Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TIỂU LUẬN - QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC XÍT, Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HIỆN VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TRONG NHẬN THỨC VỀ CON ĐƯỜNG, ĐỘNG LỰC ĐI LÊN CNXH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.63 KB, 32 trang )

1

QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC XÍT.
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HIỆN VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
TRONG NHẬN THỨC VỀ CON ĐƯỜNG, ĐỘNG LỰC ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Không ai có thể phủ nhận những lập luận khoa học - những cứ liệu khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội - của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự vận động có tính quy luật,
khách quan của xã hội loài người nói chung, xã hội tư bản nói riêng. Những nguyên lý
tổng quát trình bày trong bản Tuyên ngôn cho đến nay vẫn hoàn toàn đúng. Những
đường nét chủ yếu của thế giới hôm nay - thế giới của những thập niên đầu thế kỷ 21 và của những gì đang diễn ra trong xã hội tư bản hiện đại đều là những minh chứng
hùng hồn, đanh thép cho những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản. Sức
sống bất diệt của những tư tưởng trong Tuyên ngôn đã được Gi.Ðê-ri-đa, một triết gia
hiện đại phương Tây có uy tín ở Pháp và ở Mỹ, không phải là một người mác-xít, thừa
nhận một cách không do dự trong cuốn Những bóng ma của Mác (Spectres de Marx),
xuất bản ở Paris tháng 10-1993: "Cần phải trở về với C.Mác... Không có tương lai nếu
không có C.Mác, nếu không có các di sản của C.Mác".
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Ðông Âu sụp đổ, các thế lực thù
địch hý hửng tưởng rằng, "Chủ nghĩa Mác đã chết", đã được chôn vùi vĩnh viễn dưới
đống gạch của bức tường Berlin, dưới đống đổ nát của chủ nghĩa cộng sản. Song chủ
nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đã không chết. Trên thế giới ngày nay
vẫn đang trụ vững và phát triển không ngừng nhiều nước xã hội chủ nghĩa, như Trung
Quốc, Việt Nam, Cuba... Các nước châu Mỹ la-tinh, các lực lượng cánh tả đã liên tiếp
giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử, nắm được chính quyền, trong đó nhiều nước công
khai tuyên bố đi theo con đường phát triển xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng đây là một hiện
tượng mới trong những năm đầu của thế kỷ 21, thu hút sự chú ý toàn cầu.
Những nhà Mác-xít chân chính, những nhà khoa học thật sự đã nhận thức sâu sắc
rằng thế giới ngày nay đã có nhiều đổi khác so với 161 năm trước. Bối cảnh thế giới lúc



2

C.Mác viết Tuyên ngôn là chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ tự do cạnh tranh. Ngày nay - trên
nền của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão, của nền kinh tế tri
thức - là thế giới toàn cầu hóa. Cần khẳng định lại những điều cơ bản, đúng đắn từ lúc
C.Mác và Ph.Ăng-ghen mở đầu bản Tuyên ngôn cho đến tận hôm nay. Hai ông đã nói tới
"xã hội tư sản hiện đại không thể xóa bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những
giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho
những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi".
Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu
thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu
thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu
thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển. Xã hội tư bản trong
"trật tự thế giới mới" vẫn còn nhiều "vết loét" như cách nói của Ðê-ri-đa. Xã hội tư sản
hôm nay tồn tại trên cơ sở sự thống trị của chế độ tư hữu, trên sự áp bức, bóc lột những
người lao động và những nước nghèo của các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia,
của một số nước phát triển. Ngày nay, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới
những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Ðấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Các quốc gia độc lập ngày
càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của
mình... Tất cả những nét mới ấy trong tình hình thế giới và khu vực hôm nay cho thấy
những dự báo trong Tuyên ngôn về chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản là đúng đắn.
Chủ nghĩa Mác là một học thuyết sống không chỉ vì những nguyên lý cơ bản của
nó vẫn vẹn nguyên giá trị cùng với thời gian, mà còn vì nó luôn vận động và đổi mới từ
C.Mác đến V.I Lênin, từ V.I Lênin đến Hồ Chí Minh, từ Hồ Chí Minh đến thế hệ hôm
nay và mai sau. Di sản của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được các học trò gìn giữ bằng cách
vận dụng và phát triển sáng tạo trong suốt hơn một thế kỷ qua và được thực tiễn kiểm
chứng là đúng đắn. Cách mạng là sáng tạo. Chân lý là cụ thể. Thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý và luôn luôn vận động. Loài người đi từ nấc thang này đến nấc thang khác trong



3

nhận thức vô tận để tìm ra chân lý. Học thuyết cách mạng nếu không được bổ sung,
không được phát triển cùng với thực tiễn, dân tộc và nhân loại, thì sẽ trở nên xơ cứng,
không còn sức sống.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhà cách mạng sáng tạo, thiên tài, trước hết vì
nguyên lý mà các ông nêu ra vượt không gian, thời gian, luôn đâm chồi, nảy lộc cùng
với năm tháng. Là những nhà khoa học, các ông ý thức rõ ràng rằng, học thuyết cách
mạng phải là học thuyết "mở", học thuyết phát triển. Ngay trong Lời tựa viết năm 1872,
tức là 24 năm sau khi Tuyên ngôn ra đời, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng, "vài chi
tiết cần phải xem lại". Chính ngay Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng, "bất cứ ở đâu
và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử
đương thời". Trong suốt cuộc đời mình, C.Mác và Ph.Ăng- ghen đã nhiều lần nhấn
mạnh, trong bất luận trường hợp nào cũng không nên coi học thuyết của hai ông như
những khuôn mẫu; rằng, "lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển chứ không
phải là giáo điều". Cả hai ông đều nhấn mạnh tới sự cần thiết của "tự do phát triển" học
thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học...
Chủ tịch Hồ Chí Minh tự coi mình là người học trò nhỏ của C.Mác. Khi ca ngợi
người thầy, Hồ Chí Minh cho rằng C.Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện
chứng. Vì vậy, Người nhấn mạnh tới việc học tinh thần xử trí mọi việc của C.Mác; dùng
lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích tình hình
cụ thể và tìm ra quy luật của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nhấn mạnh ý kiến của V.I Lênin cho rằng, "lý luận cách mạng không phải là giáo điều,
không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo, là kim chỉ nam cho hành
động cách mạng, cần phải luôn bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực
tiễn sinh động". Ngay từ năm 1924, trong khi khẳng định "chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng
cả ở đó", Người đã không ngần ngại viết rằng: "Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung
"cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở

thời mình không thể có được. Cần nhận thức một cách khoa học rằng, mỗi dân tộc có
quyền lựa chọn con đường tiến lên để đạt mục tiêu cách mạng, phù hợp với đặc điểm,


4

tình hình của mình, không nhất thiết mọi nước đều có cùng khuôn mẫu giống nhau.
Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định không có một mô hình, con đường chung đi
lên chủ nghĩa xã hội cho tất cả các nước. Người viết: " Từ cộng sản nguyên thủy đến chế
độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn
cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi
tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Ðông Âu, Trung Quốc, Việt Nam".
Người còn nhấn mạnh: "Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán
khác, có lịch sử địa lý khác... Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội".
Bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác, chúng ta có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng
ta đã làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi vĩ đại trong các cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vượt qua thử thách và phải trả giá đắt
trong 10 năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã đi chặng đường đổi mới
được hơn 20 năm. Bài học hàng đầu của Ðảng Cộng sản Việt Nam tổng kết từ hơn 20
năm qua là đổi mới phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðiều quan trọng là phải
luôn luôn nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa có chọn lọc mọi thành quả xưa nay của loài người theo tinh thần "dĩ
bất biến ứng vạn biến" để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất
- đó là thế giới vật chất. Tính thống nhất của thế giới không chỉ được hiểu một cách đơn
giản là vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người, một thế giới bao la rộng lớn “vô thuỷ, vô chung”, thế giới thống nhất ở tính vật

chất; mà còn phải hiểu rằng, trong thế giới có vô số các sự vật, hiện tượng khác nhau,
chúng tồn tại trong mối liên hệ thống nhất biện chứng, tác động qua lại ảnh hưởng lẫn
nhau, chúng luôn vận động biến đổi và phát triển không ngừng.


5

Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải có nhận thức đúng về nó, nhận thức
được các nguyên lý, quy luật vận động của thế giới, từ đó tìm ra phương pháp tác động
đúng, thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của con
người. Muốn vậy, tư duy của con người không thể nghèo nàn, chết cứng, hay cô lập tách
rời; mà phải phong phú, sinh động, linh hoạt, nhìn nhận và xét đoán sự vật, hiện tượng
phải khách quan, toàn diện, lịch sử- cụ thể và phát triển. Quá trình vận động, phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới diễn ra như thế nào, do đâu mà có sự vận động,
phát triển ấy, những vấn đề này đã được phép biện chứng duy vật Mác xít nói chung,
nguyên lý về sự phát triển nói riêng đã làm rõ. Những bài học kinh nghiệm của Đảng và
Nhà nước trong lãnh đạo và quản lý được rút ra qua các kỳ Đại hội là phản ánh tính quy
luật trong sự phát triển của cách mạng Việt Nam; đây cũng chính là cơ sở lý luận khoa
học để chúng ta nâng cao nhận thức, hiểu biết đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay.
1. Một số vấn đề cơ bản về quan điểm phát triển của phép biện chứng duy
vật Mác xít.
* Quan điểm ngoài Mác xít về phát triển và quan điểm phát triển.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: mọi sự vật, hiện tượng vận động và phát triển,
nhưng đó chỉ là sự vận động trong ý thức con người, hay sự vận động của “ý niệm”, “ý
niệm tuyệt đối”. Họ phủ nhận tính khách quan của sự phát triển, đi tìm nguồn gốc của sự
phát triển ở các hiện tượng siêu tự nhiên phi vật chất.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình khi xem xét vấn đề phát triển, họ coi sự phát triển chỉ
là sự tăng lên hay giảm đi thuần túy về số lượng, không có sự thay đổi về chất. Đồng thời
quan điểm siêu hình còn phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng. Theo họ,

sự vật là cái gì đó đồng nhất thuần túy, không có mâu thuẫn bên trong bản thân nó. Họ đã
thừa nhận sự vật, hiện tượng có đối kháng xung đột với nhau, nhưng đó không phải là
mâu thuẫn. Trên cơ sở đó họ khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm bên ngoài sự
vật, hiện tượng, coi sự phát triển như là một sự tuần hoàn được lặp đi lặp lại, cái mới phủ
định cái cũ, xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, chấm dứt sự liên hệ, vận động, phát triển của bản


6

thân sự vật, hiện tượng. mặt khác nếu có kế thừa thì đó là sự kế thừa nguyên xi, máy móc.
Một số người theo quan điểm siêu hình cũng xem xét sự phát triển như là một quá trình
tiến lên liên tục theo con đường thẳng, không có bước quanh co, phức tạp.
Tóm lại, cả chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình đều chưa nhận thức
đúng đắn, khoa học về sự phát triển, chưa lý giải được nguồn gốc, cách thức, khuynh
hướng sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Quan điểm Mácxít là quan điểm khoa học về sự phát triển, đây là cơ sở, yêu
cầu của quan điểm phát triển.
Phép biện chứng duy vật Mác xít là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
điều kiện khách quan (nhất là những cống hiến của phép biện chứng trong lịch sử) và
nhân tố chủ quan (sự thiên tài, tình bạn vĩ đại, tâm huyết của hai ông). Theo Ph.Ăngghen,
phép biện chứng chẳng qua là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và phát triển của tự nhiên, xã hội và của tư duy. Phép biện chứng đã xuất hiện từ thời cổ
đại, nhưng thời kỳ đó chỉ mang tính chất mộc mạc, ngây thơ, trực quan, như tư tưởng biện
chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, tư tưởng biện chứng của triết học Phật giáo,
hay triết học Trung Quốc cổ đại chưa có cơ sở khoa học để chứng minh cho nó. Phép biện
chứng cũng đã có thời kỳ gắn liền với chủ nghĩa duy tâm, chủ yếu nhằm phục vụ cho giai
cấp thống trị, phản ánh sai lệch hiện thực khách quan, ít có tác dụng trong nhận thức và
cải tạo thế giới. Chỉ đến thời kỳ của C.Mác và Ph.Ăngghen, hai ông mới làm cho phép
biện chứng thực sự quyện chặt với chủ nghĩa duy vật, tạo thành chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật thực sự, có giá trị to lớn trong quá trình nhận thức và

cải tạo thế giới, tạo ra sự khác hẳn về chất so với các hình thức của phép biện chứng đã
tồn tại trong lịch sử. Phép biện chứng duy vật phản ánh một cách khách quan, toàn diện
toàn bộ quá trình vận động và phát triển của thế giới thông qua hệ thống những nguyên lý,
phạm trù và quy luật cơ bản của mình; giúp cho con người luôn nhìn nhận, thấy rõ tính
phong phú muôn vẻ, tính vận động và phát triển không ngừng của thế giới vật chất, từ đó
các chủ thể có một cách nhìn biện chứng về thế giới, để khám phá ra phương pháp hành
động thích hợp tác động vào thế giới một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của con


7

người và xã hội. Trong hệ thống những nguyên lý ấy, có nguyên lý về sự phát triển của
phép biện chứng duy vật, nó đã vạch rõ nguồn gốc, trạng thái, cách thức, khuynh hướng
quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Các ngành khoa học đã chứng minh, mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới
không tách rời nhau, không chỉ nương tựa, xâm nhập vào nhau, mà chúng còn có quá
trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Do đó, phép biện chứng duy vật Mác xít phát
hiện ra sự phát triển của các sự vật, hiện tượng đó là một thành tựu to lớn trong lịch sử
triết học nhân loại, đặc biệt khi sự phát triển ấy được khái quát và xây dựng thành một
nguyên lý thì giá trị của nó càng to lớn hơn nhiều, ngày càng trở thành cơ sở lý luận
khoa học và cách mạng cho các Đảng Cộng sản, phong trào công nhân quốc tế cũng như
toàn nhân loại tiến bộ trên thế giới trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
tốt đẹp hơn, với một niềm tin tưởng cao hơn và vững chắc hơn.
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kế thừa những yếu
tố hợp lý trong lịch sử triết học, dựa vào thành tựu của khoa học và của thực tiễn xã hội,
C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin đã đưa ra quan điểm khoa học về phát triển.
Phát triển có liên quan trực tiếp tới vận động; phát triển không đồng nhất và
không đối lập với vận động. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là sự biến đổi
nói chung của mọi sự vật, hiện tượng. Trong thế giới khách quan, mọi sự vật, hiện tượng
đều có quá trình hình thành, tồn tại và biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Sự

biến đổi, chuyển hoá này là vô cùng, vô tận với tính chất và khuynh hướng khác nhau.
Có những biến đổi làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời, có những biến đổi làm cho sự
vật, hiện tượng tan rã, tiêu vong hoặc cái lạc hậu mất đi, thay thế vào đó là cái tiến bộ.
Từ đó ta thấy khái niệm vận động chỉ là khái quát sự biến đổi nói chung của sự vật, hiên
tượng, không xét đến tính chất, khuynh hướng và kết quả của nó.
Phát triển là sự vận động theo một khuynh hướng nhất định, theo con đường đi
lên từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan,
là quá trình tự thân,quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ.


8

Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ khái quát quá trình vận động tiến
lên từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, phát triển là một
trường hợp đặc biệt của vận động. Phát triển cũng là một hình thức vận động, cũng là
một kiểu vận động, nhưng thông qua kiểu vận động đặc biệt này sẽ cho ra đời một “cái
mới” hơn hẳn về chất so với cái cũ (cao hơn và hoàn thiện hơn cái cũ). Như vậy, không
phải mọi sự vận động đều được coi là phát triển, mặc dù có năm hình thức vận động cơ
bản của thế giới vật chất (vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hoá học, vận động
sinh học và vận động xã hội), nhưng chỉ những hình thức vận động nào, những sự vận
động nào làm cho các mặt, các thuộc tính của sự vật, hiện tượng, hoặc làm cho bản thân
sự vật, hiện tượng đó tiến lên từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn
thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, sự vật, hiện tượng có một bước nhảy vọt về chất,
cái mới được ra đời phủ định cái cũ, đó mới được coi là sự phát triển, sự phát triển ấy là
một quá trình “của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. Như sự phát triển của
một con người từ khi được sinh ra, lớn lên – trưởng thành – hoàn thiện hơn về mọi mặt
(cả về hình dáng, kích thước, thể chất, trình độ.v.v.). Quan điểm của phép biện chứng
duy vật khác hẳn, thậm chí còn đối lập với quan điểm duy vật siêu hình khi bàn về sự
phát triển, nếu như phép biện chứng duy vật cho rằng phát triển là khuynh hướng chung

của mọi sự vật, hiện tượng, là quá trình có sự nhảy vọt về chất, có sự ra đời của cái mới
thì quan điểm duy vật siêu hình cho rằng sự vật, hiện tượng không có sự phát triển, hoặc
nếu có thừa nhận sự phát triển của sự vật, hiện tượng, thì đó chẳng qua chỉ là sự tăng lên
về mặt số lượng một cách đơn thuần chứ không có sự nhảy vọt về chất, sự phát triển
diễn ra theo đường tròn khép kín, chứ không phải theo đường xoắn ốc vô tận. Như vậy,
quan điểm siêu hình về sự phát triển của sự vật, hiện tượng, thực chất là không thừa
nhận có sự phát triển, đó chỉ là sự vận động dẫn đến sự lặp lại sự vật, hiện tượng cũ một
cách nguyên si, không có sự ra đời của cái mới. Khi so sánh phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình, V.I. Lênin viết: “Hai quan niệm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến
hoá): sự phát triển coi như là sự giảm đi và tăng lên, như là sự lặp lại, và sự phát triển coi
như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống nhất thành những


9

mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa những mặt đối lập)…quan
niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ
có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của sự (tự vận động) của tất thảy mọi cái
đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián
đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ
và nảy sinh ra cái mới”(1).
Như vậy, khái niệm phát triển không phải là sự vận động nói chung, nó chỉ khái
quát sự vận động theo khuynh hướng đi lên, đánh dấu bằng sự ra đời của cái mới. Phát
triển có nguồn gốc, trạng thái, khuynh hướng nội tại của nó.
Khi đề cập đến nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phép biện chứng duy vật
khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có mâu thuẫn. Thống nhất và đấu
tranh là hai trạng thái đối lập của một mâu thuẫn, sự thống nhất (trong đấu tranh) của các
mặt đối lập là tương đối tạm thời, là tiền đề cho sự tồn tại của sự vật, hiện tượng. Sự đấu
tranh (trên cơ sở của sự thống nhất) của các mặt đối lập là tuyệt đối, vĩnh viễn, là nguồn
gốc, động lực bên trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạo ra trạng thái ổn định tạm thời
của sự vật, hiện tượng, đó là trạng thái của một mâu thuẫn mà trong đó các mặt đối lập
cùng tồn tại bởi sự ràng buộc, nương tựa vào nhau, trong thế tác dụng ngang bằng nhau
và trên cơ sở có sự giống nhau, sự đồng nhất giữa chúng. Sự thống nhất của các mặt đối
lập là một trạng thái đặc biệt của mâu thuẫn, vì chính ở đó các mặt đối lập tạm gác đi sự
đối lập để duy trì sự phát triển và làm tiền đề cho nhau. Sự thống nhất của các mặt đối
lập còn được biểu hiện như một thời điểm đặc biệt trong quá trình phát triển của mâu
thuẫn mà ở đó tương quan so sánh lực lượng giữa các mặt là ngang bằng nhau. Không
những thế, sự thống nhất của các mặt đối lập này còn được biểu hiện như một trường
hợp đặc biệt, giữa chúng có những đặc trưng, những yếu tố nào đó giống nhau, đồng
nhất với nhau, chính nhờ sự đồng nhất này mà các mặt đối lập có thể chuyển hoá được
cho nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, thoáng qua, tương đối, nó tương
1

. V.I. Lênin toàn tập, tập 29, bản tiếng việt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1981, tr.379.


10

ứng với trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng, sự thống nhất này là cơ sở
cho sự tồn tại và phát triển. Do đó, không được tuyệt đối hoá nó mà phải phân tích tìm ra
sự khác nhau, sự đối lập, tìm ra sự mâu thuẫn vốn có của nó.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, nó tạo ra sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng, tạo ra trạng thái của mâu thuẫn mà ở đó các mặt đối lập tác động qua lại
theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau, dẫn đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
Đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, thường xuyên diễn ra từ thấp
đến cao, gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Sự đấu tranh đó được biểu hiện như một quá
trình các mặt đối lập lấy nhau làm đối tượng để thâm nhập vào nhau, làm cho cả mặt này
lẫn mặt kia luôn luôn vận động, biến đổi. Đấu tranh của các mặt đối lập cũng được biểu
hiện như một quá trình phá vỡ sự thống nhất vốn có giữa các mặt đối lập do việc tăng

cường xu hướng trái ngược nhau giữa chúng, đồng thời sự đấu tranh này còn được biểu
hiện như một phương thức giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng bằng cách các
mặt đối lập bài trừ, chuyển hoá cho nhau. Bởi vì: đấu tranh không phải là sự duy trì trật
tự, mà mục đích của nó là phá vỡ trật tự ấy để sự vật, hiện tượng chuyển sang sự vật,
hiện tượng mới. Vì thế, đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc động lực bên trong
của sự vận động và phát triển. Với ý nghĩa đó Lênin viết: “ Phát triển là một cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập”.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ biện chứng với nhau.
Thống nhất trong sự đấu tranh, bao hàm đấu tranh, không có sự thống nhất thuần tuý,
tuyệt đối tách rời sự đấu tranh. Đấu tranh trên cơ sở sự thống nhất, trong suốt quá trình
thống nhất, nhằm phá vỡ sự thống nhất cũ, thiết lập sự thống mới cao hơn, không có
cuộc đấu tranh chung chung tách rời nền tảng của sự thống nhất.
Khi đề cập đến cách thức của sự phát triển, phép duy vật biện chứng khẳng định:
Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra theo cách thức riêng
biệt. Cách thức của sự phát triển là đi từ sự biến đổi dần dần về lượng đến một mức độ
nhất định sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất; ngược lại, chất mới ra đời tạo điều kiện mới
cho lượng biến đổi.


11

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lượng bao giờ cũng là lượng của
một chất xác định; chất là chất của một sự vật, hiện tượng cụ thể; đi liền với một tính quy
định về lượng là một tính quy định về chất và ngược lại. Sự thống nhất giữa lượng và chất
là sự thống nhất của các mặt đối lập. Trong một quan hệ xác định thì lượng đặc trưng cho
tính thường xuyên biến đổi, tức là tính liên tục, còn chất đặc trưng cho tính ổn định, tức là
tính gián đoạn. Chất căn bản thay đổi sẽ trực tiếp dẫn đến sự vật thay đổi, còn lượng có thể
thay đổi ngay trong khi sự vật vẫn là nó, chưa là cái khác. Chất là cái để phân biệt giữa sự
vật này với sự vật khác, vì nó phản ánh tính chất của các yếu tố, các đại lượng. Còn lượng
đặc trưng cho sự đồng nhất, sự giống nhau giữa các sự vật hiện tượng cùng nhóm, cùng loại

vì nó phản ánh số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu sự vận động của sự vật, hiện tượng.
Sự thống nhất giữa lượng và chất là điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng, được
giới hạn trong độ. Độ là khoảng giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự
thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng.
Cách thức thay đổi trạng thái của sự vật, hiện tượng là đi từ sự thay đổi dần dần
về lượng dẫn đến bước nhảy chuyển hoá về chất. Sự thay đổi đó đánh dấu sự thay thế sự
vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay đổi đó diễn ra chỉ khi nào toàn
bộ các thuộc tính hoặc ít nhất là các thuộc tính căn bản của nó đã chuyển sang cái khác.
Do đó, sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới bao giờ cũng được thực hiện bằng bước
nhảy, và sự biến đổi dần dần về lượng đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến sự biến đổi
về chất là vạch ra cơ chế, cách thức sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chất mới ra đời tạo điều kiện cho sự phát triển mới về lượng.
Khi đề cập đến khuynh hướng của sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định: Khuynh hướng chung của mọi sự phát triển là quá trình cái mới phủ định
cái cũ, cái mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế thừa những yếu tố hợp lý trong lòng cái cũ, theo
cơ chế chu kỳ phủ định cái phủ định để khẳng định sự tiến lên. Con đường tiến lên trong
quá trình phát triển không tuân theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc.
Phát triển thông qua sự phủ định của phủ định. Đây là quá trình tự thân phủ định,
là sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn cái cũ. Phủ định của phủ định còn mang tính kế


12

thừa, đó là sự giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, cái mới ra đời trên cơ sở kế
thừa yếu tố tích cực trong cái cũ, nói phủ định là phủ định cái lỗi thời, lạc hậu của cái cũ,
nó không phủ định sạch trơn.
Phát triển của sự vật, hiện tượng không đi theo con đường thẳng hoặc vòng tròn
khép kín mà theo con đường quanh co, phức tạp. Sự phát triển là cái mới phủ định cái cũ
thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, mang tính chu kỳ. Trong một chu kỳ phát triển
ít nhất phải trải qua hai lần phủ định cơ bản. Lần phủ định căn bản thứ nhất gọi là: phủ

định cái khẳng định, làm cho sự vật chuyển thành cái đối lập với mình. Ở lần phủ định
này, sự kế thừa còn mang tính phiến diện, chưa thấy rõ sự phát triển mà mới vạch ra sự
thay đổi. Phủ định căn bản thứ hai: Là sự tổng hợp các nhân tố tích cực trong cái khẳng
định ban đầu và trong lần phủ định thứ nhất. Đó chính là sự thống nhất biện chứng giữa
cái tích cực trong các giai đoạn trước và cái nảy sinh trong quá trình phủ định biện
chứng. Ở lần phủ định này dẫn đến sự ra đời của sự vật mới với nhiều đặc trưng đối lập
với cái sinh ra nó ở lần phủ định thứ nhất.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng
thời lại là điểm xuất phát cho một chu kỳ phát triển mới tiếp theo. Lênin viết: “Từ khẳng
định đến phủ định, từ sự phủ định đến “sự thống nhất” với cái bị khẳng định, không có
cái đó phép biện chứng trở thành một sự phủ định sạch trơn, một trò chơi hay là chủ
nghĩa hoài nghi”(2).
Như vậy, không phải mọi chu kỳ phủ định đều có hai lần phủ định cơ bản mà có
khi phải trải qua nhiều lần phủ định trung gian mới thực hiện được một chu kỳ, bởi vì nó
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều sự quy định.
Lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự phát triển không diễn ra theo con
đường thẳng, mà là một quá trình biện chứng phức tạp và đầy mâu thuẫn. Con đường phát
triển theo mô hình xoáy ốc là hình thức biểu đạt rõ nhất các đặc trưng của quá trình phát
triển biện chứng, đó là tính kế thừa, tính lặp lại, nhưng không quay trở lại mà đi lên. Điểm
cuối cùng của một chu kỳ này đồng thời là điểm mở đầu của một chu kỳ khác tiếp theo,
2

V.I. Lênin toàn tập, tập 29, bản tiếng việt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1981, tr.216


13

thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng. Tính chất
quanh co, phức tạp của sự phát triển còn do tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh giữa cái
cũ và cái mới trong bản thân sự vật. Cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển

của sự vật, hiện tượng, do đó cái mới tất yếu sẽ là cái tất thắng, là cái phù hợp với xu thế
phát triển. Lênin viết: “Trong lúc cái mới vừa nảy sinh thì cái cũ trong một thời gian nào
đó vẫn còn mạnh hơn cái mới”(3). Phát triển có sự thống nhất với sự liên hệ, thông qua sự
liên hệ, quan hệ; sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mặt, các bộ phận làm cho sự
vật vận động, biến đổi, phát triển không ngừng.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng , phát triển là sự vận
động theo một khuynh hướng nhất định, theo con đường đi lên từ đơn giản đến phức tạp,
từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Thực chất đây là bức tranh của thế
giới, nói lên mối liên hệ phổ biến dẫn tới sự phát triển của các sự vật, hiện tượng. Đồng
thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chỉ ra nguồn gốc, động lực, khuynh hướng của sự
phát triển. Nguyên lý về sự phát triển là một trong những cơ sở, nền tảng của phép biện
chứng, là cơ sở lý luận của quan điểm phát triển - một nguyên tắc phương pháp luận khoa
học trong nhận thức và thực tiễn. Nguyên tắc này được chỉ ra như sau: Trong xem xét, cải
tạo sự vật, hiện tượng phải gắn với quá trình vận động, phát triển của nó.
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế
giới, quan điểm phát triển thể hiện ra ở một số yêu cầu sau đây:
Một là, phải xem xét sự vật hiện tượng trong sự vận động, phát triển và phải phát
hiện ra xu hướng phát triển của nó. Các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy tồn tại trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Bản chất khách quan
của quá trình đó đòi hỏi chúng ta phản ánh đúng đắn hiện thực, phải xem xét sự vật, hiện
tượng trong sự phát triển của nó. Hơn thế, sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng
diễn ra phức tạp, theo những xu hướng khác nhau, trong đó phát triển là xu hướng phổ
biến. Chính vì vậy, nhận thức một cách tích cực sự vật, hiện tượng, đòi hỏi phải phát
hiện được xu hướng phát triển của nó.
3

V.I. Lênin toàn tập, tập 29, bản tiếng việt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1981, tr.76


14


Hai là, phải thấy được tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển. Trong
quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng không chỉ có những biến đổi tiến lên mà có cả
những bước thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được khi bằng tư
duy khoa học để làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
Phương thức của sự phát triển là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự chuyển biến về chất;
nguồn gốc, động lực của sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập; khuynh
hướng của sự phát triển là dường như quay lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn, thông
qua sự phủ định biện chứng.
Ba là, tư duy phải mềm dẻo, phải luôn được sửa đổi, bổ sung và phát triển cho
phù hợp với sự biến đổi của bản thân sự vật, hiện tượng, cũng như sự phát triển của tư
duy nhân loại. Nhận thức là một quá trình biện chứng, là một quá trình vô tận. Do đó,
khi đề cập đến yêu cầu này, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Nếu tất cả đều phát triển thì cái đó
có áp dụng cho những khái niệm và những phạm trù chung nhất của tư duy không? Nếu
không thì tư duy không có liên hệ gì với tồn tại cả. Nếu có thì tức là có phép biện chứng
của những khái niệm và phép biện chứng của nhận thức. Sự vật, hiện tượng trong thế
giới vận động, biến đổi, phát triển không ngừng, trong khi đó, nhận thức của con người
bao giờ cũng có giới hạn về mặt lịch sử. Vì vậy, tư duy, nhận thức cũng phải luôn luôn
được sửa đổi, bổ sung và phát triển.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật hiện tượng, đó là quá trình tự thân vận động, tự thân phát triển; sự phát triển của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới đều có nguyên nhân, nguồn gốc từ bên trong của bản thân sự
vật, hiện tượng, do quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn, chứ không phải do “cái hích”
của thượng đế, hoặc do “cái đẩy” của một đấng siêu nhiên nào, cũng không phải do có sự
tác động từ bên ngoài vào sự vật, hiện tượng như quan điểm của một số nhà duy tâm, siêu
hình quan niệm; sự tác động từ bên ngoài sự vật, hiện tượng (không phải thần linh, thượng
đế) chỉ làm tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình phát triển của chúng, chứ không phải là
nguyên nhân hay nguồn gốc của sự phát triển ấy. Xã hội loài người muốn tồn tại và phát
triển cũng vậy, trước hết xã hội đó phải tự giải quyết được những mâu thuẫn trong lòng xã



15

hội, như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất về mặt kinh tế, giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng về mặt cấu trúc xã hội, giữa các giai cấp trong xã hội có
giai cấp.v.v. Bản thân con người muốn phát triển được cũng phải tự giải quyết rất nhiều
mâu thuẫn ngay ở bên trong con người, như mâu thuẫn giữa quá trình hấp thụ và bài tiết,
giữa đồng hoá và dị hoá, giữa nhu cầu và khả năng, giữa cái muốn biết và cái chưa
biết.v.v. chỉ khi nào những mâu thuẫn cơ bản của sự vật, hiện tượng được giải quyết, khi
đó mới có sự chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất và sự ra đời của cái mới. Song không phải
cứ có mâu thuẫn là lập tức có ngay kết quả của sự giải quyết mâu thuẫn ấy, có ngay sự
nhảy vọt về chất, mà chính ngay bản thân mâu thuẫn đó cũng phải trải qua một quá trình
phát triển (có thể là lâu dài, có thể là nhanh chóng, điều này tuỳ thuộc vào tính chất của sự
vật hiện tượng, của mâu thuẫn và phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể), mâu thuẫn
đó phải vận động phát triển bắt đầu từ sự khác biệt, đến sự đối lập, đến mâu thuẫn và mâu
thuẫn gay gắt không thể điều hoà, tạo nên những “cuộc xung đột” giữa các mặt đối lập để
giải quyết mâu thuẫn. Đồng thời với quá trình phát triển của mâu thuẫn là quá trình diễn ra
sự tích luỹ dần dần về lượng- lượng của chất- của sự vật, hiện tượng, cũng chính sự tích
luỹ về lượng này đã làm cho mâu thuẫn có sự vận động phát triển đến đỉnh cao của nó,
đến khi nó không thể giữ nguyên được trạng thái như cũ nữa, tức là mâu thuẫn đó phải
được giải quyết, sự thống nhất cũ phải được phá vỡ để thiết lập một sự thống nhất mới, cái
chất cũ đến đây đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
mới nữa, đòi hỏi phải có một chất mới, một sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật,
hiện tượng cũ; đó cũng là lúc sự vận động của lượng đã vượt quá giới hạn (gọi là độ) đạt
đến điểm nút, cái giới hạn mà ở trong đó đã diễn ra sự biến đổi về lượng (cũ) đến đây
cũng bị phá vỡ, thay vào đó là một giới hạn mới được thiết lập và tất nhiên lại có một sự
biến đổi mới về lượng ở trong giới hạn mới này. Đến đây ta có thể khẳng định: mâu thuẫn
đã được giải quyết, chất cũ đã bị chất mới phủ định, sự vật, hiện tượng cũ đã bị sự vật,
hiện tượng mới phủ định (cái mới đã ra đời thay thế cái cũ).
Sự phát triển của sự vật, hiện tượng thường là một quá trình lâu dài, liên tục, do đó

chúng ta không được nóng vội, áp đặt dễ dẫn đến chủ quan, duy ý chí. Chúng ta chỉ có thể


16

nhận biết quá trình đó, tác động vào, định hướng cho sự phát triển đó nhanh hơn để có tác
dụng tốt hơn cho nhu cầu của con người. Khi nói về quá trình phát triển lâu dài trong lịch
sử, giáo sư Trần Xuân Trường đã phân tích sự chuyển hoá lâu dài của thời kỳ quá độ, từ
chế độ xã hội này lên chế độ xã hội khác, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cũng
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, mức độ lâu dài còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố,
như khả năng thích nghi để tồn tại và tiếp tục phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng đi
lên cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước.v.v.và theo ông, hiện nay do một số
người nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc tính chất phức tạp, lâu dài của thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nên có người đã tự đánh mất niềm tin, dao động
về lập trường tư tưởng, ông viết: “Họ quên rằng trong lịch sử của mình từ chế độ xã hội
này sang chế độ xã hội khác, nhân loại cũng đã phải trải qua những thời kỳ quá độ quá dài
không phải diễn ra trong mấy chục năm mà hàng mấy trăm năm”, và ông đã lấy ví dụ
“chế độ phong kiến châu Âu đã phải mất gần 200 năm mới thay đổi hoàn toàn chế độ
chiếm hữu nô lệ”, qua phân tích lịch sử của nước Anh, Pháp, ông đã kết luận: “Như vậy,
nếu tính sự khởi đầu từ nước Anh đến nước Pháp và cả châu Âu, thời đại quá độ từ chủ
nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản ở châu Âu, ở Bắc Mỹ cũng phải gần 200 năm. Nếu
tính đến quá trình thực dân hoá sau này của chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới thì thời
gian còn dài hơn nữa”(4). Thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nhiều
nước trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, đã từng có thời kỳ nóng vội, chủ quan, áp đặt
dẫn đến một số sai lầm không những chẳng làm tăng nhanh quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, mà ngược lại còn làm kìm hãm quá trình đó, thậm chí có nơi còn bị lâm vào khủng
hoảng trầm trọng, mất chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, tình hình chính trị mất ổn định, nền
kinh tế bị tụt lùi nghiêm trọng, nhiều vấn đề về văn hoá xã hội bị xuống cấp.v.v. như một
số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây.
Quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới không phải đi theo

đường thẳng, mà theo đường xoắn ốc; chúng phải trải qua nhiều lần phủ định biện chứng,
với những chu kỳ (vòng khâu của sự phát triển) khác nhau, mỗi chu kỳ phát triển lại có
4

. Giáo sư Trần Xuân Trường, “định hướng XHCN ở Việt Nam một số vấn đề lý luận cấp bách, Nxb CTQG, H.1996, tr.
17-18.


17

hai lần phủ định cơ bản và có thể có nhiều lần phủ định không cơ bản. Khi kết thúc phủ
định cơ bản lần một tạo ra cái đối lập với cái ban đầu, giai đoạn này còn được gọi là khâu
trung gian trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Khi kết thúc phủ định cơ bản
lần hai tạo ra một sự vật, hiện tượng mới có nhiều thuộc tính giống như cái ban đầu, nên
đôi khi tưởng là cái ban đầu, nhưng thực chất nó không phải là cái ban đầu, mà là cái mới,
là cái dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Đến đây mới kết thúc một
chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng. Song, quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng
không phải chỉ có một chu kỳ, mà có thể có nhiều chu kỳ phủ định, với những tính chất
mức độ khác nhau; cứ kết thúc chu kỳ này lại có sự ra đời của chu kỳ mới.
Do sự vật, hiện tượng có nhiều mặt, nhiều thuộc tính khác nhau, nên vận động
biến đổi về lượng, sự vận động phát triển của các loại mâu thuẫn, sự nhảy vọt về chất
của chúng diễn ra rất phong phú, đa dạng, làm cho sự ra đời của cái mới cũng rất đa
dạng, phong phú muôn vẻ. Cái mới ra đời không nhất thiết khi nào cũng phải là cả toàn
bộ sự vật hiện tượng, mà có thể cái mới ra đời chỉ ở mặt này, mặt kia; cũng như sự
chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất vừa có những bước toàn bộ, vừa có những bước cục bộ,
bộ phận. Điều đó cho thấy, quá trình nhận thức và cải tạo thế giới con người phải luôn có
cách nhìn biện chứng, phải vừa thấy cái toàn bộ, đồng thời vừa thấy cái bộ phận, cái cụ
thể, tránh phiến diện hoặc chung chung, đại khái, qua loa cho xong việc; từ đó tìm ra
nhiều phương pháp tác động phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất.
Hình ảnh đường xoắn ốc cho thấy, quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng

trong thế giới diễn ra quanh co, phức tạp, khó khăn, có thể có những bước thụt lùi tạm
thời. Bước thụt lùi này chỉ như một giai đoạn có thể diễn ra, nằm trong quá trình phát
triển của sự vật hiện tượng, chứ không được cho rằng bước thụt lùi ấy cũng là một sự
phát triển - hai cách hiểu đó hoàn toàn khác nhau. Do sự đa dạng, phong phú muôn hình,
muôn vẻ của thế giới vật chất, nên khả năng xảy ra bước thụt lùi này cũng rất phong
phú, đa dạng, chúng có thể xảy ra ở mặt này hay mặt khác, ở nơi này hoặc nơi khác
trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, chúng ta không nên bi quan,
chán nản, nghi ngờ và thiếu niềm tin vào sự thắng lợi của cái mới, nhất là khi cái mới


18

vừa được “thoát thai” từ trong lòng cái cũ, cái cũ chẳng những còn rất mạnh, mà chúng
còn có khả năng “thích nghi”, còn đang được “che giấu” rất tinh vi xảo quyệt để tiếp tục
tồn tại và phát triển cùng với cái mới; cái mới ra đời thường còn rất non yếu, bản thân
“sức đề kháng” của cái mới chưa đủ sức chống lại sự tấn công từ nhiều phía của những
cái đối lập, chưa thực sự “quen” với môi trường hiện tồn. Do đó, sự thụt lùi, sự thất bại
của cái mới ở giai đoạn đầu này cũng là điều dễ hiểu, đòi hỏi con người phải nhận biết
được vấn đề này để vạch ra cách thức, bước đi, cách làm phù hợp, hạn chế tối đa những
tổn thất đáng tiếc đi đến thành công. Bên cạnh đó, chúng ta vừa cần có thái độ dứt khoát
ủng hộ, bảo vệ cái mới, vừa tạo điều kiện cho cái mới phát triển. Đồng thời, cần phân
biệt rõ cái mới thực sự và cái mới giả hiệu - giả danh để kịp thời ngăn chặn, loại trừ. Cái
mới thực sự là cái ra đời hợp quy luật, mang nội dung mới trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
những yếu tố còn phù hợp của cái cũ, là cái khác hẳn về chất so với cái cũ, mặc dù có
thể cái mới còn nhiều mặt non yếu, chưa theo kịp yêu cầu đòi hỏi của điều kiện khách
quan, nhưng cái mới bao giờ cũng là cái tất thắng. Vì lẽ đó, trong cuộc sống cũng như
trong quá trình hoạt động thực tiễn, một mặt, chúng ta luôn chú trọng hướng tới cái mới,
phát hiện ra cái mới một cách nhạy bén, nhìn về tương lai phát triển của nó một cách vừa
sâu sắc, vừa toàn diện; mặt khác, chúng ta cần phải luôn tỉnh táo, sắc sảo trong phân biệt
cái mới với cái cũ, cái mới thực sự với cái mới giả hiệu. Tích cực hoạt động thực tiễn để

làm chuyển biến “tương quan lực lượng” giữa cái mới và cái cũ, làm cho cái cũ mất dần
đi, cái mới ngày càng mạnh lên.
Xuất phát từ đặc điểm, tính chất, trạng thái, cách thức của quá trình vận động phát
triển của sự vật, hiện tượng, nên có thể có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, đòi hỏi
con người phải nhận thức được từng giai đoạn phát triển ấy, vạch rõ được những đặc
điểm, dự báo khuynh hướng cũng như một số khả năng ngẫu nhiên có thể xảy ra của
từng giai đoạn. Trên cơ sở đó dự kiến các “phương án” để bảo vệ và phát triển cái mới,
đáp ứng nhu cầu của mỗi con người và toàn xã hội. Tránh xem xét cứng nhắc, bảo thủ,
định kiến hoặc tuyệt đối hóa bất kỳ mặt nào, giai đoạn nào trong quá trình phát triển của
sự vật, hiện tượng. Tuỳ theo từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo khả năng của từng


19

sự vật hiện tượng mà đặt ra yêu cầu đòi hỏi “vừa sức” ở sự phát triển của sự vật, hiện
tượng, đồng thời cần phát huy tốt vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của con người để
tạo ra sự thuận lợi cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng, nhất là trong việc cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép
biện chứng duy vật, nó đã vạch rõ nguồn gốc, cách thức, con đường quá trình phát triển
của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Đây là cơ sở lý luận khoa học và cách mạng cho
con người đi nhận thức và cải tạo thế giới. Sự ra đời của cái mới là một tất yếu khách
quan, hợp quy luật. Vận dụng nội dung của nguyên lý phát triển vào nâng cao nhận thức
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay là một việc cần thiết và quan
trọng.
2. Ý nghĩa đối với việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Sự phát triển của xã hội loài người không phải là một quá trình biến đổi lộn xộn,
toàn những ngẫu nhiên, mà là một quá trình biến đổi có quy luật, gắn liền với vai trò của
con người một cách chặt chẽ, sự phát triển đó được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội, biểu

hiện ở sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và kế tiếp nhau của các nền văn
minh. Mỗi giai đoạn chuyển giao từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tếxã hội khác đều có một thời kỳ quá độ, đó là thời kỳ còn tồn tại đan xen giữa những yếu
tố tàn dư của xã hội trước đó với những yếu tố mới, nhân tố mới của xã hội mới ra đời.
Do vậy, việc nhận thức đúng và xác định đúng con đường phát triển mới của mỗi quốc
gia, dân tộc là vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Dưới ánh sáng lý luận Mác-Lênin về
nguyên lý phát triển, Đảng ta đã hình thành và phát triển tư duy về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội - đây là một thành tựu lý luận to lớn, là kết quả của sự tìm tòi, thể nghiệm
lâu dài trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, sự “rạn
nứt”, sụp đổ của một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều học giả
(nhất là các học giả tư sản) đã đưa ra nhiều học thuyết khác nhau về sự phát triển trong


20

tương lai của nhân loại. Có học giả cho rằng, cả xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội
chủ nghĩa đều phải có bước “cải tổ”, “cải biến” lại; cũng có quan điểm cho rằng ngày
nay không nhất thiết phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, mà
có thể đi theo con đường khác, hướng phát triển khác, hướng phát triển đó là gì, con
đường đó là gì, theo họ đó là cả hai cùng hướng tới một “xã hội hậu công nghiệp”, “xã
hội siêu công nghiệp” hoặc tạm gọi là “xã hội hậu tư bản”, đại biểu như Avin Tôphlơ,
J.Kgalbraith, Paul A.Samuelson, Peter F.Ducker. Đặc biệt trong “thuyết hội tụ” của
mình, học giả tư sản Mỹ- Avin Tôphlơ đã lý giải rằng, xã hội tư bản chủ nghĩa cũng
hướng tới cái đích là xã hội công nghiệp, xã hội xã hội chủ nghĩa cũng hướng tới cái
đích ấy, nên cả hai chế độ xã hội này sẽ đều gặp nhau, cùng “hội tụ” tại một điểm đó là
“xã hội hậu công nghiệp”, do đó, không cần phải xác định là đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Qua đây cho thấy thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp
vẫn là giữa hai con đường đi lên chủ nghĩa tư bản và đi lên chủ nghĩa xã hội diễn ra gay
gắt, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận vẫn gay go, phức tạp; vì vậy, việc xác
định đúng đắn con đường cho cách mạng các nước đang phát triển trên thế giới nói

chung, Việt Nam nói riêng không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi giai cấp lãnh đạo, các
đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin, nhất là nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật Mác xít, phải tỉnh táo, sáng suốt hơn nữa trong quá
trình lựa chọn đường đi cho phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội loài
người. Hơn nữa, trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng như hiện
nay, đang làm chao đảo không ít những người cộng sản, thậm chí có người còn nghi ngờ
cả chủ nghĩa Mác-Lênin. Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam cũng cảm thấy
như bị “hụt hẫng”, nuối tiếc thành quả cách mạng của chủ nghĩa xã hội sau gần 70 năm
tồn tại và phát triển, thành quả đó phải đánh đổi bằng xương máu mới có được. Vì vậy,
việc tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay là một sự
đúng đắn, một sự nhất quán cả về nhận thức và hành động, cả về lý luận và thực tiễn.
Chúng ta không thể đi lên xây dựng đất nước Việt Nam theo bất kỳ một con đường nào
khác ngoài con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn từ


21

hàng mấy chục năm qua. Do đó, cần nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về con đường
đang đi của cả dân tộc, để từ đây có hành động đúng hơn, tốt hơn cho công cuộc đổi
mới và xây dựng đất nước, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa - xã hội ưu việt nhất hiện
nay ở nước ta.
* Mâu thuẫn của quá trình nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trong giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Ở Việt Nam, sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước đã hoàn toàn thống
nhất. Bên cạnh một số thành tựu giành được trong giai đoạn đầu xây dựng lại đất nước,
chúng ta có tư tưởng say sưa với thắng lợi, chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ
nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn. Đất nước lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm
vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc xảy ra,... Những khuyết điểm
của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp cũng bộc lộ ngày càng gay gắt.
Chúng ta đứng trước những khó khăn, thách thức mới, đất nước dần dần lâm vào khủng

hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đó là vấn đề sống
còn của cách mạng nước ta. Muốn vậy, trước hết phải thay đổi mạnh mẽ, cơ bản cách
nghĩ, cách làm. Theo tinh thần đó, Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8 - 1979), đã
chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra”.
Nhu cầu bức xúc đó gặp phải lực cản hết sức to lớn từ phong cách tư duy, nề nếp
làm ăn cũ vốn ăn sâu bám rễ trong không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân suốt 20 năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội với mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Do sự bao cấp
về tư duy, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân quen sống “vô lo vô nghĩ”, tất cả mọi
cái đã được một bộ phận cao nhất của xã hội lo thay, chỉ việc nói theo, làm theo… Điều
này khiến người ta lo lắng khi phải tự tìm lối thoát cho bản thân mình. “Mỗi người hãy tự
cứu mình trước khi kêu trời cứu” - một tư tưởng rất đúng khi đó đã được đưa ra, nhưng
không phải mọi người đều cảm nhận và có năng lực làm được. Từ chỗ quen với nếp sống
coi giải quyết công ăn việc làm là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước chuyển sang cách
nghĩ, cách làm mới: mỗi người phải tự tạo việc làm cho mình - đó là một bước chuyển
không hề đơn giản. Cho đến nay, nghĩa là sau hơn 20 năm đổi mới, trong xã hội ta không


22

phải là không còn một số người vẫn nghĩ và nói như vậy. Đương nhiên, phê phán tư tưởng
ỷ lại đó không phải để rồi loại bỏ hoàn toàn trách nhiệm tạo công ăn việc làm cho nhân
dân của Đảng và Nhà nước. Nhưng trong vấn đề này, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước
không còn như cũ (công dân đến tuổi lao động là nhà nước phải xếp công việc cho họ),
mà chủ yếu là tạo cơ chế, chính sách, đòn bẩy… để người dân tự tạo việc làm cho mình.
Một đột phá trong cơ chế, chính sách như vậy trong những năm đầu đổi mới là sự
ra đời của cơ chế khoán trong nông nghiệp.
Những tìm tòi, sáng tạo của Đảng được thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương
6 khoá IV và các nghị quyết tiếp theo đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới
sau này. Tuy nhiên, những tìm tòi đổi mới ban đầu diễn ra còn rất khó khăn, phức tạp.
Trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, có khuynh hướng muốn quay lại với quan

niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khoá V (tháng 12 - 1983) coi sự chậm chạp
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình trạng khó khăn về
kinh tế - xã hội, và chủ trương để ổn định tình hình, phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải tạo xã
hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về lương thực
và các nông hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá; bảo đảm cung cấp đủ 9 mặt hàng
theo đúng định lượng cho người ăn lương; lập cửa hàng cung cấp,...Trong hợp tác xã nông
nghiệp thì quản lý, điều hành chặt chẽ tất cả các khâu theo kế hoạch. Hội nghị Trung ương
6 khoá V (tháng 7 - 1984) vẫn chủ trương “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa”, đẩy mạnh
thu mua nắm nguồn hàng, cải tạo thị trường tự do,... Điều đó cho thấy, sự đổi mới tư duy
là không đơn giản; quan niệm cũ về cải tạo xã hội chủ nghĩa còn ăn sâu bám rễ trong
nhiều người. Trên thực tế, khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày một nghiêm trọng; đời sống
nhân dân, nhất là người làm công ăn lương, ngày càng khó khăn.
Qua đó cho thấy, đổi mới là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn, sự tiến lên kèm
theo với những thụt lùi. Con đường không thẳng tắp.
Đại hội VI đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến
đổi mới tổ chức bộ máy; từ đổi mới phương pháp lãnh đạo đến phong cách hoạt động; từ
đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.


23

Trong khi chủ trương đổi mới toàn diện như vậy, Đại hội cũng xem đổi mới tư duy lý luận
về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá. Điều đó chứng tỏ có mâu thuẫn gay gắt giữa yêu cầu
thực tiễn đổi mới với sự lạc hậu trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thành tựu phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội mà
Đảng ta đạt được sau 5 năm đổi mới được biểu hiện tập trung nhất trong văn kiện quan
trọng này. Bước tiến đó biểu hiện ở hai nội dung cơ bản: Một là, quan niệm tổng quát
nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng; Hai là, những phương hướng
cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới.

Để sự lãnh đạo của Đảng thực sự là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và phát triển
nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng và khoa học. Nền tảng tư tưởng, lý luận đó là gì?
Nhiều năm trước đó, chúng ta luôn khẳng định đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, cơ sở
nảy sinh chủ nghĩa Mác - Lênin là thực tiễn phương Tây. Mà phương Tây thì chưa phải
là toàn bộ thế giới và do vậy, chúng ta phải mang lại cơ sở phương Đông cho chủ nghĩa
Mác (Hồ Chí Minh). Xuất phát từ quan điểm phương pháp luận đó, dựa trên thành quả
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh của Đảng khẳng định vị trí và vai trò
của tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Trong nhiều năm trước đây, các học giả Mác xít, nhất là các học giả Mác xít ở các
nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, thường có nhận thức không đúng về kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền, coi chúng là những cái vốn có chỉ của chủ nghĩa tư bản,
phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản; đồng thời phê phán, lên án bất kỳ ai có ý định nêu lên
tư tưởng chủ nghĩa xã hội cũng phải phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước
pháp quyền, cho đó là rơi vào âm mưu của giai cấp tư sản. Bước vào giai đoạn đổi mới,
Đại hội VII (1991) của Đảng khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định


24

hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (tháng 1 - 1994), lần đầu tiên Đảng khẳng định phải xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cùng với sự khẳng định chủ nghĩa xã
hội cần phải phát triển kinh tế thị trường, đây cũng là một điển hình của mâu thuẫn giữa
tư duy cũ và tư duy mới về chủ nghĩa xã hội…
Nhận thức về quan hệ đối ngoại cũng vượt qua một mâu thuẫn cực kỳ quan trọng: từ
chỗ nhấn mạnh quá mức “hai phe, 4 mâu thuẫn”, coi thế giới tư bản chủ nghĩa cơ bản là thế

giới thù địch, chúng ta đã nêu lên một tư tưởng đối ngoại hết sức quan trọng, mang tầm
chiến lược: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đường lối này
đã được cụ thể hoá trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX với cách nhìn nhận
mới và thống nhất về các vấn đề đối tác và đối tượng. Đây là một cách nhìn biện chứng,
định hướng cho chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.
Đại hội X có một cống hiến quan trọng vào việc giải quyết mâu thuẫn giữa lý
tưởng căn bản, lâu dài của Đảng với nhiệm vụ cụ thể của từng thời kỳ, đó là chủ trương
cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) với
một số quy định do Ban Chấp hành Trung ương đưa ra.
Như vậy, có thể thấy rằng, chính là nhờ quá trình phát hiện và giải quyết mâu
thuẫn trong nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày một rõ hơn. Khẳng định điều
đó không có nghĩa là những mâu thuẫn trong quá trình nhận thức của chúng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được giải quyết hết. Trái lại, công cuộc đổi
mới càng được triển khai sâu rộng bao nhiêu thì những vấn đề mới nảy sinh cần giải
quyết ngày càng nhiều bấy nhiêu. Chẳng hạn, cho đến nay, khi nhu cầu hoàn thiện thể
chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra rất cấp thiết,
thì chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý luận về thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những


25

nguyên tắc của nền kinh tế thị trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của
nền kinh tế. Chúng ta cũng chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc
trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về tính định
hướng xã hội chủ nghĩa, nên còn lúng túng, không biết thế nào là đúng hướng, thế nào là
chệch hướng. Mặt khác, chúng ta cũng chưa nhận thức rõ về vị trí, vai trò và mối quan

hệ giữa các nhân tố cấu thành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, như Nhà nước, thị
trường và doanh nghiệp… cho nên chưa phát huy tốt tác dụng của các nhân tố đó.
Hiện có không ít ý kiến cho rằng, không nên phân định các thành phần kinh tế, vì
sự phân định đó sẽ dẫn đến thái độ phân biệt đối xử. Nhưng nhiều ý kiến khác lại nhấn
mạnh việc phân định các thành phần kinh tế là cần thiết, vì đó là thực tế khách quan,
giúp nhận rõ xu hướng vận động và phát triển của nền kinh tế để có chính sách phát triển
và quản lý phù hợp. Cũng chưa có sự thống nhất trong nhận thức về vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước. Có ý kiến cho rằng, xác định như vậy sẽ tạo ra tình trạng không bình
đẳng và cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; có ý kiến đề nghị
không nên đặt vấn đề có một thành phần kinh tế nào đóng vai trò chủ đạo. Lại có ý kiến
cho rằng, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo chứ không phải kinh tế nhà nước; rằng, Nhà
nước là lực lượng định hướng, dẫn dắt và quản lý sự phát triển.
Về mặt đường lối, Đảng đã xác định mục tiêu đến năm 2020, nước ta về cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng hiện vẫn chưa làm rõ các tiêu
chí cụ thể để làm đích hướng tới.
Nói chung, các bước đi của cả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được
làm rõ, chậm cụ thể hoá mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện. Nhận
thức thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ và sự tuỳ thuộc giữa các nền kinh tế trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau.
Cho đến nay, cũng chưa có một quan niệm thống nhất về công bằng và bình đẳng,
về sự phân hoá giầu nghèo ở nước ta. Có ý kiến cho rằng, xu hướng phân hóa giàu
nghèo, phân hóa phát triển đang gia tăng như hiện nay là không phù hợp với định hướng
xã hội chủ nghĩa, do đó, không thể chấp nhận được. Ý kiến khác cho rằng, thoát khỏi tụt


×