp ứng đời sống (đặc biệt trong xu thế đô
thị hoá hiện nay).
Trong Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng
cảnh ban hành ngày 4/4/1984, di tích lịch sử văn hoá được quy định như sau: Di
tích lịch sử văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các
tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng như có giá trị văn hoá khác,
hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá xã hội.
Những quy định trên đây có thể hiểu đó là nội dung rộng bao gồm cả di tích

lịch sử văn hoá, các hiện vật bảo tàng, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Chính vv
vậy, sau này trong nội dung của văn bản luật di sản, những khái niệm đã được bóc
tách riêng biệt cho di tích, di vật cụ thể hơn và sát thực hơn và trong Luật Di sản
văn hóa ban hành năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2009 di tích lịch sử văn hóa được
định nghĩa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
b. Khái niệm “Bảo tồn di tích”

Theo điều 4 chương I của Luật di sản: Bảo quản di tích lịch sử văn hóa, danh
lam thắng cảnh, cổ vật, bảo vật quốc gia là những hoạt động khoa học nhằm phòng
ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi những yếu tố
nguyên gốc vốn có của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, cổ vật, bảo
vật quốc gia đó.
Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là “hoạt động giữ gìn một cách an toàn khỏi
sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại” hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là bảo
quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống cấp của kết cấu đó.
c. Khái niệm “phát huy giá trị di tích”

Theo điều 9 chương I của Luật Di sản:
22


1. Nhà nước có chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản nhằm nâng cao đời sống

tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; khuyến
khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa.
2. Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu di sản văn hóa. Chủ sở

hữu di sản văn hóa có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

3. Nhà nước đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Phát huy giá trị di tích có nghĩa là tập trung sự chú ý của công chúng một
cách tích cực tới các giá trị của di tích làm cho đông đảo người biết đến giá trị của
di tích bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua một hình thức nào đó. Cũng
phải nhận thấy rằng quá trình phổ biến những thông tin về giá trị di tích đến với
công chúng có thể diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau.
Phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa ở đây có thể hiểu là truyền đạt những
giá trị mang tính tích cực, có ích cho thời đại, sử dụng có hiệu quả các giá trị vốn có
của di tích vào việc giáo dục truyền thông lịch sử văn hóa thẩm mỹ, khoa học. Đồng
thời trên cơ sở đó tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng, nâng cao ý thức trách
nhiệm bảo vệ di sản văn hóa của cộng đồng.
Mỗi di tích lịch sử văn hóa thường gắn với một địa danh nhất định và địa
điểm đó cũng thường xuyên diễn ra lễ hội gắn với di tích đó. Hoạt động bảo tồn
không chỉ diễn ra với di tích lịch sử văn hóa mà còn là bảo lưu những giá trị lễ hội.
Giá trị văn hóa của lễ hội được coi là những di sản văn hóa phi vật thể.
d. Mối quan hệ của bảo tồn và phát huy giá trị của di tích

Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển ngang bằng các nước trong khu vực và thế
giới giao lưu và hội nhập toàn cầu về mọi mặt là một chủ chương đúng và là con
đường ngắn nhất. Xong một thực tế lại đặt ra với những giá trị văn hoá truyền thống
và bản sắc văn hoá dân tộc khi những luồng văn hóa ngoại nhập từ phương đông và
phương tây vào nước ta một cách tự nhiên.
Di tích lịch sử văn hoá là một bộ phận của di sản văn hoá dân tộc được biểu
hiện ở dạng vật thể. Chúng được tạo ra trong suốt những thời kỳ lịch sử dân tộc, nó

23


khẳng định sự sáng tạo của văn hoá dân tộc, ở chúng là những thông tin quan trọng:

thông tin các giá trị tiêu biểu về khảo cổ học; về những sự kiện lịch sử tiêu biểu
trong quá trình dựng nước, giữ nước; những thông tin về những sự kiện lịch sử tiêu
biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến; những thông tin về thân thế sự nghiệp
của các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá của đất nước, những đóng góp của
danh nhân trong lịch sử phát triển đất nước, dân tộc; những thông tin về giá trị
(phong cách) mỹ thuật truyền thống thông qua các công trình kiến trúc hoặc tổng
thể công trình của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử; những thông tin về những nơi,
địa điểm danh lam thắng cảnh có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu, đồng thời qua đó (địa
chất, địa mạo, đa dạng, sinh học) cung cấp những thông tin nghiên cứu khoa học về
các lĩnh vực nêu trên.
Như vậy có thể thấy bảo tồn và phát huy là hai mặt hoạt động, phải có sự
tương hỗ với nhau. Có thể hiểu bảo tồn là để phát huy giá trị và cũng nhằm tạo khả
năng tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ có điều kiện vật chất và kĩ thuật tốt để bảo tồn di
sản văn hóa tốt hơn. Vấn đề quan trọng là cần tạo sự cân bằng hợp lý giữa bảo tồn
và phát huy các giá trị.
1.2.1.3.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường và toàn
cầu hóa.
Văn hóa Việt Nam hình thành và phát triển trong khu vực Đông Nam Á với
cơ tầng văn hóa gần gũi với phương Nam. Trong quá trình phát triển văn hóa Việt
giao lưu và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của những nền văn hóa lớn trên thế
giới như Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây, Đông Âu,…Bởi vậy dân tộc ta đã tích lũy
được kho tàng di sản văn hóa phong phú và đa dạng
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thời đại. Việt Nam đã thực sự hòa
nhập vào toàn cầu hóa kể từ sau công cuộc Đổi mới năm 1986 với những chính sách
mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào nước ta và quá trình gia nhập ASEAN, WTO.
Tham gia toàn cầu hóa dân tộc Việt Nam đã có cơ hội đón nhận những giá trị mới
về kinh tế, chính trị, văn hóa,…
Đi cùng xu thế toàn cầu hóa là hàng loạt những luồng văn hóa mới du nhập

vào nước ta một cách rất tự nhiên, những giá trị văn hóa mới ra đời, con người càng
24


ngày càng có cái nhìn cởi mở trước mọi vấn đề. Những khung cố kết cộng đồng
truyền thống như kinh tế, chính trị, thậm chí cả ngôn ngữ đang bị phá vỡ. Thực tế
đó đã đưa văn hóa trở thành nhân tố hàng đầu trong sự hiện diện dân tộc. Từ đầu thế
kỉ XX nhà nhân học người Mỹ là Franz Boas đã đưa ra một nhận xét hết sức sâu
sắc: “Mỗi nền văn hóa là một tồn tại độc đáo, hơn thế là một kho báu độc đáo; sự
biến mất của bất cứ nền văn hóa nào cũng làm cho chúng ta nghèo đi”.
Từ ý nghĩa này có thể thấy vai trò của di sản trong xu thế toàn cầu hóa được
thể hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất di sản văn hóa là hiện thân của bản sắc văn hóa,
giữ gìn di sản văn hóa chính là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thứ hai di sản văn
hóa là biểu hiện của sự đa dạng và phong phú của văn hóa nhân loại, vì thế giữ gìn
di sản văn hóa dân tộc là giữ gìn sự phong phú đa dạng của văn hóa nhân loại.
Có thể nói chưa bao giờ quy mô giao lưu lại mở rộng đến như vậy. Chúng ta
có thể cùng một thời điểm giao lưu với nhiều nền văn hóa có trình độ phát triển
khác nhau trên thế giới bởi những phương thức giao lưu cũng rất đa dạng, thậm chí
khó có thể quan sát được. Không chỉ giao lưu qua tiếp xúc trực tiếp, trao đổi các giá
trị văn hóa mà còn qua con đường thương mại, qua sự phân công lao động toàn cầu
và đặc biệt là qua các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, internet,

Trong quá trình giao lưu giữa các quốc gia nhân loại ngày càng coi trọng tính
khác biệt, coi trọng bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, phản đối khuynh hướng đồng
nhất văn hóa, đồng hóa về văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thì bản sắc
văn hóa và sự đa dạng về văn hóa là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia. Nếu xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa giao lưu và hội nhập với việc gìn giữ bản sắc dân tộc sẽ
mở đường cho văn hóa phát triển, đồng thời đảm bảo điều kiện cho sự phát triển
bền vững.
Chính vì vậy mà quốc gia nào cũng có các cơ chế, chính sách để bảo vệ và

phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc mình. Các giá trị văn hóa không chỉ có tác
dụng hình thành nhân cách con người mà còn là những tiêu chí điều chỉnh hành vi
con người theo hướng chân, thiện, mỹ. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy di sản

25


×