BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
BƯỚC ĐẦU CHO SINH SẢN NHÂN TẠO VÀ XÁC ĐỊNH
THỨC ĂN THÍCH HỢP TRONG ƯƠNG CUA ĐỒNG
(Somanniathelphusa germaini (Rathbun, 1902))
Họ và tên sinh viên: PHẠM VĂN HÙNG
Ngành
: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Khóa
: 2004 - 2008
Tháng 10/2008
BƯỚC ĐẦU CHO SINH SẢN NHÂN TẠO VÀ
XÁC ĐỊNH THỨC ĂN THÍCH HỢP TRONG ƯƠNG CUA ĐỒNG
(Somanniathelphusa germaini (Rathbun, 1902))
Tác giả
Phạm Văn Hùng
Khóa luận được đệ trình để hoàn tất yêu cầu cấp bằng Kỹ Sư Nuôi Trồng Thủy Sản
Giáo viên hướng dẫn:
Lê Thị Bình
Tháng 10/2008
i
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban Chủ Nhiệm Khoa Thủy Sản, cùng tất cả Quý Thầy Cô đã truyền đạt kiến
thức cho chúng tôi trong suốt quá trình học tại trường.
Chúng tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô Lê Thị Bình đã hết lòng hướng dẫn,
giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian học và thực tập tốt nghiệp.
Đồng thời gửi lời chân thành cảm ơn đến:
Thầy Ngô Văn Ngọc đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho chúng tôi thực tập tốt
nghiệp tại trại Thực Nghiệm Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Hữu Ninh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho chúng tôi tham quan mô
hình sản xuất giống cua đồng tại Trung Tâm Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I xã
Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Các anh ở trại Thực Nghiệm Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm thành phố
Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện tốt cho chúng tôi thực hiện đề tài.
Các anh chị, các bạn sinh viên trong và ngoài lớp đã giúp đỡ và động viên
chúng tôi trong suốt quá trình học tập cũng như trong thời gian thực hiện khóa luận.
Do thời gian thực hiện đề tài có hạn và bước đầu làm quen với công tác nghiên
cứu khoa học nên không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi kính mong sự chỉ bảo
của quý thầy cô cũng như sự đóng góp ý kiến của các bạn.
ii
TÓM TẮT
Đề tài “Bước đầu cho sinh sản nhân tạo và xác định thức ăn thích hợp trong
ương nuôi cua đồng (Somanniathelphusa germaini (Rathbun, 1902))” được tiến hành
từ tháng 04/2008 đến tháng 08/2008 tại trại Thực Nghiệm Thủy Sản, Khoa Thủy Sản
Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh.
Thí nghiệm gồm hai phần:
Thí nghiệm 1 thực hiện nhằm tìm ra thức ăn thích hợp trong việc ương nuôi cua
đồng, cua đồng bố trí ương có kích thước trung bình 2 mm, mật độ ương là 200 con/lô,
thời gian ương 4 tháng. Các nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, mỗi
nghiệm thức lặp lại 3 lần, gồm 3 NT:
NT I: thức ăn trùn chỉ
NT II: thức ăn khoai lang
NT III: thức ăn chế biến
Kết quả thu được:
Tăng trưởng trung bình chiều dài, chiều rộng mai lớn nhất là NT II (trung bình
chiều dài mai 6,967 mm, chiều rộng mai 5,783 mm) và nhỏ nhất là NT I (trung bình
chiều dài mai 6,333 mm và chiều rộng mai 5,375 mm). Không có sự khác biệt về mặt
thống kê về trung bình chiều dài, chiều rộng mai cua giữa các nghiệm thức.
Tăng trưởng trọng lượng trung bình cua lớn nhất là NT III (1,860 g) và nhỏ
nhất là NT I (1,621 g). Không có sự sai khác về mặt thống kê của trọng lượng trung
bình giữa các nghiệm thức.
Tỷ lệ sống trung bình của cua đồng cao nhất là NT III (14,5%) và thấp nhất là
NT I (7,0%). Sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa NT I, II với NT III,
(P<0,05).
iii
Thí nghiệm 2 thực hiện nhằm tìm ra hình thức bố trí thích hợp trong việc sản
xuất giống cua đồng, tỷ lệ đực cái là 2 : 5. Các nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu
nhiên trong bể kính và bể xi măng, gồm 3 NT:
NT I: Bố trí trong 5 bể kính tương ứng với 5 lô có kích thước 80 x 40 x 40
cm/bể, mỗi lô cho đất vào ¼ bể và cao 10 cm; đồng thời cho 1 – 2 mảnh tôn xi măng
và lục bình làm giá thể.
NT II: Bố trí trong 6 lô có kích thước 40 x 30 x 30 cm/lô nằm trong bể xi măng
(2 x 2 x 1,5 m/bể). Mỗi lô cho đất vào nền đáy dày từ 1 – 1,5 cm và giá thể lục bình.
NT III: Bố trí trong bể xi măng có kích 2 x 2 x 1,5 m/bể, cho đất vào 2 cạnh của
bể (dài 2 m, rộng 30 cm và cao 10 cm so với nền đáy bể) và cho giá thể lục bình vào.
Trong môi trường nhân tạo, cua đã có hiện tượng bắt cặp giao vĩ với nhau. Khả
năng bắt cặp sinh sản ở NT I (trong bể kính) cao nhất là 14 cua ôm trứng, trong đó có
5 cua ôm con; tiếp đến là NT III (trong bể xi măng) với 8 cua ôm trứng (trong đó có 2
cua ôm con) và thấp nhất là NT II chỉ có 6 cua ôm trứng.
iv
MỤC LỤC
Trang
Trang tựa
i
Lời cảm tạ
ii
Tóm tắt
iii
Mục lục
v
Danh sách các bảng
viii
Danh sách các hình
ix
Danh sách các đồ thị
x
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
1
1.1 Đặt Vấn Đề
1
1.2 Mục Tiêu Đề Tài
1
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2
2.1 Đặc Điểm Sinh Học
2
2.1.1 Phân loại
2
2.1.2 Phân bố
5
2.1.3 Vòng đời của cua đồng
6
2.1.4 Lột xác và sinh trưởng
6
2.1.5 Tính ăn
7
2.1.6 Tập tính hoạt động
8
2.2 Đặc Điểm Sinh Sản
9
2.2.1 Phân biệt đực cái
9
v
2.2.2 Kích thước thành thục
11
2.2.3. Mùa vụ sinh sản
11
2.2.4 Hoạt động bắt cặp sinh sản
11
2.2.5 Sự phát dục của tuyến sinh dục cái
12
2.3 Giá trị kinh tế của cua đồng
13
CHƯƠNG 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
15
3.1 Thời Gian và Địa Điểm
15
3.2 Vật liệu thí nghiệm
15
3.2.1 Đối tượng nghiên cứu
15
3.2.2 Vật liệu, trang thiết bị
15
3.3 Phương pháp thí nghiệm
16
3.3.1 Phương pháp bố trí ương cua
16
3.3.2 Phương pháp bố trí cho cua sinh sản
19
3.3.3 Các chỉ tiêu theo dõi
23
3.4 Phương pháp xử lý số liệu
24
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
25
4.1 Các thông số môi trường
25
4.1.1 Các thông số môi trường tự nhiên
26
4.1.2 Các thông số môi trường trong thí nghiệm
26
4.2 Kết quả kỹ thuật ương cua đồng
28
4.2.1 Sự tăng trưởng về chiều dài, chiều rộng mai và trọng lượng của cua
28
4.2.2 Tỷ lệ sống của ương cua đồng
37
4.3 Kết quả bước đầu cho sinh sản nhân tạo cua đồng
39
4.3.1 Sức sinh sản của cua đồng
39
4.3.2 Kết quả bước đầu cho sinh sản nhân tạo
41
vi
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
44
5.1 Kết luận
44
5.2 Đề nghị
45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
46
PHỤ LỤC
48
vii
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Ảnh hưởng của thức ăn lên tỷ lệ sống và sự phát triển của cua đồng
8
Bảng 2.2: Ảnh hưởng của giá thể lên tỷ lệ sống của cua đồng
9
Bảng 4.1: Các thông số môi trường nước ngoài tự nhiên
26
Bảng 4.2: Các thông số môi trường trong thí nghiệm
27
Bảng 4.3: Tăng trưởng về chiều dài trung bình của mai cua qua 4 đợt cân
28
Bảng 4.4: Tỷ lệ chiều dài trung bình tương đối của mai cua
29
Bảng 4.5: Tăng trưởng về chiều rộng trung bình của mai cua qua 4 đợt cân
30
Bảng 4.6: Tỷ lệ chiều rộng trung bình tương đối của mai cua
31
Bảng 4.7: Tăng trưởng về trọng lượng trung bình cua qua 4 đợt cân
32
Bảng 4.8: Tỷ lệ tăng trưởng trọng lượng tương đối của cua
34
Bảng 4.9: Tốc độ tăng trưởng hàng ngày của cua qua 125 ngày ương nuôi
35
Bảng 4.10: Tỷ lệ sống của cua đồng qua 4 tháng nuôi
38
Bảng 4.11: Số trứng trong yếm cua
40
Bảng 4.12: Số lượng cua con trong yếm cua đồng
40
Bảng 4.13: Số lượng cua ôm trứng và ôm con
41
viii
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Hình thái ngoài của cua đồng
2
Hình 2.2: Giáp đầu ngực Decapoda
4
Hình 2.3: Cấu tạo ngoài của cua đực
10
Hình 2.4: Cấu tạo ngoài của cua cái
10
Hình 2.5: Hoạt động giao vỹ của cua đồng
12
Hình 3.1: Cua đồng lúc bắt đầu thí nghiệm
15
Hình 3.2: Bể ương cua đồng
16
Hình 3.3: Tách cua con ra khỏi yếm
17
Hình 3.4: Cua con để ương
18
Hình 3.5: Trùn chỉ
18
Hình 3.6: Khoai lang
19
Hình 3.7: Thức ăn chế biến
19
Hình 3.8: Bể thí nghiệm I
20
Hình 3.9: Bể thí nghiệm II
21
Hình 3.10: Bể thí nghiệm III
21
Hình 3.11: Chọn cua bố mẹ
22
Hình 3.12: Thức ăn công nghiệp
22
Hình 4.1: Cua đồng sau 1 tháng ương
36
Hình 4.2: Cua đồng sau 2 tháng ương
36
Hình 4.3: Cua đồng sau 3 tháng ương
37
Hình 4.4: Cua đồng sau 4 tháng ương
37
Hình 4.5: Cua đồng khi kết thúc thí nghiệm
39
Hình 4.6: Cua đồng ôm trứng
42
Hình 4.7: Cua đồng ôm con
43
ix
DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ
Trang
Đồ thị 4.1:Tăng trưởng về chiều dài trung bình mai cua
29
Đồ thị 4.2: Tỷ lệ chiều dài tương đối của cua đồng
30
Đồ thị 4.3: Tăng trưởng về chiều rộng trung bình mai cua
31
Đồ thị 4.4: Tỷ lệ chiều rộng tương đối của cua đồng
32
Đồ thị 4.5: Tăng trưởng về trọng lượng trung bình cua
33
Đồ thị 4.6: Tỷ lệ tăng trưởng trọng lượng tương đối của cua đồng
34
Đồ thị 4.7: Tốc độ tăng trưởng hàng ngày của cua
35
Đồ thị 4.8: Tỷ lệ sống của cua đồng
38
x
Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1
Đặt Vấn Đề
Cua đồng là nguồn thức ăn có giá trị dinh dưỡng, hàm lượng mỡ thấp, protein
cao, dồi dào về khoáng chất và vitamin. Cua đồng còn là món ăn dân dã thường ngày
của người dân nơi đồng quê với những món như canh cua, bún riêu hay cua đồng rang
me, … ai ăn một lần sẽ không thể nào quên.
Cua đồng có mặt khắp mọi nơi trong thủy vực nước ngọt như đồng ruộng, ao, hồ,
sông, rạch, …. Tuy nhiên, nguồn lợi cua đồng trong tự nhiên đang giảm dần do ảnh
hưởng của thuốc trừ sâu, hóa chất dùng trong nông nghiệp và sự đô thị hóa gia tăng sẽ
làm cho môi trường sống của cua đồng bị thu hẹp, nhưng việc khai thác nguồn lợi cua
đồng vẫn chủ yếu là dựa vào tự nhiên.
Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, đồng thời phải bảo tồn và
phát triển được nguồn lợi cua đồng. Với yêu cầu đó và được sự đồng ý của Khoa Thủy
Sản Trường Đại Học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề
tài: “Bước đầu cho sinh sản nhân tạo và xác định thức ăn thích hợp trong ương nuôi
cua đồng (Somanniathelphusa germaini (Rathbun, 1902))”.
1.2
Mục Tiêu Đề Tài
Bước đầu cho sinh sản nhân tạo cua đồng, để tìm ra hình thức cho sinh sản hiệu
quả nhất.
Xác định thức ăn thích hợp để ương nuôi cua đồng nhằm nâng cao hiệu quả trong quá
trình nuôi cua đồng thương phẩm.
1
Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1
Đặc Điểm Sinh Học Cua Đồng
2.1.1
Phân loại
Theo Rathbun (1902; trích bởi Đặng Ngọc Thanh, 2001), đối tượng cua đồng
mà chúng tôi thí nghiệm thuộc hệ thống phân loại như sau:
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Parathelphusidae
Giống: Somanniathelphusa
Loài: Somanniathelphusa germaini
Hình 2.1: Hình thái ngoài cua đồng (Sommanniathelphusa germaini (Rathbun, 1902))
2
2.1.1.1 Đặc điểm hình thái chung của cua nước ngọt
Cơ thể cua nước ngọt gồm phần đầu ngực và phần bụng. Phần bụng gồm 7 đốt
gập vào mặt dưới phần đầu ngực, thường gọi là yếm cua. Hình dạng, kích thước các
đốt bụng đặc biệt là các đốt V – VII là đặc điểm phân loại quan trọng. Phần bụng con
đực và con cái ở cua rất khác nhau về hình dạng. Phần đầu ngực không phân đốt rõ.
Vỏ đầu ngực có hình dạng ngoài khác nhau, màu sắc khác nhau tùy từng loài. Phía
trước vỏ đầu ngực là trán, cạnh trước thẳng hoặc chia thùy. Hai bên trán là ổ mắt, chứa
cuống mắt. Cạnh ngoài ổ mắt là răng ổ mắt, tiếp theo là răng bên có hình dạng và số
lượng khác nhau, răng bên sau cùng là răng trên mang. Mặt vỏ đầu ngực thường có các
thùy, rãnh và gờ. Ngay phía sau trán có hai thùy sau trán hoặc thùy thượng vị, trên
thùy có các gờ ngang - gờ thượng vị (epigastric) hoặc gờ sau trán trước. Nối tiếp gờ
thượng vị là gờ sau ổ mắt (postorbital) hoặc gờ sau trán bên, có khi kéo dài tới gốc
răng trên mang. Góc bên trước vỏ có rãnh đầu (cervical). Ở vùng giữa vỏ có rãnh bán
nguyệt, rãnh chữ H đặc trưng ở cua.
Phần phụ đầu ở cua có râu I, râu II ẩn kín ở phía dưới trán. Phần phụ miệng có
hàm trên, hàm dưới I, hàm dưới II và các chân hàm I – III. Ở chân hàm III, đốt đùi và
đốt chuyển hoặc tiếp gốc hình tấm rộng, các đốt tiếp sau hình đốt nhỏ.
Đặc điểm phân loại quan trọng ở cua là chân giao cấu ở con đực (Gonopod 1 –
2). Hình dạng đốt trước cuối, đốt cuối chân này là đặc điểm phân loại các giống, loài
cua. Đôi chân bò I ở cua có dạng càng lớn, càng trái và phải thường không đều nhau.
Thành phần loài cua nước ngọt ở Việt Nam chỉ thuộc 2 họ Potamidae và
Parathelphusidae, bao gồm 19 loài, thuộc 8 giống. Trong đó giống Somanniathelphusa
có 5 loài (Nguồn Đặng Ngọc Thanh, 2001).
2.1.1.2 Đặc điểm hình thái phân loại của cua nước ngọt
Khóa phân loại Decapoda
1(2) Giáp đầu ngực có ba răng lớn ở cạnh bên. Đốt VI – VII phần bụng của con
đực thon nhỏ lại có hình chữ T.......................................................... Họ Parathelphusidae.
2(1) Giáp đầu ngực chỉ có một răng bên cũng là răng trên mang. Đốt bụng thứ
VI – VII không thon lại ............................................................................... Họ Potamidae.
3
Hình 2.2: Hình giáp đầu ngực Decapoda (De Man và ctv. , 1904)
PT: Parathelphusidae
PM: Potamidae
Trong đó:
ML: Cạnh bên (Interal)
RO: Răng ngoài ổ mắt (Orbital)
GE: Gờ thượng vị (Epigastric)
GO: Gờ sau ổ mắt (Past – orbital)
RCE: Rãnh đầu (Cervical)
RH: Rãnh chữ H
MF: Cạnh trước trán
MA: Cạnh bên trước (Anterio – Interal)
MP: Cạnh sau (Posterior)
RE: Răng trên mang (Epibranchial)
TE: Thùy thượng vị
RL: Rãnh bán nguyệt
RT: Rãnh tim
4
Khóa định loại các giống thuộc họ Parathelphusidae Colosi, 1920
1(2) Gờ sau ổ mắt trên vỏ đầu ngực liên tục, chạy tới gốc răng trên mang. Phần
ngọn G1 con đực hình sừng nhọn.....................................................Siamthelphusa.
2(1) Gờ sau ổ mắt liên tục hoặc không liên tục. Phần ngọn G1 con đực vuốt nhỏ
hình sợi .......................................................................................Somanniathelphus.
Khóa phân loại các loài thuộc giống Somanniathelphusa Bott, 1968
1(4) Gờ sau cuống mắt không liên tục, sắc cạnh không chạy tới gốc răng trên
mang.
2(3) Ngọn đốt cuối có đầu hơi cong hẳn xuống hình móc câu ............... S. dugasti.
3(2) Ngọn đốt cuối có đầu chỉ hơi cong ..................................................S. sinensis.
4(1) Gờ sau ổ mắt liên tục, sắc cạnh, chạy tới gốc răng trên mang.
5(6) G1 con đực có phần ngọn uốn quăn. Gờ sau ổ mắt không uốn lượn ...............
..................................................................................................................S. brandti.
6(5) G1 con đực có phần ngọn không uốn quăn. Gờ sau ổ mắt uốn lượn hai lần
trước khi tới gốc răng trên mang ...........................................................S. germaini.
2.1.2
Phân bố
Tại Việt Nam cua đồng phân bố chủ yếu ở trong các thủy vực nước ngọt như:
ao, hồ, ruộng, sông, suối, ….
Theo Nguyễn Văn Xuân (2004), cua đồng ở miền Bắc Việt Nam có ba loài
thuộc giống Somanniathelphusa đó là Somanniathelphusa pax Peter K. L. Ng và
Kosuge, 1995; Somanniathelphusa dangi Darren C. J. Yeo & Nguyễn Xuân Quýnh,
1999; Somanniathelphusa kyphuensis Dang, 1975. Còn cua đồng ở miền Nam Việt
Nam có loài Somanniathelphusa germaini (Rathbun, 1902) hay Sayamia germaini
(Rathbun, 1902).
Trên thế giới cua đồng phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam.
5
2.1.3
Vòng đời cua đồng
Cua trưởng thành từ sông rạch theo con nước lên đồng ruộng kiếm ăn. Cua
thường bò cặp theo mé bờ, thỉnh thoảng lại ngoi đầu lên mặt nước khoảng 10 giây đến
1 phút lấy thêm không khí vào phòng mang và lại lặn xuống, bò đi tiếp theo một vệt
bóng khí do cua nhả ra. Cứ thế, cua theo con nước lên mà đi vào các ao và đồng ruộng.
Ngoài ra, cua có thể bò trên cạn, vượt qua các bờ đập chắn nước hoặc đào xuyên qua
bờ ao một cách dễ dàng. Khi tìm được vị trí thích hợp thì cua tiến hành đào hang để trú
ẩn. Cua sống và tìm thức ăn ở vùng xung quanh hang. Hang cũng là nơi cua lôi thức ăn
động vật (cá chết) về ăn tại cửa hang.
Đến mùa sinh sản cua đực và cua cái chọn một cái hang thích hợp để ở, cua đực
thường lấp ló ở cửa hang và bảo vệ cua cái khỏi những cua đực khác. Cua cái ở trong
hang thỉnh thoảng bò ra cửa hang ngoi đầu lên mặt nước vài giây rồi lại chui vào hang
và lúc này cua cái chuẩn bị lột xác. Cua đực giao phối với cua cái lúc cua cái vừa lột
xác xong vỏ còn mềm.
Trong thời gian canh giữ và bắt cặp sinh sản cua đực không có hiện tượng lột
xác, đây là đặc tính thích nghi vì những cua đực nào lột xác lúc này dễ bị cua cái hay
con đực khác ăn thịt. Trứng cua được đẻ vào yếm cua và được ấp ở đó cho đến lúc nở
thành cua con. Cua con sẽ được phóng thích vào nơi có thức ăn tự nhiên thích hợp như
đồng ruộng hay ao hồ.
Cua con sẽ qua nhiều lần lột xác để lớn lên. Khi đồng ruộng khô cạn từ tháng
12 đến tháng 4 năm sau thì cua đồng có xu hướng rút xuống sông rạch. Khi nước vào
ngập đồng ruộng từ tháng 5 đến tháng 10 năm sau thì cua lại lên đồng ruộng để sinh
trưởng và sinh sản (Lê Phước Lập, 1993).
2.1.4
Lột xác và sinh trưởng
Theo Đặng Kim Long (2006), cua đồng từ giai đoạn ấu niên đến cua trưởng
thành phải trải qua nhiều lần lột xác để lớn lên. Trước khi lột xác cua tiết ra nhiều dịch
tố để tách vỏ mềm bên trong ra khỏi lớp vỏ cứng bên ngoài. Sau đó, tại điểm giao tiếp
giữa phần vỏ của phần đầu ngực và phần bụng xuất hiện vết nứt. Lúc đầu bộ phận đầu
ngực nâng lên, vết nứt lớn ra và khối đầu ngực lộ ra ngoài. Bụng co lại phía sau, các
6
chân cử động và co về giữa, đôi chân bò thoát ra ngoài và phần bụng, chân và càng
được lột ra sau cùng. Cua không chỉ lột vỏ bên ngoài mà vỏ của màng ruột dạ dày
cũng được lột đi.
Theo Drach (1939; trích bởi Nguyễn Văn Tư, 2005), các giai đoạn lột xác khác
nhau của chu kỳ lột xác ở cua (Cancer pagurus); giống như phân bộ Brachyura được
chia làm 5 giai đọan:
Giai đoạn A: Ngay sau khi lột xác cua không ăn, hấp thu nước tối đa.
Hàm lượng nước trong cơ thể là 86%.
Giai đoạn B: Thời kỳ chính của sự khoáng hóa của vỏ mới, cua không
Giai đoạn C: Mặc dù vỏ cứng nhưng sự calci hóa vẫn tiếp tục trong
ăn.
những giai đoạn phụ sớm, cua bắt đầu ăn.
Giai đoạn D: Giai đoạn chuẩn bị cho lần lột xác tiếp theo, sự tái hấp thụ
calci xảy ra ở các lớp vỏ mới tiết. Việc ăn ngừng lại và các dự trữ trao đổi chất được
huy động, hoạt động giảm. Hàm lượng nước 59 – 61%.
Giai đoạn E: Cua thoát khỏi vỏ cũ và hấp thu nước nhanh chóng.
Trong giai đoạn lột xác cua có thể tái sinh lại những phần phụ bộ đã mất như:
chân, càng. Cua có phụ bộ bị tổn thương hoặc thiếu phụ bộ thường có khuynh hướng
lột xác sớm hơn.
2.1.5
Tính ăn
Cua đồng là động vật ăn tạp, rất thích ăn động vật nhưng do khả năng bắt mồi
kém nên cua thường ăn xác chết động vật và thực vật. Khi thiếu thức ăn cua đồng có
thể ăn lẫn nhau.
Theo Lê Phước Lập (1993), thành phần thức ăn của cua đồng
(Somanniathelphusa variabilis) có trong tự nhiên gồm:
Mùn bã hữu cơ: 2 – 7%.
Động vật: 8 – 14%.
7
Thực vật: 79 – 90%.
Theo Huỳnh Thanh Điền (2007), ảnh hưởng của một số loại thức ăn khác nhau
lên tỷ lệ sống và sự phát triển của cua đồng trong thời gian ương nuôi 28 ngày được
trình bày trong Bảng 2.1 như sau:
Bảng 2.1: Ảnh hưởng của thức ăn khác nhau lên tỷ lệ sống và sự phát triển của cua
đồng
Tăng trọng trung bình
Tỷ lệ sống
(gram)
(%)
Trùn chỉ
1,036
37,55
Cá tạp
0,436
29,00
Thủy sinh thực vật
0,179
19,33
Thức ăn
Theo Nguyễn Hữu Ninh (2008), thành phần thức ăn của cua đồng
(Somanniathelphusa sinensis sinensis) trong nuôi từ cua hương lên giống là 60% đạm
và từ cua giống lên cua thương phẩm là 40% đạm. Thức ăn sử dụng là cám công
nghiệp xay mịn hoặc 60% bột cá + 40% bột đậu tương.
2.1.6
Tập tính hoạt động
2.1.6.1 Tập tính đào hang
Cua đực và cua cái thường có tập tính đào hang vì hang là nơi cua trú ẩn, tránh
kẻ thù, đồng thời còn là nơi để bắt cặp sinh sản.
Trong thời kỳ giao phối, những con đực thường tấn công lẫn nhau để tranh
giành con cái.
Theo Trương Thanh Phong (2008), ảnh hưởng của các giá thể lên tỷ lệ sống và
sự phát triển của cua đồng trong thời gian ương 30 ngày, với cùng loại thức ăn là trùn
chỉ được trình bày như sau:
8
Bảng 2.2: Ảnh hưởng của giá thể lên tỷ lệ sống của cua đồng
Tăng trọng trung bình
Tỷ lệ sống
(gram)
(%)
Lục bình
0,596
53,33
Rong đuôi chồn
0,536
49,89
Rau dừa
0,476
43,66
Vỏ ốc
0,386
36,44
Giá thể
2.1.6.2 Tập tính di chuyển
Cua di chuyển theo hướng bò ngang. Cua có đôi mắt kép rất phát triển có thể
phát hiện kẻ thù và con mồi từ nhiều hướng. Khi gặp kẻ thù cua tự vệ bằng đôi càng
hay lẩn trốn vào hang hoặc trong lúc giao tranh cua có thể đoạn càng, chân để thoát
thân.
2.2
Đặc Điểm Sinh Sản của Cua Đồng
2.2.1
Phân biệt đực cái
Cua đồng là loài đơn tính, dị hình phái, con đực và cái phân biệt rõ ràng.
Cấu tạo ngoài
Con đực: yếm cua có hình chữ T suốt giai đoạn ấu niên cho đến khi trưởng
thành, gồm có 7 đốt. Đốt I, II, III rộng ngang. Đốt V, VI, VII hẹp lại. Mặt bụng của
yếm cua có 2 đôi chân bụng G1 và G2 chỉ có một nhánh, được gắn vào đốt bụng I, II.
Đây là những chân bụng được biệt hoá trở thành cơ quan giao phối. Ngoài ra, ở gốc
đôi chân ngực thứ 5 còn có hai lỗ sinh dục đực có hai dương vật ngắn, mềm trắng đực
(Lê Phước Lập, 1993).
9
Hình 2.3: Cấu tạo ngoài của cua đực
Con cái: ở giai đoạn ấu niên yếm cua có hình tam giác cân. Khi sắp trưởng
thành và trưởng thành yếm cua có hình bán nguyệt. Mặt bụng yếm có 4 đôi chân bụng
I – IV gắn vào đốt bụng II, III, IV, V. Mỗi chân bụng có hai nhánh có nhiều lông tơ để
trứng bám vào khi cua đẻ. Đôi chân ngực thứ III có 2 lỗ sinh dục.
Hình 2.4: Cấu tạo ngoài của cua cái
Cấu tạo trong
Con đực: có tuyến tinh hình ống dài, cuộn xoắn màu trắng nhạt, nằm trên khối
gan tụy và đổ ra lỗ sinh dục đực ở gốc chân ngực thứ V mặt bụng.
Con cái: có tuyến trứng dạng ống hình chữ H, màu sắc thay đổi tùy theo sự phát
triển của buồng trứng. Ống dẫn trứng sau khi qua túi chứa tinh, đổ ra lỗ sinh dục cái.
10
Khi cua đẻ trứng từ noãn sào theo ống dẫn trứng đi qua túi chứa tinh sẽ thụ tinh với
tinh trùng đã chứa sẵn, rồi đi qua lỗ sinh dục cái rơi vào yếm và được ấp ở đây cho tới
khi nở thành cua con.
2.2.2
Kích thước thành thục
Thành thục là quá trình biến đổi trạng thái của tuyến sinh dục từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện.
Theo Nguyễn Trí Duệ (2003), cua cái có chiều rộng lớn hơn 25 mm đã thành
thục.
Theo Trương Thanh Phong (2008), cua ôm trứng, ôm con có chiều rộng từ 26 –
57 mm.
2.2.3
Mùa vụ sinh sản
Cua thường bắt cặp sinh sản vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11). Từ tháng
6 – 10 thường xuyên bắt gặp cua cái ôm con hoặc ôm trứng. Vào mùa khô (từ tháng 12
đến tháng 4 năm sau) rất ít khi bắt gặp cua cái ôm trứng, ôm con vì vào mùa này cua
sẽ di chuyển từ đồng ruộng xuống kênh rạch, ao hồ.
2.2.4
Hoạt động bắt cặp sinh sản
Ngoài tự nhiên, khi tuyến sinh dục của cua cái và cua đực đã phát triển sẽ kích
thích chúng đi tìm cho mình một người bạn đời. Khi đã tìm được thì cặp cua này sẽ
tìm một cái hang thích hợp để sinh sống. Sau một thời gian sinh sống, cua cái chuẩn bị
lột xác sẽ có màu vàng sậm rõ rệt.
11
Hình 2.5: Hoạt động giao vỹ của cua đồng
Trong quá trình sinh sống với nhau sẽ là sự kích thích từ bên ngoài để cho cua
cái nhanh lột xác và hoạt động giao phối diễn ra dễ dàng hơn. Vì khi cua cái còn cứng
vỏ thì phần yếm của cua cái chỉ có thể mở ra rất ít và cua đực không thể giao phối lúc
này. Nếu ta mở yếm cua cái ra để có thể thấy được lỗ sinh dục của cua cái thì yếm cua
sẽ bị tổn thương và cua có thể chết sau đó. Đây cũng là nguyên nhân giải thích vì sao
cua đực chỉ có thể giao phối với cua cái vừa lột xác xong khi vỏ còn mềm.
Lúc cua cái đang chuẩn bị lột xác, vỏ yếm và càng cua có màu vàng sậm rõ rệt.
Cua đực sẽ bò xung quanh cua cái và có hành động ve vãn cua cái. Sau khi cua cái
nằm im, cua đực bò áp sát cua cái và cua đực tự lật ngửa mình lên. Đồng thời, cua đực
dùng chân từ từ mở yếm cua cái và đưa cơ quan giao phối của mình vào cơ quan giao
phối của cua cái ở dưới đôi chân thứ III. Lúc này hoạt động giao phối diễn ra rất nhẹ
nhàng và dịch hoàn trắng chảy qua 2 ống dẫn tinh nằm giữa hai cơ đùi đổ vào lỗ sinh
dục ở gốc chân ngực thứ V chảy vào túi chứa tinh của con cái và có thể thụ tinh cho
nhiều lần đẻ trứng của cua cái.
2.2.5
Sự phát dục của tuyến sinh dục cái
Trước khi phát triển giai đoạn thành thục thì tuyến sinh dục cua cái hoàn toàn
chưa phát triển. Khi đó trọng lượng và kích thước tuyến sinh dục cua cái rất nhỏ, màu
trắng dạng sợi mảnh.
Sau khi cua trưởng thành, lột xác và giao phối xong thì buồng trứng bắt đầu
phát triển từ trắng sang vàng lợt và vàng đậm.
12
Theo Lê Phước Lập (1993), quá trình phát triển noãn sào cua đồng được chia
thành 5 giai đoạn:
Giai đoạn I: Tình trạng chưa thành thục
Buồng trứng mỏng, trong suốt, rất khó thấy được hình dạng chữ H, chỉ thấy
được dạng vệt nhỏ. Cuối giai đoạn đã thấy những hạt trứng có màu trắng dạng chấm.
Giai đoạn II: Tình trạng buồng trứng bắt đầu phát triển
Tuyến sinh dục có dạng ống tròn nhỏ, hình chữ H rõ ràng, màu trắng đục. Cuối
giai đoạn đã thấy có một số vùng trên buồng trứng có màu vàng rất nhạt. Hạt trứng đã
rõ hơn nhưng vẫn còn nhỏ.
Giai đoạn III: Tình trạng chín sinh dục ban đầu
Buồng trứng đã chuyển sang màu vàng rất rõ, các hạt trứng đã tròn và nhỏ có
màu vàng. Trên buồng trứng có xen lẫn trứng của giai đoạn II. Cuối giai đoạn thì
buồng trứng đã lớn chứa đầy các hạt trứng tròn màu vàng tươi.
Giai đoạn IV: Tình trạng chín sinh dục rõ ràng
Buồng trứng lớn căng, chứa đầy các trứng to tròn lớn có màu vàng sậm. Cuối
giai đoạn này trứng rụng và cua sẽ đẻ trứng.
Giai đoạn V: Tình trạng buồng trứng sau khi đẻ
Cua đồng là loài đẻ nhiều đợt trong mùa sinh sản mà không có sự lột xác sau
khi sinh sản.
Sau khi cua đẻ thì buồng trứng sẽ trở về giai đoạn III, có nhiều trứng tròn màu
vàng tươi rõ ràng và xen lẫn những hạt trứng ở giai đoạn II.
Khi cua ôm con thì buồng trứng đã chuyển sang thời kỳ cuối của giai đoạn III,
các hạt trứng tròn đều màu vàng tươi.
2.3
Giá Trị Kinh Tế của Cua Đồng
Cua đồng là loài giáp xác nước ngọt có giá trị kinh tế, dễ khai thác có thể bắt
bằng tay hoặc câu (do cua đồng rất háu ăn).
13
Theo Nguyễn Trí Duệ (2003), thì chợ Hòa Hưng là điểm bỏ mối cua đồng lớn
nhất tại thành phố Hồ Chí Minh. Cua được thu mua từ các lái buôn ở các tỉnh miền
Tây, được đưa về chợ từ 1 – 2 giờ sáng. Giá cua đồng được bỏ sỉ là 4.000 đồng/kg khi
còn sống và giá bán lẻ là 5.000 đồng/kg.
Theo Huỳnh Thanh Điền (2007), giá cua đồng tại chợ Linh Xuân là 25.000 –
30.000 đồng/kg.
Theo ghi nhận của chúng tôi giá cua đồng tại chợ Linh Xuân, chợ Linh Trung là
30.000 – 35.000 đồng/kg và từ 45.000 – 50.000 đồng/kg ở thành phố Hà Nội và tỉnh
Bắc Ninh.
14