Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tieu luan cao học môn TTHCM- xây dựng nền văn hóa việt nam trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.38 KB, 38 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà từ năm 1923, nhà báo Xôviết Ôxíp
Manđenxtam đã tiên đoán rằng:…từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa,
không phải như văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai.
Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho thấy
rằng, Người đã đấu tranh không mệt mỏi, hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc Việt Nam và vì sự tiến bộ, văn minh của nhân loại. Vì sự
cống hiến lớn lao ấy Người đã được UNESCO ghi nhận hai danh hiệu cao
quý: "Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất thế giới".
Hồ Chí Minh - Bác Hồ kính yêu - là người Việt Nam đẹp nhất, Việt
Nam hơn bất cứ người Việt Nam nào hết, vì nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí
Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt
Nam và tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc
trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu
biết lẫn nhau.
Với tầm vóc một danh nhân văn hóa thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã để lại cho dân tộc một di sản tư tưởng vô cùng quý báu về nhiều lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực văn hóa. Việc tìm hiểu những quan điểm của Người về
văn hóa và vấn đề giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nắm vững
cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện chủ trương của Đảng về
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công
cuộc đổi mới đất nước.
Về vấn đề vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định: Văn hóa là một mặt căn bản của xã hội, trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần phải chú ý đến, cùng phải coi là



2

quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là
một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi,
văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển. Văn hóa là một trong
những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng con người mới, xã hội mới, Hồ Chí Minh
còn đặc biệt nhấn mạnh: "Gốc của văn hóa mới là dân tộc".
Có thể nói, lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam luôn gắn
liền với quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, dân tộc Việt
Nam luôn đặt ra một câu hỏi: Liệu Việt Nam có vững vàng trước sự du nhập
của trào lưu văn hóa ngoại lai. Hiện nay, xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập
văn hóa ngày càng trở nên sâu rộng, văn hóa Việt Nam đang phải đối mặt với
những thách thức lớn liên quan đến sự sống còn của dân tộc, đó là: dưới sự
tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, mặt trái của kinh tế thị trường, sự
chống phá của các thế lực thù địch, thì những thách thức đối với giá trị văn
hóa truyền thống gia tăng. Các nấc thang giá trị có sự thay đổi sâu sắc, làm
cho việc phân biệt "đúng - sai", "tốt - xấu" trong nhiều trường hợp trở nên hết
sức phức tạp. Những yếu tố ngoại lai, lai căng có điều kiện xâm nhập, phát
triển, ảnh hưởng đến đời sống tinh thần xã hội. Những "nọc độc" về văn hóa,
chính trị xâm nhập bằng nhiều con đường, với nhiều hình thức tinh vi khác
nhau, làm cho tư tưởng, đạo đức, lối sống con người dễ bị nhiễm độc. Chủ
nghĩa cá nhân, lối sống vì đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, các tệ nạn xã
hội…có điều kiện phát triển. Vấn đề "bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh
tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội" được đặt ra một cách gắt gao
hơn. Trong bối cảnh đó, nếu không có chiến lược văn hóa phù hợp, thì sự ảnh
hưởng này sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, toàn bộ những giá trị tư tưởng
Hồ Chí Minh vẫn là ngọn hải đăng dẫn đường cho con tàu cách mạng Việt
Nam vượt qua bão tố đến bến bờ tương lai, trong đó có giá trị tư tưởng về văn
hóa và bản sắc văn hóa dân tộc. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,


3

văn minh", cần phải ra sức bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam để đất nước ta bước vào hội nhập quốc tế một cách an toàn và phát triển
bền vững. Theo đó, việc nghiên cứu để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay là một việc làm có ý nghĩa quan trọng.
Căn cứ vào những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài: "Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài
tiểu luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về
vấn đề văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
được in thành sách, đăng tải trên các báo, tạp chí như:
- Võ Nguyên Giáp: "Tư tưởng nhân văn, đạo đức, văn hóa Hồ Chí
Minh", in trong tập "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong: "Hồ Chí Minh - văn hóa và đổi
mới", Nxb Lao động, Hà Nội, 1998; "Về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh",
Nxb Lao động, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Ngọc Quyến: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn đề
bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc"; Tạp chí triết học, tháng 11/2004.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Tìm hiểu những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
làm cơ sở lý luận cho việc vận dụng vào nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa
trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:

Để thực hiện được mục đích trên, tiểu luận có nhiệm vụ:


4

- Tìm hiểu, làm rõ những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa.
- Làm rõ thực trạng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhiệm vụ xây dựng nền văn
hóa trong thời kỳ đổi mới.
- Đề xuất các giải pháp để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Các phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
* Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử).
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp logic, kết hợp với
lịch sử và các phương pháp khác như phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp so sánh đối chiếu...
* Nguồn tài liệu tham khảo:
Là hệ thống quan điểm Mác - Lênin, của các đồng chí lãnh đạo Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề văn hóa và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; các văn
kiện Đảng, đặc biệt là di sản của Hồ Chí Minh, các công trình khoa học của
các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu tư tưởng của Người về văn hóa.
5. Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của tiểu luận gồm 2 chương, 5 tiết.



5

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

1.1. CỘI NGUỒN TƯ TƯỞNG VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Văn hóa dân tộc
Có tác giả nghiên cứu về tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh đã nhận xét:
"Ở Bác Hồ, văn hóa là sự kết tinh văn hóa hàng nghìn năm của đất nước Việt
Nam trên cơ sở đổi mới, kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa nhân loại, tinh hoa
của Secxpia, Victo Huygo, Lỗ Tấn…tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở
đó văn hóa dân tộc đã trở thành cái cơ bản, cái cội rễ của tư tưởng và con
người văn hóa Hồ Chí Minh" [4, tr. 5].
Bắt đầu từ gia đình, quê hương…
Hồ Chí Minh thuở nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 tháng 5
năm 1890 tại thôn Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Người sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học tại vùng đất xứ
Nghệ đầy ắp truyền thống văn hóa. Ngay từ hồi còn nhỏ, Hồ Chí Minh đã
được nuôi dưỡng, bao bọc trong cái nôi ấm áp tình yêu thương, hạnh phúc của
gia đình, tình cảm nồng hậu thủy chung của làng xóm vốn là những nét đẹp
truyền thống văn hóa Việt Nam…
Được sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống hiếu học, giàu
đức hy sinh, giàu lòng yêu nước của ông ngoại Hoàng Xuân Đường, người
cha Nguyễn Sinh Sắc, người mẹ Hoàng Thị Loan, người chị Nguyễn Thị
Thanh (Bạch Liên), người anh Nguyễn Sinh Khiêm (Tất Đạt)… Nhiều bạn bè
thân giao với gia đình Nguyễn Sinh Cung đều là những nhà Nho học rộng, tài
cao và thiết tha yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng… Những con người mà sau này vẫn được ca ngợi là: "Giàu sang
không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn



6

gan". Đồng thời được tắm mình trong môi trường văn hóa xứ Nghệ giàu
truyền thống nhân ái, nhân nghĩa, cách mạng và đậm đà tính dân tộc.
Ở tuổi 21 (1911), từ bến cảng Sài Gòn, với cái tên Văn Ba ra đi tìm
đường cứu nước, hành trang mang theo là vốn văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc, một nền văn hóa tốt đẹp của gia đình, quê hương. Người đã dùng chính
vũ khí dân tộc cao đẹp để chống lại thứ văn hóa của chủ nghĩa thực dân xâm
lược, với mục tiêu không chỉ bảo vệ nền văn hóa của dân tộc Việt Nam mà
còn vì sự phát triển của cả nền văn hóa nhân loại. Và sau biết bao cống hiến
hy sinh vì độc lập tự do dân tộc và sự giải phóng loài người, Hồ Chí Minh đã
trở thành anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất Việt Nam.
Nước có nguồn, cây có cội, con người cũng vậy. Cậu bé Nguyễn Sinh
Cung đã trở thành Hồ Chí Minh vĩ đại bắt đầu chính từ cội rễ là nền văn hóa
dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Nếu như tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam là khởi nguyên, cái cội rễ,
thì tinh hoa văn hóa nhân loại sẽ là nguồn bổ sung hoàn chỉnh cho tầm cao tư
tưởng và nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh.
Quá trình hoạt động cách mạng và trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh
về văn hóa đã thể hiện một luận điểm rất quan trọng, đó là: Nền văn hóa của một
dân tộc phải là kết quả của sự kết hợp truyền thống văn hóa dân tộc với tinh
hoa văn hóa nhân loại và chính Người đã thành công, Người là biểu tượng của
sự tiếp thu và hòa nhập tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại.
Ngay từ nhỏ, được đào tạo theo lối Nho học truyền thống, Hồ Chí
Minh đã đọc nhiều và tiếp thu được nhiều giá trị nhân bản và tinh hoa của văn
hóa Nho giáo, một nội dung lớn của văn hóa Trung Quốc. Khi tiếp thu giáo lý
đạo Khổng, người đã thể hiện tính không thụ động, muốn hiểu biết và muốn

biến những điều trong sách Thánh hiền thành những hành động thực sự trong


7

cuộc sống và chính trong những năm tháng dạy học ở trường Dục Thanh
(Phan Thiết), Người đã vận dụng tư tưởng đạo Nhân của Khổng Tử vào việc
giáo dục lòng yêu quê hương, trọng đạo lý làm người, tình đồng bào ruột thịt,
đùm bọc lẫn nhau, máu chảy ruột mềm… Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh đã
có thái độ rất rõ ràng, phù hợp với đạo lý dân tộc. Người đã từng nói: tuy
Khổng Tử là phong kiến và tuy học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không
tích cực, song chúng ta phải học những điều hay trong đó. Tiếp thu cái đẹp
của Nho giáo: Hồ Chí Minh giáo dục cán bộ, đảng viên ta phải lo trước cái lo
của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ, giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể lay chuyển, sức mạnh không thể khuất phục. Trong các
yếu tố hợp thành nền văn hóa Việt Nam có sự tham gia của văn hóa Ấn Độ
mà một trong những giá trị của nền văn hóa ấy là Phật giáo. Người am hiểu về
đạo Phật, ở Người tràn đầy lòng từ bi, hỉ xả của đạo Phật. Những ngày học
tập ở Huế, đạo Phật đã chiếm một chỗ trong lối sống của Hồ Chí Minh. Người
luôn có một tấm lòng kính mộ chân thành đối với Đức Phật Thích Ca. Đến
với Phật giáo Người đã đến được tư tưởng vị tha, cứu khổ cứu nạn, mưu cầu
hạnh phúc cho loài người, trong đó có dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Phật giáo
được Người tiếp nhận có chọn lọc và nâng cao đã góp phần vào sự phát triển
văn hóa dân tộc, văn hóa nhân loại và sự tiến bộ của lịch sử. Nếu như đến với
Phật giáo, Hồ Chí Minh tìm thấy được lòng từ bi, hỉ xả, thì đến Kitô giáo, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy ở tôn giáo của Jêsu cái ưu điểm là lòng nhân ái cao cả,
Người đã phát hiện ra cái thiện, cái đẹp, cái cốt lõi nhân văn của chúa Jêsu là
biết hy sinh để cứu loài người khỏi ách nô lệ và đưa loài người về hạnh phúc,
bình đẳng, bác ái, tự do. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh: Cũng như Khổng Tử,
Mác, Tôn Dật Tiên, Jêsu cũng muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu

cầu hạnh phúc cho xã hội.
Với hơn 30 năm hoạt động ở nước ngoài, chủ yếu là trung tâm văn
minh châu Âu. Người có điều kiện tiếp cận với những tinh hoa của văn hóa
phương Tây, từ cổ chí kim, qua những tác phẩm bất hủ của những thiên tài


8

như Seechsxpia, Huygo, Tônxtôi, Pruđông, Misơlê… Qua đó Hồ Chí Minh đã
sớm tìm thấy một chủ nghĩa nhân văn, một khát vọng tự do, một tinh thần
chiến đấu không khoan nhượng vì cuộc sống của con người. Đồng thời,
Người đã có những cuộc khảo nghiệm thực tiễn từ tiếp xúc, gặp gỡ các nhà
văn hóa đến việc hòa mình vào cuộc sống của những người dân lao động
phương Tây để hiểu rõ hơn văn hóa và con người phương Tây. Điều đó thực
sự mang lại cho Hồ Chí Minh những tri thức kinh nghiệm, sự hiểu biết lịch
sử, những tình cảm giai cấp, cũng như lòng ngưỡng mộ tinh thần tự do và nỗi
thông cảm sâu sắc đến đời sống cơ cực của những người lao động dưới ách áp
bức vô nhân đạo của những kẻ thống trị. Đối với văn hóa phương Tây, một
mặt Người đã tìm thấy những giá trị quý báu nhất của những cuộc cách mạng
tư sản đấu tranh vì quyền tự do, quyền bình đẳng, bác ái; mặt khác, Người
cũng phê phán "những tư tưởng cộng hòa dân chủ không đến nơi" của cách
mạng tư sản. Điều đó thể hiện tầm nhìn văn hóa sâu sắc của Người. Hồ Chí
Minh là người biết đánh giá và tiếp thu tinh hoa các giá trị văn hóa để có thể
tiếp cận với chân lý mà mình đã đi tìm. Theo đó thu nhận những giá trị văn
hóa phương Tây cần thiết cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc mình, và để
lại cho nhân loại giá trị văn hóa đặc biệt mà những người khác không có được.
Trong các bộ phận cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, chủ
nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ mưu cầu hạnh phúc cho loài người mà còn trang bị phương pháp
luận biện chứng duy vật với tư cách là công cụ nhận thức khoa học để hành

động cách mạng. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin là tiếp thu một hệ tư
tưởng hoàn toàn tiến bộ so với các hệ tư tưởng trước đó. Tính mới mẻ và sự
khác nhau căn bản chính là ở chỗ tư tưởng Mác - Lênin là nguồn sáng hướng
dân tộc Việt Nam tới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ rất sớm Nguyễn
Ái Quốc đã tìm thấy và học tập Lênin: "Không phải chỉ ở thiên tài của Người,
mà chính là coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng,
nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại cao đẹp của Người đã ảnh hưởng


9

lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về
Người không gì ngăn nổi" [5, tr. 232].
Nhờ có sự tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại mà ngay từ
những năm tháng hoạt động cách mạng phương Tây, Nguyễn Ái Quốc đã
nhanh chóng tạo được sự hài hòa trong lối sống giữa phương Đông và phương
Tây; giữa truyền thống và hiện đại; giữa dân tộc và thế giới… Người đã
không đối lập giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, không đối lập giữa
văn hóa truyền thống và hiện đại… Tất cả đều được Người tiếp thu, chọn lọc,
bổ sung và nâng cao nhằm phục vụ cho mục đích cách mạng, cho sự nghiệp
giải phóng con người mà trực tiếp và trước hết là cho cách mạng Việt Nam,
nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.
Những giá trị đó đã nhào luyện trong tư duy và hoạt động thực tiễn
của Hồ Chí Minh mà hình thành và phát triển tư tưởng của Người về văn hóa,
làm cho Người trở thành một nhà văn hóa kiệt xuất và đã có những đóng góp
hơn hẳn của Người vào kho tàng văn hóa nhân loại, đúng như Giám đốc
UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã nhận xét: "Hồ Chí Minh đã
thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hóa vào một nền văn hóa
Việt Nam duy nhất. Người đã làm được việc này nhờ sự hiểu biết sâu sắc và
tôn trọng những đặc điểm văn hóa khác nhau. Người đã hoàn thành nhiệm vụ

ấy, và trong việc làm và lời nói của Người, ta có thể thấy rõ hình ảnh, tư
tưởng của nhà thơ, nhà nghệ sĩ dân ca, những người đem lại nguồn cảm xúc
cho nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Cuộc đời của Người mang ảnh hưởng
của những giá trị truyền thống dân tộc, có những đóng góp vào việc tạo nên
một nền văn hóa Việt Nam hiện đại" [3, tr. 30].
Như vậy, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa bắt nguồn từ
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Hệ tư
tưởng Hồ Chí Minh là tinh hoa trí tuệ của loài người, là sản phẩm văn hóa của
nhân loại được bồi đắp và phát triển qua nhiều thế hệ.


10

1.2. MẤY NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

1.2.1. Những khái niệm cơ bản
Trước hết, văn hóa là một khái niệm đa nghĩa, xuất hiện từ thời cổ đại
cùng với nền văn minh Hy Lạp và La Mã. Cho đến nay khái niệm này đã
được hiểu theo những nghĩa chung nhất như sau:
- Theo gốc chữ Hán, văn là vẻ đẹp (có giá trị), hóa là sự biến đổi
chuyển hóa, sự trở thành có giá trị. Văn hóa là tất cả những gì được chuyển
hóa, biến đổi thành những cái đẹp đẽ, có giá trị.
- Theo gốc từ Latinh, văn hóa xuất phát từ chữ Colo (tôi trồng, tôi
quý, tôi yêu) sau này phát triển thành: Culture, Cultura (nghĩa là vun trồng,
bồi đắp, nuôi dưỡng). Nghĩa là tất cả những gì do con người làm ra để phục
vụ bản thân cuộc sống con người được gọi là văn hóa.
Nhà văn hóa vĩ đại của Ấn Độ - Nêru, trong bài "Văn hóa là gì"
(1958) đã cho rằng: Văn hóa phải chăng là sự phát triển nội tại của một con
người, một dân tộc, văn hóa là làm cho dân tộc có phải hiểu được dân tộc đó
như thế nào và ngược lại.

Mỗi người có một cách đưa ra định nghĩa riêng, nhưng theo cách hiểu
chung nhất: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử theo cái đúng, cái tốt và cái đẹp.
Năm 1982, UNESCO phê chuẩn khái niệm về văn hóa như sau: "Trong
ý nghĩa riêng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng
biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho
con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân


11

một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được
bản thân, tự biết mình, là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét
những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ
và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân" [12, tr. 5-6].
Như vậy, nói ngắn gọn, văn hóa là tổng thể phức hợp về những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, mang tính đặc thù của mỗi dân
tộc. Chỉ có thể phân biệt dân tộc này với dân tộc khác ở văn hóa (hay bản sắc
văn hóa).
Chủ tịch Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ vĩ đại của
dân tộc ta đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo đó
tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu

đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [6, tr. 431].
Với khái niệm trên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra được nguồn gốc của văn
hóa, đó là: văn hóa do con người sáng tạo ra, gắn với con người nền văn hóa
bao giờ cũng có tính nhân văn và tính xã hội, nói tới văn hóa là nói tới mục
đích cuộc sống của loài người, giúp cho con người tồn tại và phát triển, như
vậy, Hồ Chí Minh đã coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra được cấu trúc của văn hóa, văn
hóa tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt, văn hóa gồm tất cả mọi lĩnh vực
của đời sống con người.
Hồ Chí Minh còn dự định xây dựng nền văn hóa dân tộc phản ánh một
cách toàn diện các lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng với 5
điểm lớn:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.


12

2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế.
Khái niệm trên cho thấy, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao
gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa
là động lực giúp con người sinh tồn, văn hóa là mục đích cuộc sống loài người;
xây dựng văn hóa toàn diện, đặt xây dựng "tinh thần độc lập tự chủ" lên hàng đầu.
Như vậy, trong quan điểm xây dựng văn hóa, Hồ Chí Minh cho thấy
mối quan hệ giữa văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế. Đây là một cách nhìn rất
hiện đại và khoa học.
Có thể nói, quan điểm về văn hóa của Hồ Chí Minh vừa là sự kết tinh

các định nghĩa văn hóa trước đó, vừa có sự phát triển và cũng hoàn toàn thống
nhất, phù hợp với quan điểm văn hóa hiện đại. Khái niệm văn hóa của Người
là một khái niệm tương đối hoàn chỉnh, điều đó đã chứng tỏ tầm nhìn sâu sắc
và toàn diện về văn hóa của Hồ Chí Minh.
Những nhà nghiên cứu thế giới khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã
đánh giá rằng: Hồ Chí Minh là một con người kỳ diệu, hiếm thấy, đặc biệt,
bởi: nói đến Hồ Chí Minh là nói đến sự hiện thân cho nền văn hóa tương lai
(nhà báo Xôviết Ôxíp Mandestam). Một học giả người Mỹ cũng đã viết:
Chúng ta gọi Hồ Chí Minh hay Nguyễn Ái Quốc, nhà yêu nước, nhà Nho hay
nhà cộng sản, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng nhất là Nguyễn Ái
Quốc là người đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chống chủ nghĩa thực
dân, điều đó đã đạt đến đỉnh cao văn hóa, đỉnh cao nhân văn loài người.
Và điều này, hai nhà lãnh tụ vĩ đại, đồng thời là hai nhà văn hóa Việt
Nam là Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp đã nói về sự nghiệp lớn lao nhất


13

của Hồ Chí Minh chính là Người đã phát huy được giá trị văn hóa hàng nghìn
năm của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại để xóa đi được vết
nhơ trong lịch sử nhân loại là chế độ thực dân và trả lại cho các dân tộc thuộc
địa một cuộc sống làm người. Đó chính là cuộc sống có văn hóa…
Nói đến danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh là nói đến sự kết hợp chặt
chẽ, nhuần nhuyễn giữa yếu tố truyền thống và văn hóa dân tộc với yếu tố
hiện đại, giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Hồ Chí Minh là
biểu tượng kiệt xuất cho những giá trị đẹp đẽ nhất của dân tộc và nhân loại.
Đó là một con người với một tầm nhìn văn hóa mang tính thời đại
(UNESCO), hay "một cái nhìn xuyên qua lịch sử" (Phạm Văn Đồng).
Hồ Chí Minh là sự tượng trưng cao đẹp cho cốt cách văn hóa dân tộc,
đồng thời Người đã đưa ra được những quan điểm, tư tưởng về xây dựng một

nền văn hóa mới Việt Nam có sự thống nhất giữa yếu tố dân tộc và yếu tố
nhân loại.
Về khái niệm "bản sắc văn hóa", có nhiều cách hiểu khác nhau:
"Bản sắc": "Bản" là gốc, cái tự có, cái thuộc về bản chất, cốt lõi, dòng
chính của một nền văn hóa. "Sắc" là màu, đường nét.
Bản sắc văn hóa là những đường nét tạo ra những đặc trưng lớn của một
nền văn hóa. Bản sắc là cốt cách chứ không phải là cái biểu hiện bề ngoài.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) đã khái quát bản sắc văn hóa Việt Nam bằng một khái niệm: "Bản
sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực, tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng
xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối


14

sống… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc đáo" [2, tr. 56].
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản sắc văn hóa dân tộc
Khái niệm về "Bản sắc văn hóa dân tộc" được nêu trong Nghị quyết
Trung ương 5 hàm chứa những nội dung rất quan trọng. Những nội dung đó
trở thành dòng chủ lưu của dân tộc. Đó cũng chính là sự kế thừa, phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bản sắc văn hóa Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc, bản sắc văn hóa là "thẻ căn cước"
của một dân tộc. Nó là động lực cho sự nghiệp cách mạng, là vũ khí để chống
lại kẻ thù xâm lược, vừa là động lực thúc đẩy sự tiếp xúc và hiểu biết lẫn nhau
giữa các dân tộc, đồng thời để dân tộc Việt Nam có thể hòa nhập với thế giới

bên ngoài để phát triển.
Trong bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân
tộc chân chính là hạt nhân của tinh thần sáng tạo dân tộc. Đây chính là tài sản
có giá trị nhất trong hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Nó là
cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người. Hồ Chí Minh cho rằng: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước" [7, tr. 171].
Hồ Chí Minh coi tinh thần yêu nước của nhân dân ta như một thứ quý
giá. Vì vậy, bổn phận của Đảng là phải ra sức giải thích tuyên truyền, tổ chức,
lãnh đạo làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành vào
công việc yêu nước, công việc kháng chiến. Nhận thức sâu sắc, trọn vẹn về
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, cũng như tinh thần yêu nước của các dân tộc
trên thế giới trước hết và căn bản là thông qua thực tiễn chứ không phải bằng
con đường sách vở. Và trước khi trở về với thế giới "người hiền", bản "Di


15

chúc" thiêng liêng của Người là những dòng cuối cùng kết tinh bản sắc văn
hóa Việt Nam đậm đà chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
đã từng nói: Chúng ta chiến thắng đế quốc là chiến thắng của sự văn minh với
tàn bạo. Văn minh ở đây đồng nghĩa với văn hóa mà hạt nhân là chủ nghĩa
yêu nước. Hồ Chí Minh đã nói tới và sử dụng chủ nghĩa yêu nước như một vũ
khí và Người cũng thường xuyên rèn luyện vũ khí ấy ngày càng sắc bén phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với lòng yêu nước, bản sắc văn
hóa còn là truyền thống nhân nghĩa, yêu thương con người và thủy chung. Với

ý nghĩa đó, Người đã nâng cao đức tính "thương người như thể thương thân"
của dân tộc lên thành "đại nhân", lòng yêu thương nhân dân và nhân loại của
Người không bao giờ thay đổi và trước lúc vĩnh biệt chúng ta, Người để lại
"muôn vàn tình thân yêu cho toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu
thiếu niên và nhi đồng". Lòng thương người - giá trị văn hóa tinh thần lớn của
dân tộc, đã được Hồ Chí Minh tiếp nối và phát huy ở một tầm cao mới. Đức
thương người không chỉ trong hành trang lúc Người ra đi tìm chân lý cách
mạng mà còn theo suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người. Nó vừa là
động lực thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước, vừa là mục tiêu, "ham muốn
tột bậc" của Người, đó là: giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho
con người.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, "thương người" thường đi liền với "vì
nghĩa", đó là một truyền thống tốt đẹp thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc.
Người nhấn mạnh: Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa. Tình
nghĩa ấy đã được Người nâng lên "cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng
bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu, bốn biển một nhà". Chính vì vậy, khi
tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã nhấn mạnh: "Hiểu
chủ nghĩa Mác - Lênin là sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao
nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là chủ nghĩa Mác Lênin được" [10, tr. 662]. Tư tưởng "đại nhân" ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì


16

sự nghiệp giải phóng và vì tự do, hạnh phúc của con người, tin ở lý trí và
phẩm chất của con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển tự do và
toàn diện. Để thực hành "đại nghĩa" cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh trong cả
tư tưởng và hành động luôn đặt cái chung lên trên cái riêng, lấy cái chung làm
tiêu chuẩn, không kể điều ấy nhỏ hay lớn, lợi hay hại cho mình. Việc làm lớn,
nhỏ không phải là thước đo, mà theo Hồ Chí Minh "nhân nghĩa mới là tiêu
chí", nó đã trở thành sức mạnh, lý tưởng, là mạch sống của Hồ Chí Minh

trong suốt cuộc đời cách mạng của Người. Cũng như Nguyễn Trãi, phàm mưu
việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm
đầu, Hồ Chí Minh lấy chữ "nghĩa" để phân rõ bạn thù: Đối với người, ai làm
gì lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn, bất kỳ ai làm hại cho nhân
dân, cho Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động
có lợi cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn, những tư tưởng và hành động có hại
cho Tổ quốc, cho đồng bào là kẻ thù…, điều gì phải thì cố làm cho kỳ được,
dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ.
Tinh thần cộng đồng, lối sống nhân ái, những thuần phong mỹ tục của
bản sắc văn hóa Việt Nam cũng luôn đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để chiến thắng thiên tai, địch họa, con người Việt Nam, từ rất sớm đã
có một tình cảm tự nhiên:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng"
"Người trong một nước" đó là tình cảm cộng đồng tốt đẹp, là sức sống
của dân tộc không gì phá vỡ nổi. Hồ Chí Minh bằng nhiều cách diễn đạt khác
nhau, đã đề cập một cách sâu sắc, đầy đủ và trọn vẹn tình cảm cộng đồng đó
của dân tộc. Người viết: Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều
làng nhóm lại mà thành nước… Người là gốc của nước.
Ngay từ năm 1947, Hồ Chí Minh đã nói đến "đời sống mới" của một
con người, một nhà, một làng và khắp nước, trong trường học, đơn vị bộ đội,


17

các công xưởng, cơ quan… xung quanh hạt nhân của đời sống là cần, kiệm,
liêm, chính, Hồ Chí Minh đã nói đến "thuần phong mỹ tục", cấm hẳn say sưa,
cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người nhắc đến tục ngữ "lá lành đùm lá
rách", "đói cho sạch rách cho thơm". Người nói về cách cư xử đối với đồng
bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn sàng giúp đỡ. Người nhấn mạnh đến việc

cần xây dựng và phát triển "thuần phong mỹ tục", nhưng gắn liền với việc phê
phán bài trừ "đồi phong", "bại tục". Năm 1958, nói chuyện với cán bộ văn
hóa, Người khẳng định: "Nói là khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt,
còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra" [8, tr. 196]. Trong "Di chúc", Người
còn nhắc đến: "Cuộc đấu tranh chống lại những gì đã cũ kĩ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi".
Tóm lại, trên đây là những khía cạnh thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc
đã in đậm trong tư tưởng và hành động cách của Người. Đó là những quan
điểm chung của Người về bản sắc văn hóa dân tộc và cũng là phần giá trị tinh
thần tiêu biểu hàm chứa một cách sâu đậm trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mang tính
dân tộc
Mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán, lãnh thổ và văn hóa riêng, văn
hóa không tách rời quốc gia, dân tộc, văn hóa trước hết là văn hóa dân tộc.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng đã thực hiện chính sách
nô dịch văn hóa nhằm thay thế nền văn hóa truyền thống Việt Nam bằng văn
hóa thực dân phản động. Chúng muốn dân tộc ta trở nên ngu dốt, kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu để chúng dễ bề cai trị.
Năm 1943, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng đưa ra "Đề cương văn hóa
Việt Nam" nhằm xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc. Trong đó đề cập ba
nguyên tắc lớn, xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam mang tính dân tộc, khoa
học và đại chúng.


18

Tính dân tộc của một nền văn hóa còn thể hiện ở tính cách, tâm lý,
tình cảm, phong tục tập quán và bản lĩnh con người Việt Nam. Tính dân tộc
còn thể hiện ở ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) của dân tộc, ở tất cả các giá trị
về vật chất và tinh thần, ở quan hệ ứng xử… Với ý nghĩa đó, theo tư tưởng

Hồ Chí Minh xây dựng nền văn hóa mang tính dân tộc là phải thể hiện được
tinh thần, đặc tính văn hóa của các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam. Người nhắc nhở: Những dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt
Nam, đều có một nền văn hóa độc đáo, lâu đời, nhờ nền văn hóa đó mà các
dân tộc ở nước ta tồn tại và phát triển được tới ngày nay. Vì vậy, "phải giữ gìn
những cái vốn đó". Về vấn đề ngôn ngữ, Người cũng thường xuyên căn dặn:
Tiếng nói là một thứ quý báu của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy
nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi.
Hồ Chí Minh là người kế tục xuất sắc các vị tiền bối trong việc sử
dụng tiếng Việt và lối nói tiếng Việt. Để phát huy khả năng sử dụng ngôn ngữ
dân tộc một cách tối đa, có hiệu quả, Người chỉ ra rằng: Khi nói và viết phải
vay mượn nhiều từ nước ngoài, nhưng không vì thế mà lạm dụng. Người cho
rằng tác phẩm tuyên truyền phải là tác phẩm "ai đọc cũng hiểu được". Bác
nhắc nhở phải "quý báu tiếng ta", đó là một trong những biểu hiện của tư
tưởng lấy văn hóa làm gốc. Khi viết, Người đã viết để cho ai đọc cũng hiểu
được, khi nói, Người cũng hỏi: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không".
Cùng với năm tháng hoạt động cách mạng, Người luôn coi vốn văn
hóa văn nghệ là một "của quý" tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn trong mỗi
người. Những nét văn hóa dân tộc đã thấm đượm trong trái tim, tình cảm của
Người, trở thành sức mạnh tinh thần giúp Người vượt qua khó khăn trên con
đường mà mình đã chọn.
Hồ Chí Minh am hiểu rất nhiều các lĩnh vực văn hóa - văn nghệ, từ
đàn ca, âm nhạc đến hội họa, thơ cổ điển… Người coi đó là những cái rất độc
đáo của dân tộc. Người cho rằng đã là một người nghệ sĩ thì không chỉ biết


19

hưởng thụ cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của vốn văn nghệ dân tộc, mà còn phải
biết "khai thác và phát triển" nó lên. Muốn làm được điều đó trước hết phải

thực sự có tâm huyết, biết nâng niu, quý trọng văn hóa dân tộc, từ đó mới có
khả năng sáng tạo và phát triển.
Một đặc điểm nữa trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ
dân tộc là tính kế thừa phát huy và khả năng nâng cao lên một trình độ và chất
lượng mới nhằm đáp ứng trình độ văn hóa thưởng thức nghệ thuật ngày càng
cao của quần chúng nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, yếu tố dân tộc là yếu tố
hàng đầu của văn hóa văn nghệ. Thiếu yếu tố dân tộc thì không những không
có tác phẩm nghệ thuật có giá trị độc đáo, mà còn có thể tiếp thu đúng đắn,
đầy đủ tinh hoa văn hóa nhân loại. Tính dân tộc ngày càng sâu sắc, hoàn hảo
bao nhiêu thì càng có điều kiện và là cơ sở bền vững để tiếp nhận di sản văn
hóa thế giới bấy nhiêu. Tuy nhiên, quý trọng và đề cao văn hóa dân tộc không
có nghĩa là đóng kín văn hóa dân tộc, là chỉ sống với quá khứ, là đóng khung
biệt lập văn hóa, tách mình ra khỏi những vấn đề của thời hiện đại. Mà ngược
lại, tính dân tộc của văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là còn phải luôn biết
gắn liền với việc tiếp nhận những thành quả của văn minh nhân loại và vì sự
tiến bộ của nhân loại, tức là phải có sự giao lưu văn hóa để phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa có sự thống nhất biện chứng trong
quá trình phát triển. Người nêu rõ cần phải khẳng định cái gì nhưng cũng chỉ
ra rằng cần phải phủ nhận cái gì trong nền văn hóa dân tộc thì mới nhận thức,
đánh giá đúng di sản văn hóa dân tộc, đi tới việc tìm ra và làm sáng tỏ giá trị
văn hóa dân tộc. Người nói: xóa bỏ triệt để những cái cũ mà xấu, sửa đổi
những cái cũ phiền phức, phát triển những cái cũ mà tốt, phải triệt để làm
những cái mới mà hay; phải xây dựng nếp sống thuần phong mỹ tục, "phải tẩy
sạch những gì mà giáo dục thực dân để lại". Như vậy, Người đã có cái nhìn
nhận, đánh giá khách quan đối với văn hóa dân tộc. Người nói: phải có khen
cũng phải có chê. Nhưng khen chê đều phải đúng mức. Theo Hồ Chí Minh, kế
thừa và khôi phục những giá trị văn hóa truyền thống không có nghĩa là giữ


20


nguyên xi những yếu tố văn hóa truyền thống mà phải lựa chọn, phát huy
những tiến bộ, phù hợp với thời đại mới, cần phải giải quyết đúng đắn các
mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và
quốc tế. Có như vậy văn hóa dân tộc mới có điều kiện bảo tồn và phát huy
bền vững.
Tóm lại, một trong những nội dung cơ bản của việc giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc trong xây dựng nền văn hóa là việc đề cao tính dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nền văn hóa mang tính dân tộc
mang tính toàn diện và sâu sắc. Hồ Chí Minh vừa chăm lo đến việc giữ gìn,
phát huy tính dân tộc của nền văn hóa, vừa quan tâm chống lại nguy cơ bảo
thủ, khép kín trong phát triển của văn hóa dân tộc. Người cũng chỉ ra phép
biện chứng giữa tính dân tộc và nhân loại như là một quy luật tất yếu, là một
phương pháp để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa phục vụ
nhân dân
Hồ Chí Minh luôn nhằm vào việc phát huy cao độ vấn đề bản sắc văn
hóa dân tộc, bởi văn hóa dân tộc được sinh ra từ nhân dân, xây dựng nền văn
hóa đại chúng là để khai thác những giá trị văn hóa từ nhân dân, mặt khác văn
hóa quay trở lại phục vụ nhân dân cũng là để phát huy tích cực của nhân dân
trong sự sáng tạo văn hóa.
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa mang tính đại chúng là nền văn hóa
mang tính nhân văn phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân. Theo Người,
quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội, là người sáng tạo ra văn hóa, do đó nhân dân phải được hưởng thụ
các giá trị văn hóa đó. Người nói: "Quần chúng là những người sáng tạo, công
nhân là những người sáng tạo. Quần chúng không chỉ sáng tạo ra của cải vật
chất cho xã hội. Họ còn là những người sáng tác nữa" [9, tr. 250]. Với tư
tưởng trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trên thế giới không có gì



21

mạnh mẽ bằng lực lượng nhân dân, nhân dân là người làm nên lịch sử, do đó
xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam phải mang tính đại chúng.
Để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam mang tính đại chúng, theo
Người cần thể hiện được những nội dung sau:
Thứ nhất, văn hóa phải trở về với thực tại đời sống sinh hoạt của quần
chúng nhân dân, phải miêu tả cho thật hay, thật hùng hồn về đời sống đó.
Muốn vậy đòi hỏi các nhà văn hóa văn nghệ phải đi sâu vào đời sống quần
chúng, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân để nắm bắt tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của họ. Hồ Chí Minh nhắc nhở người cầm bút trước khi viết
phải biết đặt câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết để làm gì? Viết như thế nào?
Viết sao cho phổ thông, dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc. Khi viết xong thì nhờ anh
em xem và sửa giùm. Nghĩa là cách viết phải phù hợp với đại đa số quần
chúng, lời lẽ thiết thực, cụ thể, tránh lối viết dài dòng, sao cho người nghe dễ
hiểu nhất. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về việc xác định rõ chủ đề mục
đích, đối tượng để tìm ra cách viết cho đúng, cho phù hợp để quần chúng dễ
tiếp thu, thấm thía. Đối với nhân dân lao động Người dùng cách viết giản dị,
mộc mạc, lời lẽ chân tình, đôi lúc còn sử dụng ca dao, tục ngữ dân gian rất
quen thuộc với mọi người, từ cụ già đến trẻ nhỏ dễ nhớ, dễ thuộc. Theo
Người, muốn đạt được mục đích trên cần phải có nội dung phản ánh chân
thật, phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. Tính chân thật là cốt lõi làm cho bài
viết, bài nói có sức hấp dẫn mọi người. Người khẳng định: "Văn hóa phải
thiết thực phục vụ nhân dân, phải góp phần vào việc nâng cao đời sống vui
tươi lành mạnh cho quần chúng" [10, tr. 59].
Thứ hai, văn hóa phục vụ nhân dân là phải cung cấp cho họ những sản
phẩm có tính nghệ thuật cao, vì "quần chúng mong có được những tác phẩm
có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng, vui tươi, khi
chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì bổ ích" [10, tr. 646]. Muốn miêu tả cho

thật hay thì điều kiện tiên quyết là người nghệ sĩ phải có tình cảm chân thật,


22

phải nói lên được tình người, phải phát huy được cốt cách dân tộc… Từ đó,
Người yêu cầu nghệ sĩ có tác phẩm hay, đẹp phải miêu tả được hùng hồn cách
sống của những người nhân dân lao động cần cù, dũng cảm trong đấu tranh, tế
nhị, khéo léo trong ứng xử, nhân hậu, ngay thẳng, thủy chung… như chính
bản sắc văn hóa Việt Nam mà họ mang trong mình. Có như vậy các tác phẩm
văn hóa, văn nghệ mới thể hiện được chiều sâu cốt cách dân tộc và góp phần
tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Thứ ba, xây dựng nền văn hóa dân tộc mang tính đại chúng không chỉ
hướng vào phục vụ quần chúng nhân dân, mà còn biết đánh giá, nhìn nhận
cho đúng vai trò của chủ thể sáng tạo lịch sử, sáng tạo văn hóa của quần
chúng nhân dân. Người nói: "Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất
hay là những sáng tác của quần chúng…Những sáng tác ấy là những hòn
ngọc quý". Người làm công tác văn hóa, văn nghệ muốn nói, muốn viết được
trong sáng phải học cách nói của quần chúng. Những câu tục ngữ, ca dao, hò
vè, kể chuyện của nhân dân là sự thể hiện sâu sắc và tiêu biểu cho cách nói
của nhân dân.
Thứ tư, tính đại chúng trong xây dựng nền văn hóa dân tộc còn thể
hiện ở khía cạnh quần chúng nhân dân là những người kiểm nghiệm, đánh
giá, thẩm bình sản phẩm văn hóa. Đây là tiêu chí quan trọng, như Hồ Chí
Minh nói: nếu nhà văn chưa ý thức rõ điều đó thì nhân dân sẽ "quên anh ta".
Khi viết xong, nhà thơ, nhà văn phải đọc lại, "chỗ nào khúc ngoắc", diễn đạt
chưa rõ thì phải sửa lại, và luôn phải biết rằng quần chúng đang chờ đợi và có
quyền được hưởng thụ các sản phẩm văn hóa có chất lượng cao. Hồ Chí Minh
còn nhấn mạnh: Công tác văn hóa phải lấy lợi ích của dân làm "khuôn phép".
Nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo… phải xác định từ quần chúng

mà ra và quay lại phục vụ quần chúng. Do đó, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải
tỏ rõ tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng.
Như vậy, xây dựng nền văn hóa dân tộc mang tính đại chúng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền văn hóa phải phục vụ nhân dân. Tính nhân dân của


23

văn hóa vừa là phương thức làm giàu đời sống tinh thần của quần chúng nhân
dân trong hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo văn hóa, vừa là cơ sở lâu bền của
nền văn hóa, bởi nó đã duy trì, phát huy được sức sống từ chính bản sắc văn
hóa của dân tộc.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng nền văn hóa
Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc bao gồm toàn bộ những quan điểm của
Người về bản sắc văn hóa dân tộc, về xây dựng nền văn hóa "dân tộc" và
"nhân dân". Không chỉ dừng lại ở việc nêu quan điểm về vấn đề này mà chính
Người đã là hiện thân của một nền văn hóa Việt Nam "đậm đà bản sắc dân
tộc". Người là hiện thân của một "dân tộc Việt Nam giản dị mà lịch sự".
Người là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và
những tư tưởng của Người là hiện thực của những khát vọng của các dân tộc
trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy
sự hiểu biết lẫn nhau.
Năm tháng đã qua đi, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã phát huy
tác dụng chỉ đạo với việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam đạt được
những thành tựu rực rỡ trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Những tư tưởng
của Hồ Chí Minh về văn hóa vẫn là những định hướng cơ bản và lâu dài chỉ
đạo chúng ta xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


24


Chương 2
XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.1. THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY

Quá trình vận động phát triển của nền văn hóa Việt Nam là một quá
trình tiếp nối, kế thừa, điều chỉnh và mở rộng nền văn hóa trên cơ sở giữ gìn
và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc và việc tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Trong thời đại ngày nay, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc là sự tiếp tục quá trình vận động ấy trước một thực trạng thế
giới đa dạng, phong phú nhưng đầy thử thách phức tạp.
Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh
mún tiến lên nền sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đây là một quá trình phát triển "kinh tế kỹ thuật - văn hóa - xã hội" rất phức tạp. Quá trình ấy đang tác động một cách
mạnh mẽ về nhiều mặt đối với chính bản thân con người và mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Sự tác động đan xen giữa các yếu tố: tích cực và tiêu cực,
tiến bộ và bảo thủ, mới và cũ, truyền thống và hiện đại… Vì vậy, bên cạnh
những mặt tốt, những mặt tích cực, con người phải chấp nhận và vượt qua
những khó khăn, thử thách để giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Hơn nửa thế kỷ qua, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên "mặt trận văn hóa". Từ một
đất nước với hơn 90% dân số mù chữ, cho đến nay đã hoàn thành việc xóa mù
chữ cho nhân dân lao động, cơ bản hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học
cơ sở, bắt đầu thực hiện phổ cập trung học phổ thông. Hệ thống giáo dục từ
mầm non đến đại học được mở rộng trên địa bàn cả nước. Mở rộng hội nhập



25

giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế. Văn hóa - nghệ thuật đang ngày càng
góp phần thỏa mãn và nâng cao đời sống tinh thần, tình cảm cho nhân dân lao
động. Các phong trào văn hóa mới ra đời và khẳng định tính ưu việt của nó,
như phong trào: "xóa đói - giảm nghèo"; "quỹ người nghèo"; "đền ơn đáp
nghĩa"; phong trào "ánh sáng văn hóa" xây dựng làng văn hóa…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó có một vấn đề quan
trọng là xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Muốn xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc phải xuất phát trên cơ sở hiện thực, đó là thực trạng của nền văn hóa hiện
nay. Đánh giá đúng thực trạng, thấy rõ những thuận lợi và khó khăn, thời cơ
và nguy cơ thử thách trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quá
trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Về thực trạng văn hóa Việt Nam có thể đánh giá trên một số mặt sau:
* Về văn hóa văn nghệ:
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, văn hóa văn nghệ Việt Nam đã trở thành
một bộ phận khăng khít của cách mạng, đóng góp to lớn vào sự thắng lợi của
hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Các tác phẩm xuất hiện ngày càng nhiều, phong phú về nội dung, đa dạng về
nghệ thuật, phản ánh chân thực cuộc sống chiến đấu và lao động xây dựng
chủ nghĩa xã hội, có sức cổ vũ động viên to lớn đối với quần chúng nhân dân.
Từ ngày đổi mới, nhiều tác phẩm có giá trị tiếp tục được nhân dân
nồng nhiệt tiếp nhận. Nhiều hình thức văn hóa truyền thống như miếu mạo,
đình chùa, lễ hội… được khôi phục. Đặc biệt là việc giao lưu văn hóa với
nước ngoài được tổ chức với quy mô cả nước, thu hút hàng triệu người tham
gia. Đại đa số anh chị em văn nghệ sĩ vẫn một lòng trung với Đảng, đóng góp
tích cực vào sự nghiệp văn hóa văn nghệ.



×