Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.17 KB, 11 trang )

III.
Không ngạc nhiên rằng học giả hay chuyên gia thực sự và người làm các công việc thực tiễn thường
coi khinh người trí thức, không thích thừa nhận quyền lực của anh ta, và cảm thấy phẫn nộ khi
khám phá ra điều đó. Xét từng cá nhân một, họ thấy giới trí thức hầu hết là những người chẳng có
hiểu biết gì đặc biệt sâu sắc và đánh giá của họ về các vấn đề họ hiểu cho thấy ít dấu hiệu của sự
uyên thâm đặc biệt. Nhưng sẽ là sai lầm chết người khi đánh giá thấp quyền lực của họ vì lí do này.
Cho dù kiến thức của họ thường hời hợt và trí tuệ của họ có hạn thì điều này không làm thay đổi sự
thực rằng chính đánh giá của họ mới là nhân tố chủ yếu quyết định quan điểm mà xã hội sẽ hành xử
trong tương lai không quá xa. Không cường điệu khi nói rằng, một khi bộ phận tích cực hơn của
giới trí thức đã ngả theo một tập hợp các niềm tin thì điều tiếp theo sẽ là một quá trình hầu như tự
động và không thể cưỡng lại được, theo đó những niềm tin này nói chung sẽ được [quần chúng]
chấp nhận. Những trí thức này là những phần tử hữu cơ mà xã hội hiện đại đã sản sinh ra để truyền
bá tri thức và tư tưởng, và chính các xác tín (convictions) và ý kiến của họ mới là bộ phận hoạt
động giống như một chiếc sàng mà tất cả các quan niệm mới phải lọt qua trước khi có thể đến được
với quần chúng.
Bản chất công việc của người trí thức là anh ta phải dùng tri thức và xác tín của riêng mình để thực
hiện nhiệm vụ hàng ngày. Anh ta duy trì được địa vị của mình bởi vì anh ta sở hữu, hoặc hàng ngày
phải sử dụng, loại tri thức mà người chủ của anh ta nói chung không có, và vì thế những người khác
chỉ có thể chi phối các hoạt động của anh ta ở mức độ giới hạn. Và chính vì giới trí thức hầu hết là
những người trung thực về mặt trí tuệ nên một điều không thể tránh khỏi là họ sẽ theo các xác tín
của chính mình bất cứ khi nào họ được tự do làm theo ý mình và họ sẽ đưa ra một định kiến tương
ứng đối với mọi thứ qua tay họ. Ngay cả khi việc định hướng chính sách nằm trong tay các nhà hoạt
động thực tiễn với những quan điểm khác nhau thì nói chung việc thực hiện chính sách vẫn sẽ nằm
trong tay các trí thức, và thông thường thì quyết định về chi tiết là cái xác định kết quả cuối cùng.
Chúng ta thấy điều này được minh họa hầu như trong tất cả các lĩnh vực của xã hội đương thời. Các
tờ báo do chủ “tư bản” sở hữu, các đại học do các hội đồng quản trị “phản động” chỉ huy, các hệ
thống truyền thông do các chính phủ bảo thủ sở hữu, đều được biết đến như là những cơ quan tác
động đến dư luận theo hướng chủ nghĩa xã hội, bởi vì đấy đã là xác tín của nhân viên. Điều này
thường xảy ra không chỉ bất chấp, mà thậm chí có lẽ bởi vì, các nỗ lực của những người ở trên đỉnh
muốn kiểm soát dư luận và áp đặt các nguyên tắc chính thống.
Ảnh hưởng của việc sàng lọc các tư tưởng thông qua các xác tín của một tầng lớp mà tự gắn mình


vào những quan điểm nhất định chẳng hề bó hẹp chỉ trong phạm vi quần chúng. Ngoài lĩnh vực
chuyên môn của mình, chuyên gia nói chung cũng không kém phụ thuộc vào tầng lớp này và hiếm
khi tránh khỏi việc bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn của họ. Kết quả của việc này là, ngày nay trong
hầu hết các thành phần của thế giới phương Tây, ngay cả những người chống đối chủ nghĩa xã hội
quyết liệt nhất, cũng tìm thấy nguồn gốc tri thức của mình từ các nguồn xã hội chủ nghĩa về hầu
như mọi chủ đề mà họ không có thông tin trực tiếp. Việc càng có nhiều định kiến chung thuộc tư
duy xã hội chủ nghĩa thì càng có nhiều mối quan hệ giữa hệ tư tưởng này với các kiến nghị thực tiễn
chẳng hề hiển nhiên ngay lập tức, và hậu quả là nhiều người mặc dù tin mình là những người chống
đối kiên quyết đối với hệ tư tưởng đó thực ra lại trở thành những người truyền bá hữu hiệu các tư
tưởng đó. Ai mà lại không biết việc những người hành động thực tiễn, trong lĩnh vực riêng của
mình thì lên án chủ nghĩa xã hội là “thối tha độc hại” nhưng, khi bước ra khỏi chủ đề của mình thì
lại tuôn ra chủ nghĩa xã hội như bất cứ nhà báo cánh tả nào?
Không ở trận tuyến nào mà ảnh hưởng vượt trội của giới trí thức xã hội chủ nghĩa lại mạnh mẽ suốt
trong một trăm năm qua bằng ảnh hưởng lên các mối quan hệ giữa các nền văn minh dân tộc khác
nhau. Sẽ vượt quá giới hạn của bài viết này để truy tìm các nguyên nhân và tầm quan trọng của sự
thực rất quan trọng rằng trong thế giới hiện đại giới trí thức hầu như là chiếc cầu nối duy nhất để
hình thành một cộng đồng quốc tế. Đây mới chính là nhân tố chủ yếu để giải thích cảnh tượng lạ


thường rằng, trong nhiều thế hệ, phương Tây – nơi được xem là “tư bản chủ nghĩa” – lại đi ủng hộ
vật chất và tinh thần hầu như chỉ riêng cho các phong trào ý thức hệ ở các nước tít tận phương
Đông, nơi mong muốn làm xói mòn nền văn minh phương Tây; và rằng, đồng thời, thông tin mà
công chúng phương Tây nhận được về các sự kiện ở Trung và Đông Âu hầu như không thể tránh
khỏi bị một thiên kiến xã hội chủ nghĩa tô vẽ. Nhiều hoạt động “giáo dục” của các lực lượng Mĩ
đóng tại Đức đã cung cấp các ví dụ rõ ràng và mới mẻ về xu hướng này.


IV.
Vì thế, việc hiểu đúng các lí do khiến cho nhiều người trong giới trí thức có xu hướng ngả theo chủ
nghĩa xã hội là hết sức quan trọng. Ở đây, điểm đầu tiên mà những người không chấp nhận khuynh

hướng tư tưởng này phải thẳng thắn đối mặt là, chẳng phải các lợi ích bản thân cũng chẳng phải các
ý định xấu xa, mà chủ yếu là các xác tín trung thực và các ý định tốt đẹp mới là những cái quyết
định quan điểm của giới trí thức. Quả thực, cần phải công nhận rằng, xét về tổng thể, người trí thức
điển hình ngày nay càng dễ trở thành một người xã hội chủ nghĩa nếu anh ta càng được dẫn dắt bởi
thiện ý và trí tuệ, và rằng trên bình diện lí lẽ trí tuệ thuần túy anh ta nói chung sẽ có khả năng chứng
tỏ mình giỏi hơn đa số các đối thủ của mình bên trong tầng lớp mình. Nếu chúng ta vẫn nghĩ rằng
anh ta sai thì chúng ta phải thừa nhận rằng đó có lẽ phải là sự sai lầm đích thực (genuine error)
khiến cho những người có ý tốt và thông minh, nắm giữ các địa vị then chốt trong xã hội của chúng
ta lại đi truyền bá các quan điểm mà đối với chúng ta là một mối đe dọa đối với nền văn minh của
nhân loại [1] . Không có gì quan trọng hơn là phải cố gẳng hiểu được những nguồn gốc của sai lầm
này để chúng ta có khả năng chống lại nó. Thế mà những người nói chung được coi như là các đại
diện của trật tự hiện hành và những người tin rằng họ hiểu được các mối nguy hiểm của chủ nghĩa
xã hội lại thường còn rất xa mới nắm bắt được điều này. Họ có khuynh hướng coi giới trí thức xã
hội chủ nghĩa chẳng là gì hơn một lũ mọt sách cấp tiến thay vì đánh giá cao ảnh hưởng của họ và,
bằng toàn bộ thái độ của mình đối với họ, lại có khuynh hướng đẩy họ lún sâu hơn vào việc chống
đối trật tự hiện hành.
Muốn hiểu được khuynh hướng tư tưởng lạ kì này của một phần lớn giới trí thức, chúng ta phải làm
rõ hai điểm. Thứ nhất, thông thường họ xét đoán tất cả các vấn đề cụ thể chỉ dưới ánh sáng của các
tư tưởng chung nào đó; thứ hai, các sai lầm đặc trưng của bất cứ thời đại nào thường xuất phát từ
một số chân lí mới đích thực được khám phá ra ở thời đại ấy, và chúng là các áp dụng sai lầm của
những khái quát hóa mới vốn được chứng tỏ là có giá trị trong các lĩnh vực khác. Kết luận của
chúng ta sau khi cân nhắc đầy đủ các thực tế này là: việc bác bỏ thuyết phục các sai lầm như vậy sẽ
thường đòi hỏi sự tiến bộ trí tuệ hơn nữa, và thường là sự tiến bộ về các điểm rất trừu tượng và có
vẻ rất xa các vấn đề thực tiễn.
Có lẽ nét đặc trưng nhất của người trí thức là: anh ta phán xử các tư tưởng mới không phải bằng các
phẩm tính cụ thể của chúng mà bằng sự sẵn sàng ăn khớp của chúng với những quan niệm chung
của anh ta, với bức tranh về thế giới mà anh ta cho là hiện đại hay tiên tiến. Thông qua ảnh hưởng
của chúng đối với anh ta và đối với sự lựa chọn ý kiến của anh ta về các vấn đề cụ thể, quyền lực
của các tư tưởng đối với cái thiện và cái ác tăng lên tỉ lệ thuận với tính tổng quát, tính trừu tượng,
và thậm chí tính mơ hồ của chúng. Khi anh ta biết ít về các vấn đề cụ thể, tiêu chuẩn của anh ta phải

nhất quán với các quan điểm khác của anh ta và phải phù hợp để gắn kết được vào một bức tranh
mạch lạc về thế giới. Thế nên, việc lựa chọn này từ vô số tư tưởng mới phô bày ra ở mọi thời điểm
tạo ra bầu không khí đặc trưng về quan điểm, cái Weltanschauung (thế giới quan) thống lĩnh của
một thời kì, cái sẽ thuận lợi cho sự chấp nhận một số quan điểm và không thuận lợi cho các ý kiến
khác, và cái sẽ làm cho người trí thức sẵn sàng chấp nhận một kết luận và bác bỏ kết luận khác mà
không cần phải có hiểu biết thật sự về các vấn đề.
Trong một số khía cạnh người trí thức thực ra gần với triết gia hơn là với bấy cứ nhà chuyên môn
nào, và theo một nghĩa sâu xa hơn triết gia là một loại ông hoàng trong giới trí thức. Tuy ảnh hưởng
của ông ta là xa vời với công việc thực tiễn và vì thế chậm hơn và khó lần ra dấu vết hơn ảnh hưởng
của người trí thức thường, nó cùng loại và về dài hạn thậm chí có tác động mạnh hơn ảnh hưởng
của người trí thức thường. Đối với cả hai người, chính cùng nhiệt huyết hướng tới một sự tổng hợp,
nhưng với triết gia thì được theo đuổi một cách có phương pháp hơn, cùng sự đánh giá về những
quan điểm cụ thể ở chừng mực mà chúng khớp với một hệ thống tư duy chung thay vì bằng các
phẩm tính cụ thể của chúng, và cùng là sự cố gắng vì một thế giới quan nhất quán, là những cái tạo
cơ sở chính yếu để chấp nhận hay bác bỏ các tư tưởng. Vì lí do này triết gia có lẽ có một ảnh hưởng


mạnh hơn đối với giới trí thức so với bất cứ học giả hay nhà khoa học nào khác và, hơn bất cứ ai
khác, là người xác định phương thức theo đó giới trí thức thực hiện chức năng sàng lọc của mình.
Ảnh hưởng đại chúng của chuyên gia khoa học chỉ bắt đầu kình địch với ảnh hưởng của triết gia khi
ông ta không còn là nhà chuyên môn nữa và bắt đầu triết lí về sự tiến bộ của lĩnh vực của mình – và
thường chỉ sau khi ông ta được giới trí thức đẩy lên vì các lí do chẳng liên quan mấy đến thành tựu
khoa học nổi tiếng của ông ta.
Vì thế, “không khí dư luận” của bất cứ thời kì nào về cơ bản là một tập các định kiến chung theo đó
giới trí thức phán xử tầm quan trọng của các hiện tượng và ý kiến mới. Các định kiến này chủ yếu
là những ứng dụng mà theo anh ta thì có vẻ là các khía cạnh quan trọng nhất của các thành tựu khoa
học, một sự chuyển giao sang các lĩnh vực khác cái đặc biệt gây ấn tượng với anh ta khi quan sát
công việc của các nhà chuyên môn. Ta có thể đưa ra một danh mục dài về các mốt và khẩu hiệu trí
tuệ, mà trong diễn tiến của hai hay ba thế hệ đã lần lượt chế ngự tư duy của giới trí thức. Dù đó là
“cách tiếp cận lịch sử” hay lí thuyết tiến hóa, quyết định luận thế kỉ mười chín và niềm tin vào ảnh

hưởng áp đảo của môi trường đối lại với di truyền, lí thuyết tương đối hay lòng tin vào sức mạnh
của vô thức – mỗi một trong những khái niệm chung này đã được biến thành hòn đá tảng để thử
nghiệm các phát kiến mới trong các lĩnh vực khác. Dường như là các tư tưởng này càng ít cụ thể
hay chính xác (hay được hiểu càng kém thấu đáo), thì ảnh hưởng của chúng có lẽ lại càng rộng. Vì
thế đôi khi chính cái không hơn một ấn tượng mơ hồ, hiếm khi được biểu đạt bằng ngôn từ, lại là
cái có được một ảnh hưởng sâu sắc. Những niềm tin kiểu như sự kiểm soát có chủ ý hay sự tổ chức
có ý thức đối với cả các quá trình xã hội thì luôn cho kết quả ưu việt hơn các quá trình tự phát
không được điều khiển bởi đầu óc của một con người, hay kiểu như bất cứ trật tự nào dựa trên một
kế hoạch được đưa ra trước đó hẳn phải tốt hơn trật tự do sự cân bằng của các lực lượng đối trọng
nhau tạo ra, thông qua con đường này đã tác động sâu sắc đến diễn tiến chính trị.
Vai trò của giới trí thức chỉ có vẻ khác hẳn khi mà người ta quan tâm tới sự phát triển của các lý
tưởng xã hội đúng đắn hơn. Ở đây các thiên hướng lạ kì của họ tự biểu lộ trong việc hình thành các
khẩu hiệu của các quá trình trừu tượng hóa, trong duy lí hóa và đẩy đến cực đoan những hoài bão
nhất định nào đó nảy sinh từ sự giao tiếp bình thường của con người. Vì dân chủ là một điều tốt nên
nguyên lý dân chủ càng có thể được đẩy xa hơn thì đối với họ càng có vẻ đưa đến kết cục tốt hơn.
Lý tưởng mạnh nhất trong các tư tưởng chung này, những cái đã định hình sự phát triển chính trị
trong thời gian mới đây, tất nhiên là lý tưởng về bình đẳng vật chất. Nó, một cách đặc trưng, không
phải là một trong những xác tín đạo đức phát triển một cách tự phát, được áp dụng đầu tiên trong
quan hệ giữa các cá nhân cụ thể, mà là một kiến tạo trí tuệ được thai nghén dưới dạng trừu tượng và
có ý nghĩa cũng như khả năng ứng dụng mù mờ trong các trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, nó đã hoạt
động một cách mạnh mẽ như là một nguyên lý chọn lọc giữa các phương án khác nhau của chính
sách xã hội, gây ra một áp lực dai dẳng lên quá trình tổ chức các công việc xã hội mà chẳng ai hình
dung ra được một cách rõ ràng. Rằng một biện pháp cụ thể có khuynh hướng dẫn đến sự bình đẳng
lớn hơn thì có xu hướng được xem như là một kiến nghị mạnh đến mức hiếm còn biện pháp nào
khác được cân nhắc đến. Do đối với mỗi vấn đề cụ thể chính đây là một khía cạnh mà những người
định hướng dư luận có một xác tín rõ ràng nên lý tưởng bình đẳng đã quyết định sự thay đổi xã hội
thậm chí còn mạnh hơn mức độ mà những người chủ trương nó dự định.
Tuy nhiên, các lí tưởng đạo đức không chỉ vận động theo cách này. Đôi khi thái độ của giới trí thức
đối với các vấn đề về trật tự xã hội có thể là hệ quả của những tiến bộ về tri thức khoa học thuần
túy; và trong các trường hợp này, các quan điểm sai lầm của họ về các vấn đề cụ thể trong một thời

gian dường như chứa đựng tất cả uy tín của các thành tựu khoa học mới nhất đứng đằng sau chúng.
Chúng ta không nên ngạc nhiên khi một tiến bộ đích thực về tri thức tự bản thân nó thỉnh thoảng lại
trở thành nguồn gốc của một lỗi lầm mới theo cách thức này. Nếu không có kết luận sai nào tiếp sau
những khái quát hóa mới thì chúng sẽ là những chân lí cuối cùng và chẳng bao giờ cần hiệu chỉnh
lại. Mặc dù, như là một qui luật, một khái quát hóa mới như vậy sẽ chỉ đơn thuần chứa đựng các hệ
quả sai mà có thể rút ra được từ khái quát hoá đó cộng với các quan điểm đã được chấp nhận trước


đây, và như thế sẽ không dẫn tới sai lầm mới, nhưng rất có khả năng là một lí thuyết mới, chỉ vì giá
trị của nó được chứng tỏ bởi những kết luận mới hợp lệ có được từ nó, sẽ tạo ra những kết luận mới
khác mà sẽ bị chứng tỏ là sai lầm bởi sự tiến bộ tiếp theo. Song trong trường hợp như vậy một niềm
tin sai lạc sẽ xuất hiện với tất cả uy tín của tri thức khoa học mới nhất ủng hộ nó. Mặc dù trong một
lĩnh vực khoa học cụ thể mà niềm tin [sai lạc] đó được gắn với mọi bằng chứng khoa học có lẽ đều
chống lại niềm tin đó, nhưng trước tòa án của giới trí thức và dưới ánh sáng của các tư tưởng chi
phối tư duy của họ thì nó vẫn được lựa chọn như là quan điểm phù hợp nhất với tinh thần thời đại.
Vì thế, các nhà chuyên môn có được danh tiếng trong công chúng và có ảnh hưởng rộng rãi sẽ
không phải là những người được các đồng nghiệp trong giới của họ công nhận mà thường là những
người bị các nhà chuyên môn khác coi là chơi nổi (crank), nghiệp dư, thậm chí là lừa lọc, nhưng
dưới con mắt của công chúng nói chung thì họ lại trở thành những nhân vật nổi tiếng nhất trong lĩnh
vực của họ.
Cụ thể là, hầu như không còn nghi ngờ gì nữa rằng cách thức mà con người học được để tổ chức
các lực lượng tự nhiên trong vòng một trăm năm qua đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra một thứ
niềm tin rằng một sự kiểm soát tương tự các lực lượng xã hội sẽ mang lại những tiến bộ tương
đương trong điều kiện [xã hội] loài người. Một kết luận rằng, với việc áp dụng những biện pháp kĩ
nghệ (engineering techniques), việc điều khiển tất cả các hình thức hoạt động của con người trong
xã hội theo một kế hoạch thống nhất sẽ mang lại thành công như nó đã thành công trong vô vàn
nhiệm vụ kĩ thuật, có vẻ là một kết luận không phải là không quá hay để quyến rũ được hầu hết
những người phấn chấn bởi thành tựu của lĩnh vực khoa học tự nhiên. Có hai điểm quả thực phải
thừa nhận là, [thứ nhất], để bẻ lại cái giả định chắc chắn dẫn đến việc ủng hộ một kết luận như vậy
thì sẽ cần phải có những lí lẽ mạnh mẽ và [thứ hai], các lí lẽ này vẫn chưa được đưa ra một cách

thỏa đáng. Việc chỉ ra những khuyết điểm của các đề xuất cụ thể dựa trên loại lập luận này là không
đủ. Cái lí lẽ đó sẽ không mất đi sức mạnh của nó cho tới khi chúng ta có thể chỉ ra một cách thuyết
phục vì sao cái đã tỏ ra thành công vang dội đến vậy trong việc đem lại những tiến bộ trong vô vàn
lĩnh vực lại vẫn có những giới hạn đối với tính hữu ích của nó và sẽ trở nên cực kỳ nguy hại nếu
được mở rộng quá các giới hạn này. Đây là một nhiệm vụ vẫn chưa được theo đuổi tới nơi tới chốn
và nó cần phải được hoàn thành trước khi nghĩ tới việc có thể loại bỏ được động lực hướng tới chủ
nghĩa xã hội.
Tất nhiên, đây chỉ là một trong nhiều trường hợp nơi cần thêm tiến bộ trí tuệ để bác bỏ các tư tưởng
có hại trong trào lưu hiện thời, và công cuộc mà chúng ta sẽ tiến tới, xét đến cùng, sẽ được quyết
định bởi việc thảo luận về những vấn đề rất trừu tượng. Sự tin tưởng của một người làm công việc
thực tiễn dựa trên những hiểu biết sâu sắc của anh ta về một lĩnh vực cụ thể rằng các lí thuyết về
chủ nghĩa xã hội mà được suy ra từ những tư tưởng tổng quát hơn sẽ không thể hoạt động được
trong thực tiễn là chưa đủ. Anh ta có thể hoàn toàn đúng, thế nhưng sự chống đối của anh ta sẽ bị
lấn át và tất cả những hậu quả đáng tiếc mà anh ta phỏng đoán từ trước sẽ vẫn diễn ra trừ phi anh ta
nhận được sự ủng hộ từ một bác bỏ thuyết phục đối với idées mères (các tư tưởng thuần tuý [của
chủ nghĩa xã hội]). Chừng nào mà người trí thức có được loại lí lẽ chung tốt hơn, chừng đó những
chống đối hợp lệ nhất đối với một vấn đề nhất định nào đó sẽ bị gạt sang một bên.


V.
Tuy nhiên, đây không phải là toàn bộ câu chuyện. Các lực tác động tới sự tuyển mộ vào hàng ngũ
của giới trí thức cũng hoạt động theo cùng chiều hướng đó và điều này giúp chúng ta giải thích vì
sao lại có quá nhiều người tài giỏi nhất trong số họ lại nghiêng theo hướng chủ nghĩa xã hội. Tất
nhiên, tương tự như giữa các nhóm người khác, giữa các trí thức cũng tồn tại nhiều khác biệt ý kiến;
nhưng có vẻ đúng rằng, xét một cách tổng thể, những người tích cực, có trí tuệ, và độc đáo hơn
trong giới trí thức là những người ngả theo chủ nghĩa xã hội thường xuyên nhất, trong khi những trí
thức chống chủ nghĩa xã hội lại thường có năng lực thấp kém hơn. Điều này đặc biệt đúng trong các
giai đoạn khi các ý tưởng xã hội chủ nghĩa bắt đầu thâm nhập; sau này, dù rằng bên ngoài giới trí
thức vẫn có người có dũng khí bày tỏ những xác tín xã hội chủ nghĩa thì trong lòng giới trí thức áp
lực dư luận ủng hộ chủ nghĩa xã hội lại thường mạnh đến mức khiến một người cần phải có đầu óc

mạnh mẽ và độc lập hơn nhiều để chống lại áp lực đó thay vì gia nhập vào cái mà các bạn hữu của
anh ta cho là các quan điểm hiện đại. Chẳng hạn, chẳng ai vốn quen thuộc với số đông các giáo
chức trong các khoa của các trường đại học (và với quan điểm này đa số các giáo viên đại học có lẽ
phải được phân loại là các trí thức hơn là các chuyên gia), lại có thể quên được sự thực rằng ngày
nay các giáo viên tài giỏi nhất và thành công nhất có nhiều khả năng là những người xã hội chủ
nghĩa hơn, trong khi những người giữ quan điểm chính trị bảo thủ hơn thường là những người
xoàng xĩnh. Điều này tự bản thân nó là một nhân tố quan trọng đẩy thế hệ trẻ hơn vào phe xã hội
chủ nghĩa.
Tất nhiên, người theo chủ nghĩa xã hội xem điều này đơn thuần như là một minh chứng rằng ngày
nay người có trí tuệ hơn có xu hướng trở thành một người xã hội chủ nghĩa. Nhưng đây còn xa mới
là lời giải thích thoả đáng hay thậm chí có vẻ nghe được. Lí do chính của tình cảnh này có lẽ là, đối
với trường hợp của người có tài năng phi thường mà chấp nhận trật tự xã hội hiện thời thì có vô số
xa lộ rộng lớn khác về uy thế và quyền lực mở ra cho anh ta, trong khi đối với người thua thiệt và
bất mãn [với trật tự xã hội hiện thời] thì một nghề trí thức chính là con đường hứa hẹn mang đến
cho anh ta uy thế và quyền lực, góp phần nhiều nhất vào việc đạt được các lí tưởng của mình. Thậm
chí còn hơn thế: người có thiên hướng bảo thủ hơn thuộc nhóm tài năng hàng đầu nói chung sẽ chọn
công việc trí óc (và hi sinh phần thưởng vật chất – một đòi hỏi thường gắn với sự lựa chọn này) chỉ
nếu anh ta hứng thú với nó vì chính nó. Hệ quả là, khả năng để anh ta trở thành một học giả chuyên
sâu cao hơn nhiều so với một trí thức theo cái nghĩa cụ thể của từ này; trong khi đối với người có
đầu óc cấp tiến hơn thì nghề trí thức thường không phải là một phương tiện mà là một mục đích,
một con đường dẫn đến chính xác cái loại ảnh hưởng rộng khắp mà nhà trí thức chuyên nghiệp thực
hiện. Vì thế, có lẽ đây mới chính là một sự thực, thay vì rằng những người có trí tuệ hơn thì nói
chung là những người theo chủ nghĩa xã hội, thì là rằng những người theo chủ nghĩa xã hội chiếm
một tỉ lệ cao hơn hẳn trong số những bộ óc tài giỏi nhất gắn đời mình vào những cái nghề trí thức
này, những nghề làm cho họ có ảnh hưởng quyết định đến công luận trong xã hội hiện đại [2] .
Sự tuyển lựa nhân sự của giới trí thức cũng có quan hệ mật thiết với mối quan tâm chính yếu của họ
về các ý tưởng tổng quát và trừu tượng. Những tư biện về khả năng tạo dựng lại toàn bộ xã hội là
món ăn hấp dẫn người trí thức hơn nhiều so với những cân nhắc thực tiễn và ngắn hạn của những
người muốn hướng tới việc cải thiện từng phần trật tự [xã hội] hiện tồn. Cụ thể, tư tưởng xã hội chủ
nghĩa có được sự quyến rũ đối với thanh niên chủ yếu là vì đặc tính huyền ảo của nó; về khía cạnh

này, chính cái dũng khí dấn thân vào tư duy Utopia (không tưởng) mới là một nguồn sức mạnh đối
với những người xã hội chủ nghĩa, điều mà chủ nghĩa tự do truyền thống đáng buồn là lại thiếu. Sự
khác biệt này có lợi cho chủ nghĩa xã hội, không chỉ bởi vì sự tư biện về các nguyên lí chung tạo ra
một cơ hội thi thố cho trí tưởng tượng của những người không bị vướng bận bởi lượng kiến thức
khổng lồ về các thực tế của cuộc sống hiện tại, mà cũng bởi vì nó thỏa mãn một khát khao chính
đáng muốn có hiểu biết về cơ sở lí luận đằng sau bất kỳ một trật tự xã hội nào và tạo ra khung vực
để thực hiện cái đòi hỏi cấp bách mang tính xây dựng đó – điều mà chủ nghĩa tự do, sau khi đã có
những chiến thắng to lớn, chỉ để lại một vài gợi mở. Người trí thức, do toàn bộ thiên hướng của


mình, không quan tâm đến những chi tiết kĩ thuật hay những khó khăn thực tiễn. Cái hấp dẫn anh ta
là những viễn cảnh rộng mở, cái nhận thức bao quát về trật tự xã hội tổng thể mà một hệ thống được
hoạch định hứa hẹn.
Sự thực này, rằng những tư biện của những người xã hội chủ nghĩa thỏa mãn tốt hơn các sở thích
của người trí thức, đã tỏ ra là tai họa đối với ảnh hưởng của truyền thống tự do. Một khi những đòi
hỏi cơ bản của các cương lĩnh tự do dường như được thỏa mãn thì các nhà tư tưởng tự do cổ điển lại
quay sang các vấn đề chi tiết và thường sao nhãng việc phát triển triết lí tổng quát của chủ nghĩa tự
do. Hậu quả là, triết lí chung đó thôi không còn là một vấn đề sống động, tạo ra khung giới cho tư
biện khái quát. Vì vậy, trong khoảng nửa thế kỉ, chỉ có những người xã hội chủ nghĩa là những
người đưa ra được một thứ gì đó giống như một cương lĩnh tường minh về phát triển xã hội, một
bức tranh về xã hội tương lai mà họ hướng tới, và một tập các nguyên lí chung để chỉ dẫn các quyết
định cho các vấn đề cụ thể. Cho dù, nếu tôi đúng, các lí tưởng của họ chứa đựng những mâu thuẫn
nội tại (inherent contracdictions), và bất kỳ cố gắng nào nhằm đưa chúng vào thực tiễn hẳn phải tạo
ra cái gì đó dứt khoát khác xa cái mà họ kì vọng thì điều này không làm thay đổi thực tế rằng cương
lĩnh cải cách của họ là cương lĩnh duy nhất thực sự đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các thể chế
xã hội trong thời gian gần đây. Chính bởi vì cương lĩnh của họ đã trở thành cái triết lí chung duy
nhất về chính sách xã hội do một nhóm lớn nắm giữ, cái hệ thống hay học thuyết duy nhất nêu ra
các vấn đề mới và mở ra những chân trời mới, nên chúng đã thành công trong việc kích thích trí
tưởng tượng của giới trí thức.
Sự phát triển thực tế của xã hội trong giai đoạn này đã được quyết định, không phải bởi một cuộc

đấu tranh giữa các lí tưởng đối lập nhau, mà bởi sự tương phản giữa tình trạng hiện tồn và một tình
trạng lí tưởng về một xã hội khả dĩ trong tương lai được trình ra trước công chúng chỉ bởi riêng
những người xã hội chủ nghĩa. Đã chỉ có rất ít cương lĩnh khác cung cấp các lựa chọn đích thực khả
dĩ khác. Đa số chúng đơn thuần chỉ là những thỏa hiệp hay các quán trọ nửa đường giữa các loại
cực đoan hơn của chủ nghĩa xã hội và trật tự hiện tồn. Duy nhất điều cần làm để khiến cho hầu như
bất cứ đề xuất xã hội chủ nghĩa nào tỏ ra có lí đối với những loại đầu óc ‘sáng suốt’ vốn bị thuyết
phục một cách bản năng rằng chân lí luôn phải nằm đâu đó giữa các thái cực là để cho ai đó đưa ra
một đề xuất còn cực đoan hơn. Cứ như thể chỉ tồn tại duy nhất một hướng đi cho chúng ta di
chuyển, và câu hỏi còn lại dường như chỉ là điều khiển tốc độ và khoảng cách di chuyển như thế
nào.


VI.
Ý nghĩa của sự quyến rũ đặc biệt mà chủ nghĩa xã hội có được từ đặc tính tư biện của nó đối với
giới trí thức sẽ trở nên rõ ràng hơn nếu chúng ta đối sánh thêm lập trường của nhà lí luận xã hội chủ
nghĩa với lập trường của nhà lí luận tự do theo nghĩa cũ của từ [tức chủ nghĩa tự do cổ điển - ND].
Sự so sánh này cũng sẽ giúp chúng ta rút ra được bất cứ bài học nào từ một sự đánh giá thỏa đáng
về các xung lực trí tuệ đang làm xói mòn những nền tảng của một xã hội tự do.
Khá nghịch lí là, một trong những bất lợi chủ yếu khiến nhà tư tưởng tự do bị mất ảnh hưởng đại
chúng lại có quan hệ mật thiết với sự thực rằng trước khi chủ nghĩa xã hội thực sự xuất hiện anh ta
hẳn đã có nhiều cơ hội hơn để ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định về chính sách hiện thời và do
vậy, sự thực là anh ta không chỉ đã không bị cuốn hút vào công việc tư biện [về các vấn đề] dài hạn,
là cái tạo ra sức mạnh cho những người xã hội chủ nghĩa, mà còn là anh ta, trên thực tế, đã chán nản
với công việc đó bởi vì có vẻ như là bất cứ nỗ lực nào thuộc loại này sẽ làm bớt đi điều tốt đẹp
trước mắt mà anh ta có thể làm được. Mọi quyền lực mà anh ta phải vận dụng để ảnh hưởng đến các
quyết định thực tiễn anh ta đều có được từ thế đứng của anh ta so với các đại diện của trật tự hiện
hành, và thế đứng này sẽ bị nguy hại nếu anh ta dấn thân vào công việc tư biện, thứ quyến rũ giới trí
thức và qua giới này có thể ảnh hưởng đến những sự phát triển trong các giai đoạn dài hơn. Để có
ảnh hưởng tới những người quyền thế, anh ta phải “thực dụng”, “biết điều”, và “thực tế”. Chừng
nào anh ta còn gắn mình với các vấn đề trực tiếp, anh ta còn được tưởng thưởng bằng sự ảnh hưởng,

thành công vật chất, và sự nổi tiếng do những người, ở một chừng mực nào đó, còn chia sẻ quan
điểm chung với anh ta. Nhưng những người này ít có được sự kính trọng đối với những loại công
việc tư biện về các nguyên lí chung vốn định hình bầu không khí trí tuệ. Quả thực là, nếu anh ta
theo đuổi một cách nghiêm túc công việc tư biện [về các vấn đề] dài hạn như vậy anh ta dễ bị mang
tiếng là người ‘không lành mạnh’ hay thậm chí là nửa xã hội chủ nghĩa, bởi vì lẽ anh ta không có ý
đồng nhất trật tự hiện hành với hệ thống tự do mà anh ta muốn hướng tới [3] .
Nếu, bất chấp điều này, anh ta vẫn nỗ lực tiếp tục theo đuổi hướng tư biện chung thì anh ta sẽ mau
chóng phát hiện ra rằng anh ta không còn được an toàn khi kết giao quá mật thiết với những người
có vẻ chia sẻ hầu hết các xác tín của mình và anh ta mau chóng bị cô lập. Quả thực hiện nay có lẽ
còn rất ít các công việc bạc bẽo hơn so với nhiệm vụ cốt yếu về việc phát triển nền tảng triết lí mà
một xã hội tự do nếu còn muốn tiếp tục phát triển nhất thiết phải dựa vào. Do người gánh vác trọng
trách này phải chấp nhận phần lớn khuôn khổ của trật tự hiện tồn nên anh ta sẽ xuất hiện trong con
mắt của đa số những trí thức có đầu óc tư biện hơn chỉ đơn thuần như là một người biện hộ nhút
nhát về những cái như chúng vốn thế; đồng thời anh ta sẽ bị những người làm công việc thực tiễn sa
thải như một nhà lí luận không thực tế. Anh ta không đủ cấp tiến đối với những người biết chỉ cái
thế giới nơi “with ease together dwell the thoughts” (dễ dàng cùng nhau chia sẻ các ý tưởng) và quá
cấp tiến đối với những người chỉ thấy sao mà lại “hard in space together clash the things” (khó chứa
chấp được những thứ gây ra va chạm). Nếu anh ta lợi dụng sự ủng hộ mà anh ta có thể có được từ
những người làm công việc thực tiễn, anh ta hầu như chắc chắn sẽ [cảm thấy mình] tự đánh mất uy
tín đối với những người mà anh ta phụ thuộc vào để truyền bá các ý tưởng của mình. Đồng thời anh
ta cũng sẽ cần phải vô cùng cẩn trọng để tránh xa bất cứ thứ gì giống như sự ngông cuồng hay
cường điệu. Trong khi chưa có nhà lí luận xã hội chủ nghĩa nào được biết đến lại cảm thấy mình tự
đánh mất uy tín với các bạn hữu ngay cả bằng những đề xuất ngu ngốc nhất thì người theo chủ
nghĩa tự do kiểu truyền thống sẽ tự nguyền rủa mình mỗi khi đưa ra một gợi ý không thể thực hiện
được. Thế mà đối với giới trí thức anh ta vẫn được xem là chưa đủ tư biện hay đủ phiêu lưu, và
những đề xuất thay đổi cũng như cải thiện đối với cấu trúc xã hội mà anh ta cần phải đưa ra sẽ có
nội dung có vẻ như là bị hạn chế khi so với cái mà trí tưởng tượng ít bị cản trở hơn của giới trí thức
nhào nặn ra.
Chí ít ở một xã hội trong đó những điều kiện chính yếu cần thiết cho quyền tự do đã có rồi và
những điều mà những cải thiện tiếp theo cần phải quan tâm là những điểm so sánh chi tiết thì cương



lĩnh tự do có thể chẳng còn chút sức mê hoặc nào của một phát minh mới. Việc thấu hiểu được
những cải thiện mà cương lĩnh này mang lại đòi hỏi lượng tri thức về sự vận hành của xã hội hiện
tồn nhiều hơn mức mà người trí thức trung bình có được. Việc thảo luận những cải thiện này cần
phải được tiến hành ở một mức độ thực tiễn hơn so với mức độ cần cho sự thảo luận về các cương
lĩnh cách mạng hơn, vì thế khiến nó có một cục diện kém quyến rũ hơn đối với giới trí thức và có
khuynh hướng đưa vào các yếu tố khiến cho người tham gia thảo luận cảm thấy bị công kích trực
tiếp. Những người mà thực sự am tường sự vận hành của xã hội hiện thời lại thường là người quan
tâm đến việc duy trì các đặc tính khu biệt của xã hội đó, những cái có lẽ không thể bảo vệ được
bằng các nguyên lí chung. Không giống như người đi tìm một trật tự tương lai hoàn toàn mới mẻ và
người thường giao phó mình cho nhà lí luận dẫn dắt, những người mà tin vào trật tự hiện tồn lại
thường xuyên nghĩ rằng họ hiểu nó tốt hơn bất cứ nhà lí luận nào và kết quả là họ có khuynh hướng
bác bỏ bất cứ cái gì khác lạ và có tính lí thuyết.
Sự khó khăn trong việc kiếm tìm sự ủng hộ chân thật và vô tư cho một chính sách có hệ thống vì
quyền tự do không phải là mới. Sự tiếp nhận một cuốn sách mới đây của tôi thường gợi cho tôi nhớ
lại về một đoạn mà Lord Acton đã mô tả từ rất lâu về việc vì sao “trong mọi thời đại những người
bạn chân thành của tự do lại luôn ít ỏi, và những thắng lợi của nó lại luôn là do các thiểu số, những
người đã thắng thế nhờ kết hợp mình với các trợ thủ mà có mục tiêu khác với của riêng mình; và sự
liên kết vốn luôn luôn nguy hiểm này đôi khi đã gây ra tai hại do nó đem đến các nguyên cớ chính
đáng cho những người đối lập tấn công lại...” [4] . Mới đây, một trong những nhà kinh tế học Mĩ tài
ba nhất đang còn sống đã than phiền bằng giọng điệu tương tự rằng nhiệm vụ chính của những
người tin vào các nguyên lí cơ bản của hệ thống tư bản chủ nghĩa là thường xuyên phải chống lại
các nhà tư bản để bảo vệ hệ thống này – thực ra các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa tự do vĩ đại, từ
Adam Smith đến nay, đã luôn luôn biết điều này.
Cản trở nghiêm trọng nhất, phân tách những người làm công việc thực tiễn vốn thực tâm với sự
nghiệp tự do khỏi các thế lực vốn quyết định tiến trình phát triển trong lĩnh vực tư tưởng, là sự ngờ
vực sâu sắc của họ đối với công việc tư biện lí thuyết và khuynh hướng ngả sang tính chính thống
của họ; điều này, hơn bất cứ thứ gì khác, tạo ra một rào cản hầu như không thể vượt qua nổi giữa họ
và những người trí thức mà muốn hiến dâng cho cùng sự nghiệp, những người mà sự giúp đỡ của

họ là không thể thiếu được nếu muốn sự nghiệp thành công. Mặc dù khuynh hướng này có lẽ là tự
nhiên đối với những người bảo vệ một hệ thống bởi vì hệ thống đó đã biện minh được chính nó
trong thực tiễn, và đối với những người ấy sự biện minh (justification) trí tuệ dường như là không
quan trọng, thì đó lại là tai họa cho sự sống còn của hệ thống bởi vì khuynh hướng này bỏ đi sự ủng
hộ mà hệ thống cần nhất. Tính chính thống thuộc bất cứ loại nào, tức bất kỳ sự nguỵ tạo nào theo đó
một hệ thống tư tưởng là chân lý cuối cùng và cần phải được chấp nhận một cách không nghi vấn
như là một tổng thể, là một loại quan niệm chắc chắn đối địch với tất cả giới trí thức, bất kể quan
điểm của họ về các vấn đề cụ thể là thế nào. Bất cứ hệ thống nào mà đánh giá con người căn cứ vào
sự tuân thủ trọn vẹn của họ đối với một tập hợp các quan điểm cố định, theo ‘sự tuyệt hảo’ của họ
hay mức độ mà họ có thể tin cậy được để giữ gìn các quan điểm đã được chấp nhận trên tất cả các
khía cạnh sẽ tự đánh mất đi sự ủng hộ mà nếu thiếu nó thì chẳng tập hợp tư tưởng nào có thể duy trì
được ảnh hưởng của mình trong xã hội hiện đại. Khả năng để phê phán các quan điểm đã được chấp
nhận, để khai phá các triển vọng mới và để trải nghiệm những quan niệm mới, tạo ra bầu không khí
mà thiếu nó thì người trí thức không thể hít thở. Một sự nghiệp không tạo ra môi trường để nuôi
dưỡng các nhu cầu này sẽ không thể nhận được sự ủng hộ nào từ anh ta và vì thế bị tất bị thất bại
trong bất cứ xã hội nào mà, chẳng hạn như xã hội chúng ta, tựa trên các dịch vụ của anh ta.


VII.
Có lẽ là một xã hội tự do như chúng ta vốn đã biết mang trong mình các lực tự hủy hoại chính nó,
rằng một khi đã giành được quyền tự do nó được coi như là dĩ nhiên và thôi không còn được coi
trọng, và rằng sự phát triển tự do của các tư tưởng, điều cốt yếu của một xã hội tự do, sẽ có xu
hướng hủy hoại các nền tảng mà nó phụ thuộc vào. Không có mấy nghi ngờ rằng ở các nước tương
tự như Hoa Kì lí tưởng về quyền tự do ngày nay thực sự kém hấp dẫn giới trẻ so với ở các nước nơi
họ đã biết được ý nghĩa của nó khi mất nó. Mặt khác, có dấu hiệu rõ ràng là ở Đức cũng như nơi
khác, nơi thanh niên chưa bao giờ biết đến một xã hội tự do, nhiệm vụ xây dựng một xã hội tự do có
thể trở nên lí thú và quyến rũ như bất cứ cương lĩnh xã hội chủ nghĩa nào đã xuất hiện trong một
trăm năm vừa qua. Có một sự thực khác thường, dù là sự thực mà nhiều du khách đã trải nghiệm,
rằng khi ai đó nói chuyện với các sinh viên Đức về các nguyên lí của một xã hội tự do,anh ta bắt
gặp một cử tọa nhanh nhạy hơn và thậm chí nhiệt tình hơn so với anh ta có thể hi vọng tìm thấy ở

bất cứ nền dân chủ phương Tây nào. Tại Anh quốc cũng đã xuất hiện trong thanh niên một mối
quan tâm mới về các nguyên lí của một chủ nghĩa tự do thật sự, điều chắc chắn đã không tồn tại vài
năm trước.
Phải chăng điều này có nghĩa là quyền tự do chỉ được coi trọng khi nó bị đánh mất, rằng thế giới ở
mọi nơi phải kinh qua một pha tăm tối của chủ nghĩa toàn trị xã hội chủ nghĩa trước khi các lực
lượng tự do có thể lại lấy lại được sức mạnh? Có thể là thế, nhưng tôi hi vọng không nhất thiết phải
vậy. Thế nhưng, chừng nào trong các giai đoạn dài hơn những người quyết định công luận vẫn tiếp
tục bị lôi cuốn bởi các lí tưởng của chủ nghĩa xã hội thì chiều hướng đó sẽ còn tiếp tục. Nếu chúng
ta muốn tránh một sự tiến triển như vậy, chúng ta phải có khả năng đưa ra một cương lĩnh tự do mới
có sức quyến rũ trí tưởng tượng. Chúng ta phải khiến cho việc xây dựng một xã hội tự do một lần
nữa là một công cuộc phiên lưu trí tuệ, một sự dấn thân quả cảm. Cái chúng ta thiếu là một Utopia
tự do, một cương lĩnh dường như chẳng phải là một sự bảo vệ đơn thuần các thứ như chúng vốn thế,
cũng chẳng phải là một loại dung dịch pha loãng của chủ nghĩa xã hội, mà là một chủ nghĩa cấp tiến
tự do thật sự, loại chủ nghĩa không có chỗ cho tính dễ tự ái của kẻ hùng mạnh (kể cả các công
đoàn), không quá thực tiễn một cách khắt khe, và không giới hạn mình ở cái ngày nay tỏ ra là khả dĩ
về mặt chính trị. Chúng ta cần các lãnh tụ trí thức, những người miễn dịch được với mật ngọt của
quyền lực và ảnh hưởng, và sẵn sàng làm việc cho một lí tưởng, dẫu triển vọng hiện thực hoá trong
giai đoạn trước mắt của nó có nhỏ nhoi đến nhường nào. Họ phải là những người sẵn sàng gắn mình
vào các nguyên lý và tranh đấu vì sự hiện thực hoá chúng một cách đầy đủ, dẫu còn xa đến đâu. Họ
phải để những nhượng bộ thực tiễn cho các chính trị gia. Thương mại tự do và quyền tự do về cơ
hội có lẽ vẫn là các lí tưởng gây phấn khích cho trí tưởng tượng của đông người, nhưng một sự “tự
do thương mại hợp lý” đơn thuần hay một “sự nới lỏng kiểm soát” đơn thuần là những thứ chẳng
đáng trọng về mặt trí tuệ cũng chẳng gây được cảm hứng cho bất cứ sự nhiệt tình nào.
Bài học chủ yếu mà người theo chủ nghĩa tự do chân chính phải học từ sự thành công của những
người xã hội chủ nghĩa là, chính sự dũng cảm của họ để trở thành người Utopia đã khiến họ có
được sự ủng hộ của giới trí thức và vì thế có được một ảnh hưởng lên công luận, cái hàng ngày làm
cho cái chỉ mới đây còn có vẻ hoàn toàn xa vời trở nên có thể. Những người chỉ biết vùi mình vào
cái vẻ thực tiễn của tình trạng dư luận hiện hành thường xuyên thấy rằng ngay cả điều này cũng
mau chóng trở thành không thể trên khía cạnh chính trị do những sự thay đổi trong công luận, cái
mà họ đã chẳng làm gì để định hướng. Viễn cảnh của tự do quả thực vẫn còn đen tối trừ phi chúng

ta có thể làm cho những nền tảng triết lí của một xã hội tự do một lần nữa lại trở thành một chủ đề
trí tuệ sống động, và việc thực hiện nó trở thành một nhiệm vụ thách thức tài khéo léo cũng như trí
tưởng tượng của những cái đầu hoạt bát nhất của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta có thể lấy lại niềm
tin vào sức mạnh của các tư tưởng, cái đã là biểu tượng của chủ nghĩa tự do ở đỉnh điểm của nó,
cuộc chiến vẫn chưa bị thua. Sự nghiệp phục hưng trí tuệ của chủ nghĩa tự do đã lên đường ở nhiều
nơi trên thế giới rồi. Liệu có kịp thời không?


[1]

Chính vì thế (như đã được gợi ý bởi một nhà phê bình cuốn Con đường tới nô lệ, giáo sư J.
Schumpeter), không phải là “sự tôn trọng đối với một sai lầm” mà là sự xác tín sâu sắc về tầm quan
trọng của điều này đã dẫn tôi, theo lời giáo sư Schumpeter, “hầu như không bao giờ gán cho các đối
thủ bất cứ gì ngoài lỗi lầm trí tuệ”.
[2]
Liên quan đến việc này là một hiện tượng quen thuộc khác: có ít lí do để tin rằng cộng đồng
những người không phải Do Thái lại có tỷ lệ ít ỏi hơn những người có tài năng trí tuệ thực sự hàng
đầu để tạo ra công trình khai nguồn so với cộng đồng người Do Thái. Tuy thế, hầu như không mấy
ai nghi ngờ việc những người thuộc dòng dõi Do Thái ở hầu như tất cả mọi nơi chiếm một tỷ phần
lớn không cân xứng trong giới trí thức theo định nghĩa của chúng ta, tức là những người phiên dịch
tư tưởng chuyên nghiệp. Đây có lẽ là thiên phú đặc biệt của họ và tất nhiên nghề này là cơ hội chủ
yếu của họ ở những nước có định kiến cản trở họ trên con đường chiếm lĩnh các lĩnh vực khác. Lý
do họ chiếm một tỉ lệ lớn đến vậy trong giới trí thức có lẽ là một lý do hợp lý hơn cả để giải thích
việc họ có vẻ tiếp nhận các tư tưởng xã hội chủ nghĩa dễ dàng hơn nhiều so với những người thuộc
dòng dõi khác.
[3]
Thí dụ nhãn tiền nhất mới đây về kiểu qui kết như vậy là việc một số bình luận về tác phẩm Chính
sách kinh tế cho một xã hội tự do (Economic Policy for a Free Society) (1948) của Henry Simons đã
quá cố cho rằng công trình vốn có hơi hướng tự do phi chính thống này là “xã hội chủ nghĩa”. Một
ai đó không nhất thiết phải đồng ý với tất cả nội dung của công trình này, và thậm chí một ai đó có

thể coi một số gợi ý trong đó là không tương thích với một xã hội tự do, nhưng vẫn cần phải thừa
nhận rằng nó là một trong những đóng góp quan trọng nhất được đưa ra gần đây cho vấn đề của
chúng ta và đúng là loại công trình mà đòi hỏi chúng ta cần phải bắt đầu thảo luận từ những vấn đề
nền tảng. Ngay cả những người kịch liệt không chấp nhận một số gợi ý của nó cũng nên hoan
nghênh tiếp nhận nó như là một đóng góp nêu ra được các vấn đề trung tâm của thời đại chúng ta
một cách rõ ràng và dũng cảm.
[4]
Acton, The History of Freedom, I (1922)



×