Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo – mục tiêu và phương hướng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.57 KB, 21 trang )

A: MỞ ĐẦU
Xây dựng, phát triển con người, nguồn nhân lực là quan điểm, chính
sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Bởi, nguồn nhân lực là nguồn lực nội
tại, cơ bản, có khả năng tái sinh, tự sản sinh và đổi mới phát triển nếu biết
chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Do đó, nguồn nhân lực là nguồn lực
của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên; vừa là chủ thể, vừa là
khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu giữ vị trí trung tâm trong các
nguồn lực giữ vai trò quyết định thành công của sự nghiệp Đổi mới.
Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay bên cạnh những ưu thế
về lực lượng lao động dồi dào, con người cần cù, thông minh, sáng tạo… vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập về cơ cấu, trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động,
thể lực… làm cho năng suất lao động xã hội nước ta thấp hơn các nước trong
khu vực từ 2 đến 15 lần. Sức cạnh tranh của lao động Việt Nam thấp. Tại Nhà
máy Xi măng Nghi Sơn (Thanh Hóa), tổng quỹ lương của 20 người Nhật làm
việc ở đây bằng tổng quỹ lương của gần 2.000 người Việt Nam trong nhà
máy. Trong các ngành dịch vụ như Ngân hàng, Y tế,... có tới 40% người có
thu nhập từ 14.000USD/năm trở lên thuộc về người nước ngoài.
Trong xu thế phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, thì vai trò
của nguồn nhân lực càng quan trọng. Trong ngành vi điện tử, trong tổng giá
trị của sản phẩm, nguyên liệu chỉ chiếm 1-3%, lao động cơ bắp chiếm 12%,
còn lại 85% là giá trị của tri thức, bí quyết công nghệ và chế thử. Điều đó nói
lên vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực.
Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục xác định con người, nhân tố con người là
một trong năm quan điểm phát triển: “...phát huy tối đa nhân tố con người; coi
con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; là một
trong ba khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược…”; đồng thời cũng là
1 trong 12 định hướng phát triển kinh tế - xã hội: “Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo”.
1



Trong điều kiện đó, quản lý Nhà nước về giáo dục- đào tạo là vấn đề
hết sức cần thiết . Quản lý Nhà nước về giáo dục – đào tạo là sự tác động có
tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo
dục và đào tạo, do các cơ quan quản lý giáo dục của nhà nước từ trung ương
tới cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền
nhằm phát triển sự nghiệp giáo dực và đào tạo, duy trì trật tự, kỷ cương, thỏa
mãn nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục
của nhà nước.
Với mục đích tìm hiểu sự quản lý của Nhà nước về giáo dục- đào tạo,
em xin chọn vấn đề: “Quản lý Nhà nước về giáo dục- đào tạo – mục tiêu và
phương hướng” làm đề tài tiểu luận cho học phần: Quản lý Nhà nước trên các
lĩnh vực trọng yếu.

2


B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO NƯỚC TA
1.1. Những thành tựu của nền giáo dục – đào tạo nước ta:
Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học
ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến
trường ở các cấp ngày một tăng. Năm học 2004 - 2005, đã có hơn 22 triệu học
sinh, sinh viên theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo.
Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô
đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần
dần được đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng xu
hướng thế giới là tiến tới phổ cập giáo dục đại học, mặt khác vẫn giữ nền tảng
giáo dục tinh hoa.
Trong những năm qua, để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất

lượng dạy và học, Nhà nước đã thực hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng
của các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách Nhà nước đầu
tư cho giáo dục và đào tạo đã tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005 với
cơ cấu tăng chi cho những nhiệm vụ trọng tâm của ngành như đổi mới
chương trình, bồi dưỡng giáo viên, tăng cường giáo dục miền núi.
Các dự án ODA trong giáo dục đào tạo cũng đã dành phần lớn cho giáo
dục cơ bản và đang được triển khai với tổng vốn vay hàng trăm triệu USD.
Việt Nam cũng đang tiến hành một dự án đặc biệt "Dự án giáo dục tiểu học
cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn" với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội,
điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đi học. Dự án đã được
triển khai tại 219 huyện khó khăn thuộc 40 tỉnh trong cả nước với gần 15.000
điểm trường.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong
tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn.
Trước hết là ưu tiên đầu tư theo mục tiêu cho các địa bàn có nhiều khó khăn,
phát hành công trái giáo dục để hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, vùng khó khăn
3


xây dựng trường học kiên cố, đạt chuẩn chất lượng và thực hiện xoá đói giảm
nghèo, thông qua đó tạo nhiều cơ hội cho trẻ tiếp cận nhiều hơn với dịch vụ
giáo dục. Hệ thống các trường phổ thông nội trú và bán trú được củng cố và
mở rộng với 13 trường trung ương, 50 trường tỉnh, 266 trường huyện và 519
trường bán trú xã, cụm xã.
Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập
tiểu học. Từ năm học 2002-2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi
15-24 đã đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3
năm. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ
người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh.
Ngành giáo dục và đào tạo đã đạt và vượt các chỉ tiêu cơ bản mà Chiến

lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005 trong năm học 2003-2004. Phổ
cập giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các vùng miền
trong cả nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần
lớn các nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục những
sự chênh lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi.
Tỷ lệ học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi đã tăng từ 90% trong
thập niên 1990 lên gần 98% trong năm học 2004-2005 (mục tiêu quốc gia đề
ra là đạt 97% vào năm 2005). Nếu như năm học 1997-1998, tỷ lệ học sinh
hoàn thành bậc tiểu học đạt 68% thì đến năm học 2004-2005, tỷ lệ này đã đạt
từ 99%-100% ở các vùng miền và tăng nhanh ở khu vực Tây Nguyên.
Có gần 120.000 trẻ khuyết tật học hòa nhập trong các trường phổ thông
và mầm non. Trong năm học 2003-2004, hầu hết các địa phương trong cả
nước đã huy động được gần 90% trẻ khuyết tật độ tuổi lớp 1 đi học hòa nhập
theo chương trình và sách giáo khoa mới.
Tất cả những con số nói trên cho thấy Việt Nam đã tạo được sự công
bằng trong tiếp cận học tập cho tất cả trẻ em gái, trai của các dân tộc, ở các
vùng, miền và đặc biệt quan tâm tới những trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn.
4


Không chỉ quan tâm tới việc phổ cập tiểu học mà Nhà nước còn có sự
quan tâm đặc biệt tới giáo dục mầm non, bậc học tiền đề cho giáo dục tiểu
học. Bậc học này hiện đã được khôi phục sau một thời gian dài gặp khó khăn
ở nhiều địa phương. Hiện nay, cả nước chỉ còn 4 xã mới tách chưa có lớp học
mầm non. Những thay đổi trong chính sách đãi ngộ đối với giáo viên đã tạo
nên sự phát triển mạnh mẽ của bậc học này trong mấy năm gần đây.
Các trường lớp của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia,
tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương
đương với các nước khác trong khu vực. Hiện tại, cả nước đã có gần 500

trường mầm non, gần 3.200 trường tiểu học, trên 400 trường trung học cơ sở
và phổ thông trung học đạt trường chuẩn quốc gia.
Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên nói chung được chú trọng đặc biệt.
Mạng lưới trường sư phạm rộng khắp cả nước với 10 trường đại học sư phạm,
11 trường đại học đa ngành được nâng cấp từ cao đẳng sư phạm (trong đó chủ
yếu là đào tạo sư phạm), trên 80 trường cao đẳng tham gia đào tạo giáo viên.
Trong vòng 5 năm qua, mạng lưới đào tạo này đã cung cấp thêm gần
250.000 giáo viên từ mầm non tới phổ thông trung học. Hiện có gần 1 triệu
giáo viên, giảng viên, trong đó có 700 giáo viên tiểu học có trình độ cao đẳng
sư phạm trong lĩnh vực dạy trẻ khuyết tật và gần 9.000 giáo viên mầm non,
tiểu học được tập huấn đào tạo về giáo dục hòa nhập.
1.2. Những hạn chề và nguyên nhân cần khắc phục trong nền giáo dụcđào tạo ở nước ta hiện nay:
* Một số hạn chế:
Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, của tất cả các cấp, các ngành, của toàn xã hội; diễn ra trên mọi lĩnh
vực kinh tế - xã hội; thông qua thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó,
giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu nhất.
Thực trạng của giáo dục và đào tạo còn không ít hạn chế, bất cập.
“Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào
5


tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào
tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số
lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo
dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục
toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo còn bất cập. Xu
hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm,

hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội”. Nghị quyết Đại hội XI
tiếp tục xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và
đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu
tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”.
Nhìn lại hệ thống giáo dục VN, những dấu hiệu khủng hoảng đã lộ rõ
từ lâu và ngày càng đậm nét.
Từ chỗ trước đây dù sao cũng là sự nghiệp toàn dân, là “bông hoa của
chế độ”, nay giáo dục đã dần dần mất phương hướng, không còn rõ giáo dục
cho ai, vì ai, để làm gì.
Trách nhiệm của Nhà nước đối với giáo dục có nguy cơ sút giảm để
dần dần nhường chỗ cho quan niệm tư nhân hóa cực đoan, phủ nhận giáo dục
với tư cách lợi ích công hòng biến nó thành một thứ hàng hóa thuần túy, thuận
mua vừa bán theo cung cầu của một thứ thị trường vô tâm.
Giữa mục tiêu lý thuyết và thực tiễn thực hiện tồn tại khoảng cách ngày
càng gia tăng, có nguy cơ đẩy giáo dục xa rời lý tưởng công bằng, dân chủ,
văn minh mà xã hội đang hướng tới.
Cơ cấu tổ chức và hoạt động giáo dục mất cân đối, rối loạn trầm trọng
giữa giáo dục phổ thông, dạy nghề, cao đẳng, đại học, giữa trường tư, trường
công, giữa chuyên tu, tại chức, đào tạo liên kết, v.v.... tất cả làm thành một hệ
6


thống tạp nham, rối ren không đồng bộ, thiếu nhất quán, hoạt động phân tán,
rời rạc, mà mỗi đơn vị tuân theo lợi ích cục bộ, thiển cận, nhiều hơn là quan
tâm đến lợi ích cơ bản và lâu dài của cộng đồng (gần đây nhất, giữa lúc Chính
Phủ kêu gọi mọi ngành ngăn cơn bão giá thì ngành giáo dục tăng giá sách
giáo khoa 10%).
Nội dung và phương pháp giáo dục thể hiện xu hướng hư học cổ lỗ,

dành nhiều thời gian học những kiến thức lạc hậu vô bổ (sau nhiều lần bàn cãi
cũng chỉ mới giảm được thời lượng bắt buộc).
Mặt khác lại quá thực dụng thiển cận, thiên về triết lý mì ăn liền mà coi
nhẹ những vấn đề có ý nghĩa cơ bản suốt đời cho mỗi người như: hình thành
nhân cách, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng cảm thụ.
Coi nhẹ kỹ năng lao động, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, đức tính
trung thực, năng lực sáng tạo, trí tưởng tượng, là những đức tính thời nào
cũng cần nhưng đặc biệt thời nay càng cần hơn bao giờ hết.
Bằng cách đặt nặng quá mức bằng cấp và thi cử, nhà trường đã vô tình
tuôn ra xã hội mọi thứ rác rưởi độc hại: bằng giả, bằng dỏm, học giả, v.v.
Chất lượng giáo dục sa sút một thời gian dài, nhất là ở đại học, cao
đẳng và dạy nghề, khiến nhân lực đào tạo ra còn rất xa mới đáp ứng được đòi
hỏi thực tế về cả chất lượng và số lượng, do đó đang trở thành nhân tố cản trở
nghiêm trọng sự phát triển kinh tế.
Dân trí thấp - hệ quả tất nhiên của giáo dục yếu kém -- tác động tiêu
cực đến môi trường, sức khỏe cộng đồng, an toàn giao thông, và hàng loạt vấn
nạn khác.
Thêm vào đó, chất lượng giáo dục quá thấp là nguyên nhân quan trọng
gây ra nạn chảy máu chất xám đang làm xã hội mất đi những nguồn lực trí tuệ
quý giá.
Trong khi chất lượng giáo dục sa sút thì chi phí giáo dục tăng liên tục,
trở thành gánh nặng phi lý không chỉ cho ngân sách quốc gia, mà còn cho mọi

7


gia đình vì phần đóng góp trực tiếp của dân ngoài thuế lên đến hơn 40% tổng
chi phí giáo dục.
Tuy nhiên, còn may là vượt lên trên tình hình chung không mấy sáng
sủa đó vẫn có những điểm sáng nhất định (lác đác trong từng cấp học đều có

những đơn vị khá thành công), chứng tỏ tiềm năng phát triển giáo dục ở đất
nước này còn nhiều.
Hai năm gần đây đã có một số chuyển biến tích cực nhưng vì chưa
động tới các vấn đề cốt lõi - nơi sức ỳ đã bám rễ trong nhiều năm - nên chưa
tạo đủ xung lực cho một cuộc lột xác của giáo dục hiện đang là đòi hỏi cấp
bách của xã hội.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
Xuất phát từ quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy trong nền
giáo dục hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán cho
thầy quyền uy tuyệt đối theo quan niệm “không thầy đố mầy làm nên”, biến
giáo dục thành quá trình truyền đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ động, đã xuất
hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với
chất lượng giáo dục.
Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”,
trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp
(thật ra chỉ là sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các thầy cô “tự cứu”
kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm
giảng viên đại học dạy trên 30 giờ/tuần).
Rốt cuộc phần thu nhập thêm đó cũng từ ngân sách hoặc tiền đóng góp của
dân mà ra, nhưng cái giá phải trả cho cái nghịch lý lương/thu nhập đó là chất
lượng giáo dục bị hy sinh, đạo lý xuống cấp, cần kiệm liêm chính mất dần,
gây ra tình trạng hỗn loạn rất khó đảo ngược để lập lại trật tự, dân chủ, văn
minh trong giáo dục.
Nhà nước và nhân dân Việt Nam xác định phát triển giáo dục-đào
tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát hiện
8


và bồi dưỡng nhân tài cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhà
nước đầu tư và tiến hành đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực, thực hiện công bằng trong giáo dục, xây dựng xã hội học tập,
tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Mọi công dân không phân biệt dân
tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đùnh, địa vị xã hội, hoàn
cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Giáo dục tiểu học và giáo dục
trung học cơ sở là các cấp học phổ cập, mọi công dân trong độ tuổi lao động
đều có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập. Nhà nước và ngành
giáo dục rất quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ cho con em dân tộc thiểu số, con
em gia đình ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn và các trẻ em tàn tật, khuyết tật thực hiện quyền và nghĩa
vụ học tập của mình.
Trong những năm qua cùng hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo, Công đoàn Giáo
dục Việt Nam đã chỉ đạo, tổ chức và động viên đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản
lý giáo dục và lao động nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị của ngành. Phong trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt” và các cuộc vận động xã
hội rộng lớn trong ngành tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh, góp phần xây
dựng đội ngũ nhà giáo phát triển về số lượng, nâng cao về trình độ chuyên
môn, nghiệp cụ. Đến năm học 2008 – 2009, trên cả nước, đội ngũ nhà giáo
trực tiếp đứng lớp có hơn một triệu người, tăng 2,2% so với năm học trước.
Tỷ lệ trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn của đội ngũ nhà giáo tiếp tục
tăng. Ở các trường đại học, đội ngũ giảng viên tăng, trong đó tỷ lệ giảng viên
có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ tăng.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã tích cực thực hiện nhiều biện
pháp quan trọng để phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư của nhà
nước và nguồn lực đóng góp của cộng đồng vào việc tăng cường cơ sở vật
chất, thiết bị giáo dục, kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo
viên, phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đầu tư của Nhà nước
cho giáo dục - đào tạo liên tục tăng, đến năm học 2008 - 2009, chi cho giáo
9



dục - đào tạo chiếm 20% tổng ngân sách Nhà nước. Chất lượng giáo dục toàn
diện được nâng cao hơn, tạo tiền đề cho sự phát triển của những năm tiếp
theo.
Giáo dục dân tộc và giáo dục khuyết tật tiếp tục được quan tâm và ưu tiên.
Hiện nay có 285 trường phổ thông dân tộc nội trú với gần 84.000 học sinh và
có 1.657 trường phổ thông dân tộc bán trú dân nuôi với 149.458 học sinh.
Nhà nước và ngành giáo dục chăm lo đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng giáo viên
chuyên dạy hoà nhập cho học sinh khuyết tật. Năm học vừa qua đã huy động
được 390.000 học sinh khuyết tật đi học hoà nhập.
Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học tiếp tục
được đầu tư xây dựng ở các vùng, miền, từng bước mở rộng qui mô đào tạo
nguồn nhân lực cho các ngành, địa phương và khu công nghiệp, đáp ứng ngày
càng cao cả về số lượng và chất lượng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Năm học này, số lượng học sinh trung cấp chuyên nghiệp tuyển
mới tăng 11,4%; cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng 18,2%. Số lượng sinh
viên đại học và cao đẳng tuyển mới tăng 9,2%, qui mô giáo dục đại học tăng
7,2% và đạt tỷ lệ 200 sinh viên trên một vạn dân.
Giáo dục thường xuyên phát triển mạnh, trên cả nước hiện có 65 trung tâm
giáo dục thường xuyên cấp tỉnh, 603 trung tâm cấp huyện và 9551 trung tâm
học tập cộng đồng ở phường, xã, thị trấn. Các trung tâm giáo dục thường
xuyên và trung tâm học tập cộng đồng đã tạo điều kiện để mọi người đều có
cơ hội học tập, học những gì mà người học đang cần, đáp ứng nhu cầu học tập
cho các tầng lớp nhân dân, từ nhiều đối tượng, lứa tuổi khác nhau. Việt Nam
đã hoàn thành nhiệm vụ phổ cập giáo dục tiểu học và hiện nay có 55/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương phổ cập trung học cơ sở.

10


CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM PHÁT TRIỂN

GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO
2.1. Mục tiêu
Trong những thời gian tới, tình hình khu vực và quốc tế vẫn còn nhiều
biến động phức tạp, kinh tế thế giới vẫn còn chứa đựng những tiềm ẩn rủi ro,
khó lường, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ vẫn còn có
những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam. Trong bối
cảnh đó, để góp phần phát triển bền vững sự nghiệp giáo dục - đào tạo, xuất
phát từ chức năng, nhiệm vụ, vị trí và vai trò của mình, đội ngũ nhà giáo và tổ
chức công đoàn giáo dục các cấp tập trung thực hiện một số giải pháp sau
đây:
- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật trong đội
ngũ nhà giáo. Trọng tâm là tập trung làm cho mỗi nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục thống nhất được nhận thức, nắm vững nhiệm vụ của ngành, cấp học,
bậc học và nhiệm vụ của nhà giáo được qui định trong Luật Giáo dục, Chỉ thị
về nhiệm vụ năm học của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo và các văn bản
pháp luật khác; từ đó triển khai có hiệu quả trong thực tiễn giáo dục ở trường
học và đơn vị. Tôn vinh đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và nghề
dạy học trong xã hội.
- Động viên đội ngũ nhà giáo tiếp tục thực hiện tốt phong trào thi đua
“Dạy tốt - Học tốt”, phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” và các cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự
học và sáng tạo”.
Thông qua đó, góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực của đội
ngũ nhà giáo. Tạo điều kiện cho đội ngũ nhà giáo tự học và ứng dụng công
nghệ thông tin đổi mới phương pháp giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ, sáng tạo và cải tiến đồ dùng dạy học, nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Quản lý tốt quá trình học tập và rèn
11



luyện của học sinh và sinh viên. Tiếp tục tổ chức có hiệu quả cuộc vận động
quyên góp quần áo, sách vở, dụng cụ học tập cho học sinh vùng khó khăn,
vùng bị thiên tai, lũ lụt; thực hiện yêu cầu 3 đủ đối với học sinh “đủ ăn, đủ
quần áo, đủ sách vở” góp phần giảm tỷ lệ học sinh yếu kém, học sinh bỏ
học.
- Tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đội ngũ nhà giáo đã được pháp luật qui định. Đồng thời,
chủ động tham gia xây dựng và đề xuất sửa đổi các văn bản pháp luật về
quyền và lợi ích của nhà giáo cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao
trong đội ngũ nhà giáo, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trường học và đơn
vị giáo dục. Tiến hành khảo sát thực trạng đời sống văn hoá của đội ngũ nhà
giáo miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và thực trạng nhà ở của giáo viên
trẻ ở các trường đại học, từ đó đề xuất những giải pháp khả thi nhằm góp
phần nâng cao đời sống đội ngũ nhà giáo.
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo tham mưu cho chính phủ tiếp
tục có thêm những chế độ chính sách thỏa đáng đối với nhà giáo nói chung và
những chế độ chính sách đối với nhà giáo công tác ở miền núi, vùng sâu vùng
xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn; giáo viên giảng dạy ở các trường
chuyên biệt, học sinh khiếm thị, khuyết tật … để họ yên tâm phục vụ lâu dài
trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
- Phối hợp với chính quyền đồng cấp, đẩy mạnh công tác xã hội hoá
giáo dục, góp phần huy động các nguồn lực của công đồng và xã hội để tăng
cường cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, xây dựng nhà trường xanh, sạch, đẹp;
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục, đổi mới phương pháp
dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Tạo dựng môi trường giáo
dục thân thiện, lành mạnh cho các hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu
khoa học của nhà giáo, học sinh và sinh viên.


12


- Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý và nghiệp vụ
hoạt động công đoàn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của công đoàn giáo dục các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; công đoàn các Đại học Quốc gia, Đại
học vùng; công đoàn các trường đại học và cao đẳng, từ đó góp phần đổi mới
các hoạt động công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh. Tăng
cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm hoạt động và những nội dung khác đã
được Công đoàn Giáo giới các nước ASEAN thoả thuận thực hiện.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp, đội ngũ nhà giáo sẽ góp phần xây
dựng nền giáo dục Việt Nam hiện đại, của dân, do dân, vì dân, đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước và hưởng ứng 5 năm cuối Thập
kỷ của Liên Hợp quốc về giáo dục vì sự phát triển bền vững (2005 - 2014).
2.2. Phương hướng
Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Với cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đang diễn
ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới hiện nay, khoa học và công nghệ đã trở
thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trong đó tri thức và thông tin trở thành
yếu tố quan trọng và nguồn tài nguyên đặc biệt, có giá trị cao. Do đó, vai trò
của các yếu tố truyền thống trong sản xuất và cạnh tranh đã có sự thay đổi
lớn: yếu tố trí tuệ có vai trò quyết định nhất trong mối tương quan với các yếu
tố tài nguyên thiên nhiên, vốn và sức lao động. Đồng thời cũng chính từ nó
đã hình thành nên nguồn lực nội sinh cho sự phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát
triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế
và đời sống xã hội; các quốc gia lớn, họ tham gia ngày càng nhiều vào quá
trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và

nhiều lĩnh vực khác. Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi để các nước có

13


điều kiện phát triển; sự hợp tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng cạnh
tranh cũng trở nên gay gắt…
Thành quả trong nhiều năm qua của nền giáo dục của chúng ta là đã tạo
nên một đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có kiến thức cơ bản vững chắc và gắn bó chặt chẽ với thực tiễn. Họ đã có
những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời đã góp phần đào tạo bồi dưỡng nên một thế hệ cán bộ khoa học – công
nghệ trẻ kế tiếp, giàu trí tuệ và năng động. Đội ngũ này là lực lượng nòng cốt
đáng tin cậy, đã và đang tích cực góp phần tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước cơ bản theo hướng hiện đại.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ phương hướng phấn đấu
của nền giáo dục nước ta trong giai đoạn mới là :nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học, thực
hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Theo phương hướng trên, trước nền giáo dục của chúng ta có trách
nhiệm rất to lớn và nặng nề là góp phần đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ thành
những chiến sĩ kiên cường bảo vệ những giá trị và thành quả của cách mạng,
trung thành với Đảng và sự nghiệp của Tổ quốc vàdân tộc, có khả năng biến
kiến thức thành niềm tin chỉ đạo cho hành động, có sức đề kháng mạnhmẽ
trước mọi ảnh hưởng của những tư tưởng độc hại đang xâm nhập, thẩm thấu,
làm biến chất thế hệ trẻ của chúng ta. Trong mối quan hệ giưã nhà trường và
xã hội, cần phá vỡ bức tường ngăn cách đào tạo, khoa học với sản xuất; phải
làm cho quá trình giáo dục và đào tạo thực sựmềm dẻo, thích ứng với những
đổi thay của thời đại mà nổi bật là xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và
hướng tới "xã hội thông tin"; phải cân đối lại các nguồn nhân lực được đào

tạo, chủ yếu là giữa những người trực tiếp sản xuất, những cán bộ thiết kế và
kỹ thuật, những cán bộ là công tác nghiên cứu và phát triển, cân chú trọng
đồng thời cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
chỉ làm như vậy mới có thể tạo nên nguồn lực nội sinh dồi dào, mạnh mẽ và
14


có khả năng kết hợp chặt chẽ được với nguồn lực ngoại sinh, thực hiện tốt
nhiệm vụ trong giai đoạn đầu tiên của cả thời kỳ công nghiệp hóa, hiên đại
hóa ở nước ta là: tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài, vận dụng phù
hợp với điều kiện thực tế bên trong, đồng thời đi thẳng vào công nghệ tiên
tiến ở những ngành, những lĩnh vực có tác động chi phối nền kinh tế quốc
dân, và tiến tới sáng tạo ra công nghệ mới.
Ngoài ra, phải phân đấu xây dựng xã hội ta thành một xã hội có trình
độ dân trí và học vấn cao. Tùy theo điều kiện cụ thể từng giai đoạn mà nâng
dần trình độ phổ cập giáo dục cho toàn dân theo độ tuổi quy định (trước mắt
là phổ cập giáo dục tiểu học, tiến lên phổ cập ở bậc trung học cơ sở), khuyến
khích để ngày càng có nhiều người lao động trực tiếp sản xuất vươn tới trình
độ học vấn cao đẳng, đủ khả năng làm việc trong một hệ thống dây chuyền
công nghệ hiện đại. Cần đào tạo điều kiện cho con em các dân tộc ở vùng sâu,
vùng xa… được học hành, tiếp thu nền giáo dục tốt và có khả năng vươn lên
trình độ học vấn cao. Như vậy, vừa bảo đảm được sự công bằng xã hội trong
giáo dục, vừa góp phần bảo đảm sự phân bố cán bộ khoa học- công nghệ theo
vùng và lãnh thổ một cách phù hợp, tạo lực lượng nòng cốt cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các ngành và các địa phương.
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nhà nước đòi hỏi phải không ngững
nâng cao chất lượng đào tạo. hiện nay nhiều nước trên thế giới đã bước vào
giai đoạn phát triển cao của khoa học và công nghệ, còn ước ta vẫn ở trong
tình trạng khá lạc hậu, chưa ứng dụng được nhiều thành tự của nền khao học

và công nghệ tiên tiến. Để nước ta có thể rút ngắn được khoảng cách đối với
các nước tiên tiến, có thể đi tắt, đi nhanh, đóng đầu, tiến thẳng lên trình độ
hiện đại, để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nền kinh tế, hội nhập được vào
một thế giới đầy biến đồng có nhiều thời cơ, nhưng cũng lắm ngu cơ, thử
thách, chúng ta cần phải có một đội ngũ cán bộ và nhân viên kỹ thuật được
đào tạo tốt. Đặc biệt là phải hết sức chú trọng bồi dưỡng nhân lực tinh hoa –
15


các nhân tài làm nhiệm vụ chủ trì những hướng, ngành và lĩnh vực khoa học
và công nghệ quan trọng, then chốt của đất nước do đó cùng với việc mở rộng
quy mô đào tạo, cần hết sức quan tâm đến việc không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo, chú trọng xây dựng tốt năng lực công nghệ Quốc gia ở bước đi
đầu tiên. Nhưng để xây dựng tốt năng lực công nghệ Quốc gia, cần phải chú
trọng xây dựng năng lực khoa học công nghệ quốc gia vì hoạt động khoa học
cho phép phát hiện quy luật của các sự vật và hiên tượng, vận dụng những
quy luật ấy vào thực tiễn, và do đó tạo thành cơ sở của công nghệ. Hơn nữa,
chỉ có trình độ khoa học cao mới có khả năng tiếp thu được công nghệ tiên
tiến, hiện đại cũng như sáng tạo ra công nghệ mới. Vì thế, phải chú ý đào tạo,
bồi dưỡng và thu hút các tài năng khoa học trẻ làm công tác nghiên cứu khoa
học và phát triển, tạo ra một thế hệ đồng bộ đội ngũ chuyên gia – nhà khoa
học học, bao gồm những cán bộ có năng lực nghiên cứu, thiết kế giỏi và
những cán bộ có năng lực công nghệ giỏi.
Cần hình thành những trung tâm chất lượng cao để đào tạo nhân lực
tinh hoa cho một số ngành khoa học – công nghệ trọng điểm, có đẳng cấp
quốc tế. Những trung tâm như vậy cần được đầu tư tốt đội ngũ giáo sư- giảng
viên, cơ sở vật chất thí nghiệm và các điều kiện học tập, kể cả các điều kiện
giao lưu và hợp tác quốc tế, sinh viên đượcđào tạo tại các trung tâm như vậy
cần được tuyển chọn tốt bằng mọi quy trình hết sức chặt chẽ.
Nhiệm vụ đào tạo theo nhân lực tinh hoa không nên chỉ giao cho một số

trường, hoặc thành lập một trường riêng biệt, mà là cần căn cứy vào thế
mạnh, truyền thống của các trường trọng điểm quốc gia hiện nay (Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố HCM, Đại học Bách Khoa Hà
Nội) để hình thành những trung tâm chất lượng cao phù hợp với đẳng cấp
Quốc tế.
Cần làm cho đất nước ta trở thành đất nước của những người hiền tài, ở
đó , mọi năng lực trọng dụng và tạo điều kiện để phát triển mọi sáng tạo được
khuyến khích và phát huy, giúp phần thực hiện được mục tiêu "dân giàu, nước
16


mạnh, xa hội công bằng, dân chủ văn minh", sánh vai cùng các nước trên thế
giới trong nhịp bước khẩn trương củathời đại (Báo cáo chính trị Đại hội X).
Trong giai đoạn phát triển hiện nay của cách mạng khoa học công nghệ
trên thế giới, chất lượng đào tạo còn gắn với việc trang bị cho người học khả
năng khai thác được thông tin toàn cầu về khoa học và công nghệ như là một
dạng tài nguyên đặc biệt qua hệ thống các mạng thông tin khổng lồ. ở đây cần
hết sức lưu ý việc giáo dục cho thế hệ trẻ bản lĩnh chính trị vững vàng, biết
lựa chọn thông tin cần thiết cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, loại trừ những tư tưởng độc hại và mọi âm mưu diễn biến hòa bình qua
các dòng thác thông tin đó.
Ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, chu kỳ từ
lúc có phát minh khao học đến lúc nó được ứng dụng trong thực tiễn ngày
càng rút ngắn, thông tin đã trở thành một nguồn lực, một nguồn tài nguyên
thực sự, luôn luôn thay đổi và phát triển. Trong điều kiện đó, giáo dục và đào
tạo ở nhà trường được coi là gia đoạn mở đầu của một quá trình học tập liên
tục, không bao giờ ngừng nghỉ trong suốt cuộc đời hoạt động của mỗi người.
Giáo dục phải trở thành một hệ thống đa dạng, mềm dẻo hướng tới số đông
nhưng lại trên cơ sở cá biệt hóa và tự đào tạo, chú ý đến năng lực và triển
vọng của từng người. Mọi bằng cấp và học vị chỉ có giá trị ghi nhận trình độ

đến một giai đoạn nhất định, cong tương lai phụ thuộc hoàn toàn vào việc tự
học tập, tự hoàn thiện của mỗi người trước sự đổi thay và phát triển mạnh mẽ
của nền khoa học và công nghệ hiện đại.

17


C: KẾT LUẬN
Mục tiêu phát triển xã hội một cách bền vững đang đặt ra cho giáo dục
những yêu cầu mới. trong nội dung, chương trình và tổ chứuc ngành nghề đào
tạo cần hết sức quan rtâm đến các vấn đề về môi trường sinh thái và bảo vệ
môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; giải quyết tốt nhiệm vụ thúc đẩy
phát triển kinh tế đồng thời việc làm lành mạnh các quan hệ xã hội; kết hợp
tốt lợi ích của công cuộc phát triển trước mắt với lợi ích lâu dài của dân tộc và
tương lai của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố an
ninh, quốc phòng; kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ.
Ngoài ra do văn hóa ngày vàng có tầm quan trọng đặc biệt không những đối
với ựu phát triển kinh tế – xã hội trước mắt, mà còn bảo đảm cho sự phát triển
lâu dài và bền vững của xa hội, cho nên cần hết sức đề cao yêu cầu văn hóa
trong mục tiêu giáo dục và đánh giá chất lượng giáo dục.
Với quan điểm giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển của đất
nước, là bộ phận quan trọng hàng đầu của kếhoạch phát triển kinh tế-xã hội
và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc xã hội hóa giáo dục là một
đòi hỏi mang tính tất yếu trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nói vai trò
chủ đạo của Nhà nước là nói đến vái trò của Nhà nước trong việc định
hư9ứng cho sự phát triển cuỷa giáo dục; việc xây dựng độ ngũ những người
thầy giáo- kỹ sư tâm hồn mà trách nhiệm và sứ mệnh của họ đối với sự
nghiệp đào tạo thế hệ trẻ không đổi thay ngay cả trong xã hội thông tin hiện
đại; và trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu nhất cho giáo dục.
Nhưng để có một hệ thống giáo dục lan tỏa khắp toàn quốc, mọi địa phương,

mọi ngành mọi thành phần kinh tế và mọi người dân đều có nghĩa vụ chăm lo
đến sự nghiệp giáo dục với những hình thức, tính chất và mức độ khác nhau.
ngoài hệ thống các trường công lập, khuyến khích mở các trường bán công,
dân lập và trường tư thục để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng và phong phú,
ngày càng tăng của toàn xã hội. áp dụng tộng rãi mô hình trường cao đẳng
cộng đồng nhằm phục vụ thiết thực cho lợi ích phát triển kinh tế – xã hôi của
18


từng địa phương trong cả nước. Sinh viên của các trường cao đẳng cộng đồng
phải được đào tạo nghề nghiệp tốt, đồng thời, tròn sự liên thông của toàn bộ
hệ thống, họ cần được tạo điều kiện để học tiếp chuyển lên đại học.
Tất cả các loại hình trường nói trên đầu phải có sự quản lý của Nhà
nước và các cơ quan quản lý giáo dục. Các tổ chức kinh doanh, sản xuất, dịch
vụ là những tổ chức trực tiếp sử dụng các sản phẩm của giáo dục và đào tạo
đầu phải có nghĩa vụ đóng góp cho sự nghiệp phát triển giáo dục của Nhà
nước.
Tóm lại chúng ta cần nắm vững xu hướng vận động và phát triển nền
giáo dục dưới tác độngcủa cách mạng khoa học và công nghệ thế giới cũng
như xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay để tận dụng thời cơ, vượt
qua thử thác, phấn đấu xây dựng một nền giáo dục Việt Nam tiên tiến, có bản
sắc dân tộc đậm nét và tính định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng, xứng đáng
ngang tầm và đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Đảng Cộng Sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.

2.

Chính phủ - Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1987 của Chính phủ về
phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế,
văn hoá.

3.

Học viện Hành chính Quốc gia - Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
xã hội. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.

4.

Học viện Hành chính Quốc gia - Quản lý nhà nước nguồn nhân lục.
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.

5.

Tài liệu học tập lớp bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước khóa 32 –
Trường Chính trị Tỉnh Bình Dương.

20


MỤC LỤC

A: MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B: NỘI DUNG..................................................................................................3
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO NƯỚC TA. 3
1.1. Những thành tựu của nền giáo dục – đào tạo nước ta:.........................3
1.2. Những hạn chề và nguyên nhân cần khắc phục trong nền giáo dụcđào tạo ở nước ta hiện nay:............................................................................5
CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO................................................................................11
2.1. Mục tiêu...................................................................................................11
2.2. Phương hướng........................................................................................13
C: KẾT LUẬN...............................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20

21



×