Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN - SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN ĐỊA TÔ TRONG KINH TẾ CHÍNH TRỊ CỔ ĐIỂN CỦA C.MÁC, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.58 KB, 28 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đất đai là một tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các
khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập,
bảo vệ được từng mét đất của tổ quốc. Ngày nay đất nước ta đang trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa, với
điều kiện xuất phát điểm thấp, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún,
tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai. Vì vậy, đất nông nghiệp là tài sản quý giá
nhất, nguồn lực quyết định để người nông dân tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có
những nỗ lực hỗ trợ nông dân tiếp cận quyền sử dụng đất đai, chính sách pháp
luật về đất đai có rất nhiều thay đổi. Từ năm 1987 đến nay, Luật Đất đai đã được
ban hành mới 3 lần (1987, 1993, 2003) và sửa đổi 2 lần (1998, 2001). Hàng trăm
văn bản dưới luật cũng được ban hành, sửa đổi. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn
không ít vấn đề chưa đủ rõ, thậm chí trùng chéo, mâu thuẫn. Trình độ, năng lực
cán bộ quản lý đất đai, nhất là ở cơ sở còn nhiều hạn chế trong khi đất đai đang
biến động rất nhanh, văn bản pháp luật về đất đai lại rất nhiều và phức tạp, nên
công tác quản lý đất đai trong cả nước còn nhiều bất cập. Nhiều vấn đề phát sinh
trong quản lý và sử dụng đất đai chưa được điều chỉnh và xử lý kịp thời. Quyền
sử dụng đất của nông dân và vấn đề bảo hộ nông dân giữ quyền sử dụng đất cả
với tư cách tư liệu sản xuất, lẫn tư cách tài sản đang tồn đọng nhiều bất cập. Vì
vậy đã nẩy sinh nhiều vấn đề kiện tụng kéo dài, trong đó khiếu kiện về đất đai
chiếm trên 70% tổng số vụ khiếu kiện. Nhiều vụ việc để lại hậu quả nghiêm
trọng, ví như vụ giải toả thu hồi đất ở Tiên Lãng- Hải Phòng vừa qua, nếu không
giải quyết dứt điểm, thấu tình đạt lý, sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin
của đông đảo nhân dân đối với Đảng và chính quyền nhà nước. Đây là cơ hội để
các thế lực thù địch xuyên tạc chống phá Đảng và chế độ ta. Để khai thác, phát
huy một cách hiệu quả cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ
nguồn tài nguyên quý giá này, đòi hỏi Đảng và nhà nước phải có một chính sách


1


về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng một cách đúng đắn, khoa học
và minh bạch. Chính sách ấy phải được xây dựng trên một nền tảng tư tưởng
cách mạng và khoa học, đó là học thuyết Mác- Lênin, và phải được vận dụng
linh hoạt vào điều kiện cụ thể. Chính vì vậy mà em chọn đề tài :"Sự kế thừa và
phát triển lý luận về địa tô trong kinh tế chính trị cổ điển của C.Mác, thực
trạng và giải pháp của sự vận dụng chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay"
2. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp phân tích, tổng hợp, so
sánh để làm rõ những nội dung nghiên cứu của đề tài. Đề tài sử dụng có chọn
lọc thành quả nghiên cứu của các tác giả khác về chính sách ruộng đất hiện nay.
I. SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ ĐỊA TÔ TRONG KINH TẾ HỌC
CỔ ĐIỂN CỦA C.MÁC
1.1 CÁC QUAN ĐIỂM TƯ TƯỞNG TRƯỚC MÁC VỀ ĐỊA TÔ

Khi nói về địa tô không phải chỉ có C.Mác mới đề cập đến, mà trước đó
có rất nhiều nhà kinh tế học đã đề cập, với các quan điểm tư tưởng khác nhau,
và sau này C.Mác là người kế thừa và phát triển lý luận về địa tô một cách đầy
đủ, hoàn bị và khoa học. Tiêu biểu cho các tư tưởng kinh tế về lý luận địa tô, đó
là trường phái kinh tế học cổ điển.
1.1.1. Lý luận địa tô của W.Petty
- Lý luận này được bắt đầu từ W.Petty
Ông đã tìm thấy nguồn gốc của địa tô trong sản xuất. Theo ông: Địa tô là số
chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí sản xuất bao gồm chi phí tiền công
và cây, con giống; về chất, địa tô là giá trị dôi ra ngoài tiền công, là sản phẩm của lao
động thặng dư; ông đã nghiên cứu địa tô chênh lệch và cho rằng các mảnh ruộng xa
gần khác nhau có mức địa tô khác nhau. Ông chưa biết đến địa tô tuyệt đối.

1.1.2 Sự phát triển lý luận địa tô của A. Smith
- Thành tựu:
A. Smith cho rằng khi ruộng đất bị tư hữu thì địa tô là khoảng khấu trừ thứ
nhất vào sản phẩm lao động. Nó là tiền trả cho việc sử dụng đất.
2


Ông đã phát hiện ra độc quyền tư hữu ruộng đất là điều kiện để chiếm hữu
địa tô.
Ông còn cho rằng quy mô địa tô nhiều hay ít phụ thuộc vào giá cả sản phẩm,
địa tô là giá cả của độc quyền. Phân biệt được địa tô chênh lệch do độ màu mỡ và vị
trí của ruộng đất đưa lại.
Ông đã chỉ ra mức địa tô trên một mảnh ruộng là do thu nhập của mảnh
ruộng đó đưa lại, phát hiện ra địa tô trên những ruộng canh tác chủ yếu quyết
định địa tô trên ruộng trồng cây khác.
- Hạn chế:
Coi địa tô là phạm trù vĩnh viễn
Chưa hiểu đúng sự chuyển hóa của lợi nhuận thành địa tô.
Coi địa tô là một yếu tố cấu thành giá cả tự nhiên rồi lại coi nó là một khoản
dôi ra ngoài giá cả tự nhiên.
Chưa hiểu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối
Còn bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa trọng nông khi cho rằng năng suất lao động nông
nghiệp cao hơn công nghiệp, do nông nghiệp được sự trợ giúp của tự nhiên.
1.1.3 D. Ricardo tiếp tục phát triển lý luận về địa tô của W. Petty và A.
Smith
Ông bác bỏ luận điểm cho rằng địa tô là sản vật của những lực lượng tự
nhiên hoặc do năng suất lao động đặc biệt trong nông nghiệp mang lại và đã giải
thích địa tô trên cơ sở lý luận giá trị lao động.
Theo ông, địa tô được hình thành theo quy luật giá trị. Giá trị nông sản
được hình thành trên điều kiện ruộng đất xấu nhất. Vì diện tích ruộng đất có hạn

nên xã hội phải canh tác cả trên ruộng đất xấu. Do tư bản kinh doanh trên ruộng
đất tốt và trung bình thu được lợi nhuận siêu ngạch, khoản này phải nộp cho địa
chủ gọi là địa tô.
Đã phân biệt địa tô với tiền tô và cho rằng chúng phục tùng những quy
luật khác nhau và thay đổi theo chiều hướng ngược chiều nhau.
Sai lầm của D. Ricardo: Gắn lý luận địa tô với quy luật màu mỡ của đất đai
3


ngày càng giảm sút; chưa biết đến địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối,
cho rằng thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm quy luật giá trị.
1.2. SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ ĐỊA TÔ TRONG KINH TẾ HỌC
CỔ ĐIỂN CỦA C.MÁC

Như chúng ta đã biết, dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản công nghiệp ra đời sớm
và phát triển nhanh hơn trong lĩnh vực nông nghiệp. Khi nghiên cứu về địa tô,
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đang phát triển mạnh. C.Mác
đã kế thừa những thành tựu của các nhà kinh tế chính trị trước đó, đặc biệt các
tư tưởng của trường phái kinh tế chính trị cổ điển, và đã phát triển nó lên một
tầm cao mới một cách hoàn bị. Theo C.Mác nông nghiệp cũng là một lĩnh vực
sản xuất của xã hội. Nhà tư bản nông nghiệp tiến hành kinh doanh nông nghiệp
cũng chiếm đoạt một số giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp mà họ thuê
mướn tạo ra.Tất nhiên họ không thể chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư đó mà
phải cắt một phần để nộp tô cho địa chủ. Là nhà tư bản kinh doanh trước hết họ
phải đảm bảo thu được lợi nhuận bình quân cho tư bản của họ bỏ ra. Do đó để
nộp tô cho địa chủ, họ còn phải bảo đảm thu được một số giá trị thặng dư vượt
ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, một lợi nhuận siêu ngạch, khoản lợi nhuận
siêu ngạch này phải được bảo đảm thường xuyên và tương đối ổn định. Bộ
phận siêu ngạch này là do công nhân nông nghiệp tạo ra, nộp cho địa chủ với
tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất. Có khi địa chủ không cho thuê ruộng đất mà tự

mình thuê công nhân để khai thác ruộng đất của mình. Trong trường hợp này
địa chủ hưởng cả địa tô lẫn lợi nhuận.
Để làm rõ được bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa hơn, C.Mác đã so
sánh giữa địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến .
1. 2.1. So sánh địa Tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến
- Sự giống nhau:

Trước hết là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế đồng
thời cả hai loại địa tô này đều là kết quả của sự bóc lột đối với những người lao
động .
- Sự khác nhau:

4


Hai loại địa tô này cũng khác nhau về mặt lượng và chất .
+ Về mặt lượng :
Địa tô phong kiến gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra, có
khi còn lan sang cả sản phẩm cần thiết.
Còn địa tô tư bản chủ nghĩa chỉ là một phần giá trị thặng dư ngoài lợi
nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
+ Về mặt chất:
. Địa tô phong kiến phản ánh mối quan hệ giữa hai giai cấp :
Địa chủ với Nông dân
Trong đó giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân.
. Còn địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh mối quan hệ giữa 3 giai cấp
Giai cấp địa chủ - Giai cấp tư bản kinh doanh ruộng đất - Công nhân
nông nghiệp làm thuê
Trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân thông qua tư bản hoạt động.
Nhưng cuối cùng C.Mác cũng kết luận rằng: “ Dù hình thái đặc thù của

địa tô như thế nào thì tất cả những loại hình của nó đều có một điểm chung là
sự chiếm hữu địa tô là hình thái kinh tế dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được
thực hiện”
Với kết luận này C. Mác đã khẳng định địa tô chính là phương tiện, là
công cụ để bọn địa chủ bóc lột nông dân, ai có ruộng, ai có đất thì được quyền
thu địa tô tức là có quyền bóc lột sức lao động của người làm thuê.
Nếu nhìn vào bề ngoài, ta không thể thấy được sự bóc lột của địa chủ đối
với nông dân, thực chất là giúp chúng gián tiếp bóc lột thông qua những nhà tư
bản kinh doanh ruộng đất, thuê đất của địa chủ để cho nông dân làm. Vấn đề
đặt ra ở đây là tại sao nhà tư bản lại có thể thu được phần giá trị thặng dư dôi ra
ngoài lợi nhuận bình quân để trả cho chủ ruộng đất. Việc nghiên cứu địa tô
chênh lệch và địa tô tuyệt đối sẽ giải thích điều đó.
1.2.2.Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa .
1.2.2.1.Địa tô chênh lệch.
5


Trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp cũng đều phải có lợi nhuận
siêu ngạch. Nhưng trong công nghiệp lợi nhuận siêu ngạch chỉ là một hiện tượng
tạm thời đối với nhà tư bản nào có được điều kiện sản xuất tốt hơn. Còn trong
nông nghiệp thì ít nhiều có khác, lợi nhuận siêu ngạch hình thành và tồn tại một
cách tương đối lâu dài. Vì một mặt không thể tự tạo thêm ruộng đất tốt hơn, gần
nơi tiêu thụ nhưng có thể xây dựng được thêm nhiều nhà máy tối tân hơn trong
công nghiệp, mặt khác diện tích ruộng đất có hạn và toàn bộ đất đai trồng trọt
được đã bị tư nhân chiếm đoạt hết, và cũng có nghĩa là đã có độc quyền kinh
doanh những thửa ruộng màu mỡ, có vị trí thuận lợi thì thu được lợi nhuận siêu
ngạch một cách lâu dài.
Nhưng có phải chỉ có ruộng đất tốt hay ít nhất là ruộng đất trên mức trung
bình mới thu được lợi nhuận siêu ngạch không?
Về mặt này nông nghiệp cũng khác công nghiệp. Trong công nghiệp giá trị

hay giá cả sản xuất háng hoá là do những điều kiện sản xuất trung bình quyết
định. Còn trong nông nhiệp, giá cả hay giá trị sản xuất của nông phẩm lại do
những điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Đó là vì nếu chỉ canh tác những
ruộng đất tốt và trung bình, thì không đủ nông phẩm để thoả mãn nhu cầu của xã
hội nên phải canh tác cả những ruộng đất xấu, và do đó cũng phải bảo đảm cho
những nhà tư bản đầu tư trên những ruộng đất này có được lợi nhuận bình quân.
Như vậy giá cả sản xuất của nông phẩm trên những ruộng đất có điều kiện
sản xuất xấu là giá cả sản xuất chung của xã hội nên nhà tư bản kinh doanh trên
những ruộng đất trung mình cũng thu được lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận
bình quân. Thực chất thì địa tô chênh lệch cũng chính là lợi nhuận siêu ngạch,
hay giá trị thặng dư siêu ngạch .
Vậy địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu
được trên những điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá
cả chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất
xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó sinh ra là
do có độc quyền kinh doanh ruộng đất nhưng bên cạnh đó lại có độc quyền
chiếm hữu ruộng đất, nên cuối cùng nó vẫn lọt vào tay chủ ruộng đất.
Cũng cần chú ý rằng không phải địa tô chênh lệch là sản phẩm do độ màu
mỡ ruộng đất sinh ra. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng dư trong
nông nghiệp là do lao động thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Màu mỡ

6


ruộng đất chỉ là điều kiện tự nhiên hay cơ sở tự nhiên làm cho lao động của
nông dân có năng suất cao hơn, và là điều kiện không thể thiếu được để cho lợi
nhuận siêu ngạch hình thành, cũng như địa tô nói chung, không phải là do ruộng
đất mà ra, nó là do lao động đã bỏ vào ruộng đất và do giá cả của sản phẩm lao
động của nông phẩm ,chứ không phải do bản thân ruộng đất.
C.Mác nói : ‘Lực lượng tự nhiên ấy không phải là nguồn gốc sinh ra lợi

nhuận siêu ngạch , mà chỉ là cơ sở tự nhiên khiến có thể đặc biệt nâng cao năng
suất lao động lên”.
Sở dĩ Mác nói như vậy là vì nếu không có bàn tay con người, không có sức
lao động thì với điều kiện tự nhiên tốt cũng không thể tạo ra được nhiều lợi
nhuận nhưng với sức lao động có hạn của con người, nếu điều kiện tự nhiên tốt
sẽ thúc đẩy sản xuất nâng cao lợi nhuận siêu ngạch.
Chính lao động với năng suất cao đã làm cho nông phẩm thu được trên một
diện tích canh tác tăng lên, và giá cả sản xuất chung của một đơn vị nông phẩm
hạ xuống so với giá cả sản xuất chung của nông phẩm, do đó mà có lợi nhuận
siêu ngạch. Sự hình thành của lợi nhuận siêu ngạch mà từ đó có địa tô chênh
lệch, được minh hoạ bằng ví dụ sau đây:
Địa tô chênh lệch có hai loại địa tô:
+Địa tô chênh lệch I
+ Địa tô chênh lệch II.
- Địa tô chênh lệch I:
Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên cơ sở ruộng đất màu mỡ. Ngoài
ra, ruộng đất có vị trí thuận lợi như ở gần nơi tiêu thụ hay đường giao thông
thuận tiện cũng đem lại địa tô chênh lệch I, bởi vì ở gần nơi tiêu thụ như thành
phố, khu công nghiệp hay đường giao thông vận tải thuận tiện, sẽ tiết kiệm được
một phần lớn chi phí lưu thông khi bán cùng một giá; những người phải chi phí
vận tải ít hơn đương nhiên được hưởng một khoản lợi nhuận siêu ngạch so với
những người phải chi phí vận tải nhiều hơn, do đó mà có địa tô chênh lệch.
- Địa tô chênh lệch II:
Là do thâm canh mà có. Muốn vậy phải đầu tư thêm tư liệu sản xuất và lao
động trên cùng một khoảng ruộng đất, phải cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất
lượng canh tác để tăng năng suất ruộng đất và năng suất lao động lên.
Chừng nào thời hạn thuê đất vẫn còn thì nhà tư bản bỏ túi số lợi nhuận siêu
7



ngạch trên. Nhưng khi hết hạn hợp đồng thì chủ ruộng đất sẽ tìm cách nâng mức
địa tô lên để giành lấy lợi nhuận siêu ngạch đó, biến nó thành địa tô chênh lệch I
.
Vì lẽ đó, chủ ruộng đất chỉ muốn cho thuê ruộng đất ngắn hạn còn nhà tư
bản lại muốn thuê dài hạn.
Cũng vì lẽ đó nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp không muốn bỏ ra
số vốn lớn hơn để cải tiến kĩ thuật, cải tạo đất đai, vì làm như vậy phải mất nhiều
thời gian mới thu hồi được vốn về. Và rốt cuộc chủ đất sẽ là kẻ hưởng hết lợi ích
của những cải tiến đó. Vì vậy nhà tư bản thuê ruộng đất chỉ nghĩ làm sao tận
dụng hết màu mỡ của đất đai trong thời gian thuê ruộng đất. Mục đích thâm
canh của họ là nhằm thu được thật nhiều lợi nhuận trong thời gian kí kết hợp
đồng, nên họ ra sức bòn rút hết màu mỡ đất đai. Mác nói: “ Mỗi bước tiến của
công nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong nghệ thuật
bóc lột người lao động, mà còn là bước tiến trong nghệ thuật làm cho đất đai
ngày càng kiệt quệ; mỗi bước tiến trong nghệ thuật làm tăng màu mỡ cho đất đai
trong một thời gian là một bước tiến trong việc tàn phá những nguồn màu mỡ
lâu dài của đất đai.” Một ví dụ điển hình là ở Mỹ trước đây ,chế độ canh tác bất
hợp lí đã làm cho 16 triệu ha ruộng đất vốn màu mỡ đã trở thành bạc màu hoàn
toàn.
1.2.2.2 Địa tô tuyệt đối.
Ngoài địa tô chênh lệch địa chủ còn thu được địa tô tuyệt đối trong khi cho
thuê ruộng đất.
Phần trên, khi nghiên cứu địa tô chênh lệch chúng ta đã giả định là người
thuê đất xấu chỉ thu về chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân, và không
tính đến việc phải nộp địa tô. Thực ra không phải như vậy, người thuê ruộng đất
dù là đất tốt hay xấu đều phải nộp địa tô cho chủ đất. Địa tô mà các nhà tư bản
thuê ruộng đất nhất thiết phải nộp dù ruộng đất tốt, xấu như thế nào, đớ là địa tô
tuyệt đối. Vậy các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất lấy đâu mà nộp?
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nông nghiệp lạc hậu hơn công nghiệp, cả về
kinh tế lẫn kĩ thuật. Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp vì vậy thấp

hơn trong công nghiệp. Cho nên nếu tỉ suất giá trị thặng dư tức là trình độ bóc
lột ngang nhau từ một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong nông nghiệp nhiều giá
trị thặng dư hơn trong công nghiệp .

8


Ví dụ : có hai tư bản nông nghiệp và tư bản công nghiệp ngang nhau, đều là
100 chẳng hạn; cấu tạo hữu cơ trong tư bản công nghiệp là 80c + 20v (4/1) của
tư bản nông nghiệp là 60c + 40v (3/2) nếu tỉ suất giá trị thặng dư đều là 100%
thì sản phẩm và giá trị thặng dư sản xuất ra sẽ là.
Trong công nghiệp : 80c + 20v + 20m = 120
Trong nông nghiệp : 60c + 40v + 40m = 140
Giá trị thặng dư dôi ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là 20m.
Nếu là trong công nghiệp thì số giá trị thặng dư này sẽ được đem chia chung
cho các nhà công nghiệp trong quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. Nhưng
trong nông nghiệp điều đó không thể diễn ra được, đó là chế độ độc quyền tư
hữu ruộng đất không cho phép tư bản tự do di chuyển vào trong nông nghiệp, do
đó ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân chung giữa nông nghiệp và
công nghiệp. Và như vậy, phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân
( Nhờ cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp, bóc lột được của công
nhân nông nghiệp nhiều hơn) được giữ lại và dùng để nộp địa tô tuyệt đối cho
địa chủ.
Vậy địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi
nhuận bình quân, hình thành nên do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông
nghiệp thấp hơn trong công nghiệp mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất nào
cũng phải nộp cho địa chủ. Nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và giá cả
thực tế hình thành nên do cạnh tranh trên thị trường.
Địa tô tuyệt đối gắn liền với độc quyền tư hữu ruộng đất. Chính độc quyền
tư hữu ruộng đất làm cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành trong nông nghiệp

không bị đem chia đi và làm cho lợi nhuận siêu ngạch đó phải chuyển hoá thành
địa tô.
Về địa tô tuyệt đối, Mác nói: “...bản chất của địa tô tuyệt đối là :Những tư
bản ngang nhau của chúng sinh sản những khối lượng giá trị thặng dư khác
nhau.”
Để minh hoạ cho những điều nói trên chúng ta có thể lấy ví dụ sau đây:
Do độc quyền về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối, cho nên
nếu không có chế độ tư hữu về ruộng đất, không có giai cấp địa chủ, thì địa tô
tuyệt đối sẽ bị xoá bỏ, giá cả nông phẩm sẽ giảm xuống có lợi cho xã hội .

9


Tóm lại, nêú điều kiện sản xuất có lợi (điều kiện tự nhiên hoặc điều kiện
kinh tế do thâm canh đưa lại ) là điều kiện hình thành địa tô chênh lệch và độc
quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân trực tiếp để tạo ra địa tô chênh lệch
ấy, thì điều kiện để hình thành địa tô tuyệt đối là cấu tạo hữu cơ của tư bản trong
nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, và nguyên nhân trực tiếp đẻ ra địa tô
tuyệt đối là độc quyền tư hữu về ruộng đất .
Song dù là địa tô chênh lệch hay địa tô tuyệt đối, nguồn gốc và bản chất của
địa tô cũng chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư, do lao động không công của
công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra. Nói cách khác, địa tô chỉ là một
hình thái đặc thù của giá trị thặng dư mà thôi .
Địa tô cùng với lợi nhuận của nhà tư bản nông nghiệp chính là cái xác định
tính qui định về mặt xã hội của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp, nói lên tư
bản nông nghiệp là mối quan hệ bóc lột, gắn liền với một quan hệ bóc lột khác
của địa chủ do quyền tư hữu về ruộng đất sinh ra .
1.2.3.Các loại địa tô khác:
Ngoài những loại địa tô trên còn có các loại địa tô khác như địa tô về
cây đặc sản, địa tô về hầm mỏ, địa tô về các bãi cá, địa tô về đất rừng, thiên

nhiên .
- Địa tô về cây đặc sản:
Là địa tô thu được trên những đám đất trồng những cây quí mà sản
phẩm có thể bán với giá độc quyền, tức là giá cao hơn giá trị. Người tiêu thụ
những sản phẩm trên phải trả địa tô này .
- Địa tô hầm mỏ
Đất hầm mỏ_đất có những khoáng sản được khai thác cũng đem lại địa tô
chênh lệch và địa tô tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy. Địa tô hầm mỏ cũng
hình thành và được quyết định như địa tô đất nông nghiệp.
-Địa tô đất xây dựng:
Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô đất nông
nghiệp.Nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng:
+Thứ nhất,trong việc hình thành địa tô xây dựng ,vị trí của đất đai là yếu
tố quyết định,còn độ màu mỡ và trạng tháI của đất đai không ảnh hưởng lớn.

10


+Thứ hai,địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự phát triển
của dân số,do nhu cầu về nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát
nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên.
-Địa tô độc quyền:
Địa tô luôn luôn gắn liền với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các
đIều kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả
độc quyền của nông sản. Tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những loại
cây cho những sản phẩm quý hiếm, có giá trị cao(như những vườn nho có thể
cho những thứ rượu đặc biệt) hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị, thì
địa tô của những đất đai đó sẽ rất cao, có thể xem đó là địa tô độc quyền.
Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc
quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai ấy mà nhà tư bản phải nộp cho

địa chủ_ người sở hữu những đất đai đó.
Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô địa tô về hầm mỏ, địa
tô về các bãi cá, địa tô về đất rừng thiên nhiên ... tuy là địa tô thu được
trên những đám đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở của địa tô
nông nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa
tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch. Mác nói : ‘ Bất kì ở đâu có
những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng những sức tự nhiên ấy, chẳng
kể đó là thác nước, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là những nơi nhiều cá
hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu ngạch đó của nhà
tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về quyền sở hữu
những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô".

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA SỰ VẬN DỤNG CHÍNH
SÁCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Thông qua những lí luận về địa tô đã nghiên cứu ở trên, ta thấy địa tô tư
bản chủ nghĩa là sự bóc lột của chủ ruộng đất đối với công nhân nông
nghiệp làm thuê. Nó tồn tại ở nhiều hình thức : Địa tô chênh lệch, địa tô

11


tuyệt đối, địa tô cây đặc sản, địa tô về đất xây dựng, địa tô về hầm mỏ,
địa tô về bãi cá....
Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, những lí luận địa tô đó được Đảng và nhà nước ta vận dụng một
cách sáng tạo trong thực tiễn để xây dựng đất nước giàu mạnh. Lí luận
địa tô của C.Mác đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách
thuế đối với nông nghiệp và các ngành có liên quan nhằm kích thích phát
triển nông nghiệp và các ngành trong nền kinh tế .

2.1. Thực trạng chính sách đất nông nghịêp và tác động nó đến sản
xuất và đời sống của nông dân hiện nay
2.1.1. Thực trạng chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
Chính sách đất nông nghiệp hiện nay ở nước ta là kết quả của quá
trình xây dựng trên quan điểm đổi mới trong một thời gian dài. Khởi
điểm của quá trình đổi mới đó là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm
1988 về giao quyền tự chủ cho hộ nông dân, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) tháng 11-1988 về giao đất cho
hộ nông dân.
Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước đã xây dựng và ban
hành nhiều văn bản pháp lý xác định chế độ, chính sách đối với đất nông
nghiệp, trong đó nổi bật là Luật Đất đai ban hành năm 1993 (được liên
tục sửa đổi vào các năm sau này, nhất là Luật Đất đai sửa đổi năm 2003),
Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất (năm 1999), Luật Thuế sử dụng đất
nông nghiệp (năm 2000, thay cho thuế nông nghiệp). Nội dung cơ bản
của chính sách đất nông nghiệp của Nhà nước Việt Nam hiện nay thể
hiện qua chế độ sở hữu đất nông nghiệp, chính sách giá đất của Nhà
nước, chính sách tích tụ và tập trung đất nông nghiệp, chính sách thuế đất
nông nghiệp và chính sách bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp.

12


2.1.1.1 Chế độ sở hữu đất nông nghiệp
Chế độ sở hữu đất nông nghiệp ở Việt Nam được phân chia thành hai
quyền: quyền sở hữu và quyền sử dụng. Hai quyền ấy được phân cho hai
chủ thể khác nhau là Nhà nước (đại diện cho chủ sở hữu toàn dân) và
người sử dụng, chủ yếu là nông dân.
- Chế độ sở hữu đất đai đặc biệt của Việt Nam đã đưa đến một số hệ
quả:

Ở Việt Nam đã hình thành hai thị trường đất đai: thị trường cấp I là
thị trường giao dịch giữa Nhà nước và người sử dụng đất (với nhiều chế
độ khác nhau, như giao đất có thu tiền, không thu tiền; giao đất có thời
hạn khác nhau; cho thuê đất...); thị trường cấp II là thị trường giao dịch
giữa những người sử dụng đất nông nghiệp với nhau. Thị trường cấp I
được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ về đối tượng được giao đất, giá giao
đất, thời hạn giao đất và mục đích sử dụng đất. Thị trường cấp II là thị
trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo mục đích đã được Nhà
nước quy định, hoạt động tự phát, Nhà nước chỉ đứng ra cung cấp các
dịch vụ pháp lý cần thiết cho giao dịch và thu thuế. Trong thực tế, thị
trường cấp II chưa được tổ chức quy củ và chưa có dịch vụ thích ứng nên
hạn chế khả năng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của
nông dân.
- Nhà nước vừa đóng vai trò cơ quan quản lý hành chính công đối với
đất đai, vừa đóng vai trò chủ sở hữu đất, có quyền quyết định thu hồi
quyền sử dụng đất của nông dân, chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp và giao đất nông nghiệp đã được chuyển mục đích sử dụng cho tổ
chức và cá nhân không phải là nông dân, quy định giá thu hồi đất nông
nghiệp.

13


- Người nông dân ở vào vị thế yếu trong giao dịch đất nông nghiệp,
thể hiện qua các khía cạnh:
Thứ nhất, người nông dân chỉ được sử dụng đất nông nghiệp vào mục
đích sản xuất nông nghiệp. Do mức sinh lợi của ngành nông nghiệp thấp
nên giá trị chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp thành tiền không lớn,
không khuyến khích người nông dân chuyển quyền sử dụng này cho
người khác.

Thứ hai, Nhà nước toàn quyền quy hoạch và thu hồi đất nông nghiệp
để chuyển thành đất đô thị hoặc đất kinh doanh mà nông dân không có
quyền thỏa thuận giá đất bị thu hồi, cũng như không có quyền phản đối
hoặc đòi hỏi đền bù thỏa đáng quyền lợi của mình. Trường hợp đất thu
hồi để làm các công trình công cộng như đường sá, công trình thủy lợi...
thì không có mặt bằng giá mới nên người nông dân không cảm nhận
được thiệt thòi của họ. Trường hợp Nhà nước thu hồi đất để chuyển thành
khu đô thị theo cách giao cho các doanh nghiệp đầu tư kết cấu hạ tầng rồi
bán nền, bán nhà... sẽ làm xuất hiện mặt bằng giá quyền sử dụng đất phi
nông nghiệp, thường cao hơn giá đất nông nghiệp nhiều lần.
Thứ ba, thời hạn giao đất nông nghiệp cho nông dân theo quy định của
pháp luật hiện hành là quá ngắn (50 năm với đất trồng cây lâu năm, 20
năm với đất còn lại) so với thời hạn giao đất phi nông nghiệp. Hạn mức
diện tích đất giao khá thấp.
2.1.1.2 Chính sách giá đất nông nghiệp
Chính sách giá đất nông nghiệp được quy định tại Điều 12 Luật Đất
đai năm 1993, năm 2003 và mới nhất là Nghị định số 188/2004/NĐ-CP
ngày 16-11-2004 của Chính phủ. Theo đó, có hai phương pháp xác định
giá đất: theo giá thị trường và theo thu nhập từ đất. Quyền xác định giá

14


đất được phân cấp rộng rãi cho chính quyền cấp tỉnh. Chế độ điều chỉnh
giá cũng linh hoạt hơn trước và bám sát giá thị trường.(1)
Với việc chính thức công nhận giá đất thị trường và điều chỉnh giá nhà
nước theo giá thị trường, Nhà nước Việt Nam đã gián tiếp thừa nhận
quyền sử dụng đất có giá cả, tồn tại thị trường quyền sử dụng đất và là
một trong những cơ sở để Nhà nước xác định giá giao dịch đất giữa Nhà
nước và người dân. Tuy nhiên, việc thực hiện những quy định này trong

thực tế rất khó khăn.
Thứ nhất, do thị trường đất nông nghiệp hoạt động rất èo uột và chưa
được tổ chức nên hầu như không thể thu thập được thông tin tin cậy về
giá. Do không có thông tin giá thị trường thuyết phục nên các tổ chức
định giá đất thường lấy giá quy định từ đầu năm của chính quyền cấp
tỉnh. Đến lượt mình, giá đất này cũng được xác định một cách chủ quan
nên chưa được người dân tin cậy. Trên thực tế, nhiều địa phương phải
thỏa thuận với nông dân, nhưng người nông dân cũng không có thông tin,
họ thường so bì với những người chây ì, nhận tiền sau (những người này
thường nhận được giá cao hơn) hoặc so với giá đất đô thị chuyển nhượng
tại các dự án khác ở địa phương để đòi giá cao. Cách làm này dẫn đến hai
hệ lụy: một là, vô hình trung khuyến khích nông dân chây ì; hai là, người
nông dân luôn ở trạng thái bất bình do nhận thức mình bị thiệt thòi.
Thứ hai, do Nhà nước không ngăn chặn được đầu cơ trên thị trường
đất đô thị, nên giá đất đô thị tăng lên quá cao khiến thông tin về giá này
cũng không đáng tin cậy.
Để khắc phục khó khăn, nhiều địa phương đã tiến hành các biện pháp nửa
vời, dự án thuận lợi thì đền bù theo giá nhà nước, dự án khó khăn thì để
nhà đầu tư phụ thêm tiền đền bù theo giá thỏa thuận với nông dân. Thậm
chí, để giải phóng mặt bằng nhanh, nhiều nhà đầu tư chấp nhận trả thêm
15


tiền cho các hộ chây ì. Cách làm như vậy đã gây tác động không tốt cho
các hộ đã di dời.
2.1.1.3. Chính sách khuyến khích tích tụ và tập trung đất
Khi tiến hành giao đất lần đầu cho hộ nông dân vào những năm đầu
thập niên 90, thế kỷ XX, để giảm xung đột, Nhà nước đã giao đất cho hộ
theo chế độ bình quân cả về diện tích lẫn hạng đất. Hệ quả là đất nông
nghiệp được giao cho hộ gia đình nông dân rất manh mún.

Để khuyến khích nông dân tập trung đất nông nghiệp phục vụ sản
xuất quy mô lớn, Nhà nước sau đó có chính sách khuyến khích nông dân
“dồn điền, đổi thửa”, chuyển đổi, chuyển nhượng đất cho nhau. Phong
trào “dồn điền, đổi thửa” được chính quyền các tỉnh đồng bằng sông
Hồng hưởng ứng, nhưng kết quả đạt được không mấy khả quan. Số thửa
ruộng của một hộ có giảm đi, nhưng quy mô đất canh tác của một hộ
nông dân tăng không đáng kể do các hộ nông dân không muốn nhượng
quyền sử dụng đất nông nghiệp cho người khác vì nhiều lý do.
Ở các vùng chuyên canh phía Nam tình hình chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nông nghiệp đạt kết quả khá hơn ở phía Bắc, nhưng cũng
chưa tạo đủ tiền đề để hình thành các trang trại lớn.
Các chính sách khuyến khích sử dụng đất tập trung ở quy mô lớn, như
hình thành các nông, lâm trường, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
cũng tỏ ra không hiệu quả. Thậm chí các nông, lâm trường buộc phải
giao đất cho hộ công nhân nông, lâm trường để họ canh tác theo phương
thức gia đình. Mặc dù quá trình giao đất nông, lâm trường cho hộ nông,
lâm trường viên có tạo được động lực sử dụng đất hiệu quả hơn, sản xuất
phát triển hơn, nhưng gây khó khăn cho việc quản lý đất công thuộc
quyền sử dụng của nông, lâm trường, trong một số trường hợp còn gây ra

16


sự bất bình đẳng về quy mô đất được giao giữa gia đình nông, lâm trường
viên và gia đình nông dân canh tác ở cùng một khu vực. Một số hộ nông
dân thậm chí lấn chiếm đất nông, lâm trường để sử dụng một cách bất
hợp pháp.
2.1.1.4. Chính sách thu hồi và đền bù đất nông nghiệp
Từ thập niên 90 của thế kỷ thứ XX đến nay, Nhà nước tiến hành thu
hồi nhiều diện tích đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, đô

thị tập trung(2). Chính vì thế, chính sách thu hồi, đền bù đất nông nghiệp
tác động lớn đến nông dân.
Luật Đất đai của Việt Nam quy định: Nhà nước có quyền thu hồi
quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất ở của nông dân để sử dụng cho các
mục đích công cộng hoặc phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Khi thu hồi đất nông nghiệp, đất ở của nông dân, Nhà nước phải đền bù
cho nông dân đất mới theo diện tích và hạng đất tương đương. Nếu
không có đất đền bù hoặc đất đền bù ít hơn đất bị thu hồi, Nhà nước đền
tiền cho nông dân theo giá đất do Nhà nước quy định tại từng thời điểm.
Với quyền hạn như vậy, chính quyền một số địa phương đã thu hồi đất
nông nghiệp một cách thiếu thận trọng và ở quy mô lớn, khiến diện tích
đất của nông dân nhiều vùng giảm nhanh.
2.1.1.5.Chính sách thuế đất nông nghiệp
Nhà nước thu từ nông dân sử dụng đất nông nghiệp các khoản: tiền
thuê đất, thuế sử dụng đất và một số lệ phí quản lý đất đai. Nhìn chung,
tổng thuế sử dụng đất nông nghiệp không lớn. Từ năm 2003 đến năm
2010, Chính phủ đã quyết định miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong
hạn điền cho tất cả hộ nông dân và miễn hoàn toàn thuế sử dụng đất cho
hộ nông dân nghèo, giảm 50% cho diện tích vượt hạn điền.

17


Tiền thuê đất chỉ áp dụng đối với diện tích đất vượt hạn điền hoặc đất đấu
thầu. Các khoản lệ phí về đất không lớn, thường là phí cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, phí trích lục bản đồ, phí đăng ký đất...
Xét tổng thể, chính sách thuế đất nông nghiệp của Việt Nam được giảm
nhẹ ở nhiều khâu, kể cả việc Nhà nước không thu thuế chuyển nhượng
đất nông nghiệp giữa những người nông dân với nhau nhằm khuyến
khích tập trung đất và chưa thu thuế giá trị gia tăng từ đất.

2.1.2. Tác động của chính sách đất đai đến sản xuất và đời sống
của nông dân hiện nay
2.1.2.1. Tác động tích cực:
- Chính sách đất đai đã tạo điều kiện cho nông dân chủ động lao
động, sản xuất, kinh doanh nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất và tăng thu
nhập.
So với các tầng lớp dân cư khác, nông dân Việt Nam được hưởng 3 lợi
ích từ chính sách đất nông nghiệp: được giao đất nông nghiệp không mất
tiền; được quyền chủ động sắp xếp kế hoạch canh tác và bán nông sản
theo nguyên tắc thị trường để cải thiện cuộc sống; được chuyển nhượng
quyền sử dụng đất như một tài sản. Nhờ đó, cuộc sống của nông dân
được cải thiện.
- Chính sách đất nông nghiệp tạo điều kiện để nông dân chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Chế độ giao đất cho hộ nông dân và coi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự
chủ cho phép họ lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi có lợi nhất trên đất
được giao đã tạo điều kiện cho nhiều gia đình, nhiều xã, nhiều huyện,
tỉnh lựa chọn cơ cấu sản xuất thích hợp. Trong cả nước, số hộ độc canh

18


lúa giảm đi. Đã xuất hiện nhiều hộ, nhiều trang trại chuyên canh nông sản
hàng hóa.
- Chính sách đất nông nghiệp hỗ trợ nông dân tiếp cận tín dụng ngân
hàng.
Việc hợp thức hóa quyền sử dụng đất nông nghiệp bằng cách cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân đã hỗ trợ họ
không chỉ trong thực hành giao dịch quyền sử dụng đất an toàn, nhất là
cho thuê, góp vốn sản xuất, mà còn giúp họ thế chấp quyền sử dụng đất

để vay vốn ngân hàng.
- Chính sách đất nông nghiệp đã bước đầu khuyến khích nông dân
tích tụ, tập trung đất để kinh doanh hiệu quả hơn.
Về mặt pháp lý, có quyền sử dụng đất nông nghiệp hợp pháp, được Nhà
nước bảo hộ, nên nông dân có thể chuyển đổi, chuyển nhượng đất cho
nhau hoặc thuê mướn để có diện tích đất nông nghiệp liền khoảnh, quy
mô lớn thích hợp với cơ giới hóa, từ đó thuận lợi cho việc áp dụng các
biện pháp bảo vệ thực vật và thâm canh. Những người không có khả năng
làm nông nghiệp hiệu quả cũng có thể nhượng quyền sử dụng đất nông
nghiệp cho người khác để có tiền chuyển sang làm các nghề phi nông
nghiệp. Nhờ đó, quá trình chuyên môn hóa ngành nghề và “sàng lọc” để
tìm ra người làm nông nghiệp giỏi được thúc đẩy nhanh hơn.
- Chính sách đất nông nghiệp kích hoạt thị trường bất động sản ở
nông thôn, tạo điều kiện phân bổ đất nông nghiệp hiệu quả, hình thành
nhiều ngành nghề mới ở nông thôn.
Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp ở nông thôn được kích hoạt
đã tạo điều kiện cho giao dịch quyền sử dụng đất thuận lợi hơn, chi phí
giao dịch giảm. Do có thể chuyển nhượng dễ dàng quyền sử dụng đất
19


nông nghiệp nên đất đai cũng được sử dụng hiệu quả hơn theo tín hiệu
của thị trường, nhờ đó thúc đẩy quá trình phân bổ lại đất đai giữa trồng
trọt, thủy sản và chăn nuôi, đồng thời góp phần khôi phục và phát triển
nhiều làng nghề truyền thống.
2.1.2.2.Tác động không mong muốn của chính sách đất nông nghiệp:
- Nông dân chưa được lợi nhiều từ quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Do nông dân không được tự ý chuyển đất nông nghiệp sang các loại đất
khác, đồng thời do đất nông nghiệp sinh lợi thấp nên giá quyền sử dụng
đất nông nghiệp thấp hơn giá quyền sử dụng các loại đất khác rất nhiều.

Hơn nữa, quyền sử dụng đất nông nghiệp của nông dân dễ bị thu hồi.
Nông dân không những chỉ được sử dụng đất nông nghiệp với kỳ hạn
ngắn nhất, mà còn được hưởng lợi ít nhất khi đất nông nghiệp được sử
dụng vào mục đích khác. Vô hình trung, chính sách này không khuyến
khích nông dân gắn bó với nông nghiệp do cơ hội làm giàu ở đây rất
thấp.
- Tình trạng nông dân không có đất.
Giao 5 quyền đối với đất nông nghiệp cho nông dân và kích hoạt thị
trường bất động sản, Nhà nước đồng thời buộc nông dân phải chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh trong điều kiện thị trường cạnh
tranh và bấp bênh, mức tích lũy thấp. Thậm chí, nhiều dịch vụ ở nông
thôn được bao cấp trước kia và nhiều nguồn tài chính tái phân bổ cho
nông dân nghèo trong thời kỳ bao cấp đang bị suy giảm nghiêm trọng. Hệ
quả là, khi gặp hoàn cảnh khó khăn, nông dân chỉ có cách bán quyền sử
dụng đất nông nghiệp và trở thành nghèo đói. Nhà nước không có nhiều
khả năng để hỗ trợ họ giữ đất nông nghiệp làm phương tiện mưu sinh.

20


Chính vì vậy, phân hóa giàu nghèo phát sinh ngay trong giai cấp nông
dân. Tệ nạn xã hội cũng có cơ hội len lỏi vào các làng quê Việt Nam.
- Chính sách đất nông nghiệp chưa khuyến khích nông dân bảo vệ đất
và đầu tư dài hạn vào đất.
Nhà nước không giao quyền sử dụng đất dài hạn, ổn định cho hộ gia đình
nông dân, nên không khuyến khích họ đầu tư lâu dài nhằm bảo tồn đất
nông nghiệp. Cộng với xu hướng chạy theo sản lượng, đã xuất hiện tình
trạng nông dân lạm dụng hóa chất để thâm canh, không chú trọng đầu tư
cải tạo đất lâu dài, làm thoái hóa đất nông nghiệp, thậm chí gây ô nhiễm
đất.

- Tác động hỗ trợ nông dân tích tụ, tập trung đất chưa đạt yêu cầu.
Chính sách giao đất bình quân khiến đất nông nghiệp trở nên manh mún.
Ngoài ra, do số lao động rút khỏi ngành nông nghiệp không đủ lớn để
làm giảm số lượng lao động nông nghiệp trên diện tích đất đai đi đôi với
việc chuyển diện tích lớn đất nông nghiệp sang sử dụng với mục đích
khác dẫn đến quy mô đất nông nghiệp bình quân đầu người tiếp tục giảm.
Hiện nay, chỉ còn ít cơ sở sản xuất nông nghiệp có quy mô từ 3 - 5 ha trở
lên, mà đa phần là các hộ gia đình có quy mô diện tích dưới 1 ha.
- Chính sách thu hồi đất và giá đất nông nghiệp khiến nông dân thiệt
thòi.
Thiệt thòi thứ nhất là Nhà nước không đủ quỹ đất nông nghiệp để đền bù
cho nông dân nên họ trở nên không còn phương tiện để sinh sống. Thiệt
thòi thứ hai là các vùng đất dành để đền bù cho nông dân thường không
thuận lợi bằng đất bị thu hồi, nên đời sống của họ trở nên khó khăn hơn.
Thiệt thòi thứ ba là nông dân không được quyền thỏa thuận khi đền bù.
Những chính sách như đào tạo nghề cho nông dân thuộc diện thu hồi đất,
21


khuyến khích người nhận quyền sử dụng đất thu hồi từ nông dân chia sẻ
lợi ích với nông dân, chính sách tái định cư... thường đem lại hiệu quả
thấp.
- Chưa tạo điều kiện khuyến khích nông dân thực hành nông nghiệp
hiện đại.
Hạn mức sử dụng đất nông nghiệp giao cho nông dân quá thấp khiến hầu
hết các hộ nông nghiệp đều canh tác bằng lao động thủ công của gia đình,
không có nhu cầu mua máy móc và hợp tác với nhau trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp, trong giao dịch tư liệu sản xuất và tiêu thụ nông sản,
trong áp dụng đồng bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Chính vì vậy, năng suất và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp còn thấp.

2.2. Một số giải pháp đổi mới chính sách đất nông nghiệp ở nước
ta hiện nay.
2.2.1. Đổi mới chính sách đất nông nghiệp theo hướng tăng quy mô
đất canh tác của hộ gia đình và hạn điền.
Chính sách đất nông nghiệp cần đáp ứng các yêu cầu của nông nghiệp
hiện đại và cải thiện điều kiện sản xuất cho nông dân. Trước hết, cần đổi
mới chính sách hạn điền. Đi đôi với thái độ thận trọng hơn khi chuyển
quỹ đất nông nghiệp sang đất đô thị và khu công nghiệp, cần khuyến
khích nông dân đầu tư vào đất để tăng giá trị sản xuất trên đất, từ đó mà
tăng thu nhập. Muốn vậy, nên mở rộng quy mô hạn điền tương đương với
các trang trại hoạt động hiệu quả của các nước trong khu vực. Không nên
giới hạn thời gian sử dụng đất, chỉ nên quản lý bằng quy hoạch không
gian tổng thể và trách nhiệm giao đất của nông dân khi nhu cầu quốc gia
đòi hỏi. Đồng thời, cải tiến mạnh mẽ các thủ tục hành chính nhà nước
liên quan đến bảo hộ quyền sử dụng đất nông nghiệp, đến chuyển nhượng

22


quyền sử dụng đất nông nghiệp theo hướng công khai quy trình, điều
kiện, giảm phí tổn thực hiện và tăng điểm tiếp cận cho dân cư ở nông
thôn. Tổ chức thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp hoạt động theo
hướng công khai, linh hoạt nhằm hỗ trợ nông dân tích tụ, tập trung đất
đạt quy mô hiệu quả.
2.2.2 Đổi mới chính sách đất nông nghiệp theo hướng tăng vị thế
của nông dân trong giao dịch đất.
Thay đổi chính sách giá quyền sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước
thu hồi theo hướng coi trọng hơn lợi ích của người dân thuộc diện thu hồi
đất, tạo điều kiện để nông dân tham gia thỏa thuận giá đất đền bù, phân
bổ lợi ích hợp lý giữa đơn vị nhận đất và nông dân thuộc diện thu hồi đất.

Nên đền bù đất theo giá thỏa thuận, trong đó nông dân được coi là một
bên thỏa thuận quan trọng. Muốn vậy, phải khuyến khích các tổ chức của
nông dân vào cuộc thông qua các hoạt động nghiên cứu, định giá trên thị
trường quyền sử dụng đất nông nghiệp. Nhà nước cũng cần khuyến khích
các tổ chức cung cấp dịch vụ, nhất là dịch vụ định giá và cung cấp thông
tin cho thị trường này. Việc sửa đổi Luật Đất đai nên xác định cơ chế
pháp lý cho phép nông dân có vị thế bình đẳng, có lợi trong giao dịch đất
với các chủ thể kinh tế khác, nhất là quyền chấp thuận hay không chấp
thuận việc thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang kinh doanh phi nông
nghiệp.
Các hình thức tham gia đầu tư dự án hoặc góp vốn mua cổ phần bằng
quyền sử dụng đất của nông dân phải được pháp luật bảo hộ đủ mức,
tránh đẩy nông dân vào vị thế bất lợi trong doanh nghiệp do không có
khả năng tham gia quản lý doanh nghiệp.
Về lâu dài, cần có chính sách bảo vệ quỹ đất nông nghiệp, hạn chế
chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng đô thị, nhà ở, công sở. Hạn chế
23


xây dựng các khu công nghiệp xen kẽ với các diện tích canh tác nông
nghiệp để giảm thiểu tác động ô nhiễm không mong muốn, cũng như
không được phá vỡ hệ thống thủy lợi đã xây dựng.
2.2.3. Cải cách thủ tục hành chính quản lý đất nhằm kích hoạt thị
trường đất nông nghiệp.
Công khai hóa và tinh giản thủ tục quản lý đất để quyền sử dụng đất nông
nghiệp trở thành hàng hóa và có thể lưu thông dễ dàng, nhất là ổn định và
công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển thị trường chuyển
nhượng, cho thuê đất nông nghiệp theo hướng công khai, minh bạch,
được Nhà nước bảo hộ.

Đi đôi với các giải pháp trên cũng cần tăng cường tư vấn pháp lý về đất
đai cho nông dân để họ có thể tham gia thị trường chuyển nhượng quyền
sử dụng đất một cách có lợi. Đồng thời, Nhà nước cần nâng cao chất
lượng công tác quản lý đất đai, nhất là khâu lập hồ sơ đăng ký đất và bản
đồ để có thể cung cấp dịch vụ cần thiết cho các bên giao dịch./.

24


KẾT LUẬN
Quá trình nghiên cứu về lý luận địa tô của Mác, và việc vận dụng
sáng tạo của Đảng ta trong việc đề ra chính sách về đất nông nghiệp và
những quy định về thuế đất. Hiện nay, việc thu thuế trong nông nghiệp
đã được giảm đi rất nhiều, mà việc nộp thuế đang dần chuyển sang các
nhà kinh doanh thuê đất để làm ăn. Nếu như trong chế độ TBCN, địa
tô được thực hiện chủ yếu trong nông nghiệp và khoản tô đó thuộc
quyền sở hữu của địa chủ, thì ngày nay khoản thuế đó lại được giảm
trong nông nghiệp và do nhà nước quản lý, số tiền đó nằm trong ngân
sách quốc gia dùng vào các việc phúc lợi xã hội như xây trường học,
bệnh viện… Với việc thu thuế như ngày nay, nhà nước vừa thúc đẩy
được sự phát triển sản xuất trong nông nghiệp, khuyến khích người
dân sản xuất lại vừa tăng thêm nguồn ngân sách cho nhà nước. Đã tạo
ra một diện mạo mới cho người nông dân.
Tại hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) về "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã đánh
giá.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Ðảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành
tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ
khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng

và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số
mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế
nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành
nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay
đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông
thôn ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thì còn không ít những
bất cập mà phần thực trạng những hạn chế đã chỉ ra ở trên. Vì vậy đòi hỏi
Đảng và nhà nước phải nghiên cứu để đưa ra các chính sách về đất nông

25


×