Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Nguyên tắc bảo đảm lợi ích dân tộc và nhân dân trong tư tưởng đại đoàn kết hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.94 KB, 30 trang )

A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi những mục
đích của mình”, nhưng ở những bước ngoặt, ở những “điểm nút” của lịch sử
thì cái riêng trùng hợp hoặc phục tùng cái chung. Nếu cái chung không được
giải quyết thì cái riêng không tồn tại và phát triển được. Nắm bắt và vận dụng
quy luật này vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam - Hồ Chí Minh có lúc ưu tiên giải quyết cái chung trước, nhưng có sự
kết hợp hài hòa giữa cái chung - cái riêng, giữa lợi ích dân tộc - giai cấp… là
điều Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.
Tư tưởng trên của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ ràng nhất, toàn diện nhất
qua chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh, đặc biệt thể hiện qua nguyên tắc đảm
bảo lợi ích dân tộc và nhân dân trong tư tưởng Đại đoàn kết của Người.
Nhờ sức mạnh Đại đoàn kết được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng mà cách mạng Việt Nam giành được hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nguyên tắc trên được thể hiện như thế nào
qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập, Đảng ta đã vận
dụng nguyên tắc này nói riêng và chiến lược Đại đoàn kết nói chung sao cho
phù hợp với tình hình mới và nhiệm vụ mới đang được Đảng và Nhà nước ta
chú trọng. Thiết nghĩ việc nghiên cứu nó là cần thiết. Do vậy em chọn đề tài:
“Nguyên tắc bảo đảm lợi ích dân tộc và nhân dân trong tư tưởng Đại đoàn
kết Hồ Chí Minh” (nội dung, giá trị qua các thời kỳ cách mạng).
2. Mục đích nghiên cứu
Đất nước và dân tộc ta hiện đang đứng trước thời cơ cùng nguy cơ và cả
hai khả năng đó đều tác động trực tiếp đến khối Đại đoàn kết dân tộc và quốc tế.
Nghiên cứu chiến lược Đại đoàn kết nói chung và nguyên tắc đảm bảo
lợi ích dân tộc và nhân dân trong tư tưởng Đại đoàn kết của Người giúp cho
Đảng ta nhận thức đúng đắn và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa yếu tố
1



bên trong và bên ngoài, giữa dân tộc và quốc tế. Vì sinh thời Hồ Chí Minh là
bậc thầy trong nghệ thuật xử lý các mối quan hệ này. Qua đó giúp Đảng và
nhân dân ta có những định hướng đúng và rút ra được những bài học sâu sắc
cần thiết cho chúng ta lúc đất nước đang ở thời kỳ mở cửa.
3. Lịch sử nghiên cứu
Sau Đại hội VII (1991) với tinh thần: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và bắt buộc ở các trường đại học, cao đẳng phải học môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh, thì đã có không ít công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết nói riêng. Tiêu biểu nhất
là công trình nghiên cứu khoa học có tên: “Chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí
Minh” nằm trong chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 02 Nxb Quân đội xuất bản năm 1995 - do tập thể tác giả: PGS. Phùng Hữu Phú
(chủ biên), GS. Vũ Dương Ninh, PGS. Lê Mậu Hãn, PGS. Mạnh Xanh…
cùng viết; Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc của GS. Song Thành, Nxb Lý
luận chính trị… Ngoài ra còn có một số giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng bàn về vấn đề này như: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Hội đồng
Trung ương chỉ đạo biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; giáo
trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
biên soạn…; tập bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội do TS. Lê Phương Thảo chủ biên.
Tuy nhiên, bàn về nguyên tắc bảo đảm lợi ích dân tộc và nhân dân
trong tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh thì ít tài liệu đề cập đến. Do thiếu
tài liệu tham khảo cùng sự hiểu biết của người viết còn hạn chế nên bài viết sẽ
chưa đáp ứng được yêu cầu của người hướng dẫn. Xin được đóng góp ý kiến
thêm. Chân thành cảm ơn!

2


4. Phạm vi nghiên cứu

Bài viết nhỏ này, người viết chủ yếu nghiên cứu và sử dụng tư liệu
trong các tài liệu vừa nêu trên. Ngoài ra còn trích dẫn văn kiện Đại hội Đảng,
Hồ Chí Minh toàn tập và tham khảo thêm một số bài viết về vấn đề có liên
quan trên một số tạp chí như: tạp chí Đảng Cộng sản, tạp chí Xây dựng Đảng.
5. Kết cấu
Bài viết gồm 3 nội dung lớn:
I. Một số nét chung về Đại đoàn kết
II. Nội dung
III. Giá trị qua các thời kỳ cách mạng
6. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng hợp
- Lịch sử cụ thể
- Logic

3


B - PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT

Đại đoàn kết là một vấn đề lớn xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nếu Hồ Chí Minh là linh hồn của cách mạng Việt Nam thì vấn đề
Đại đoàn kết là linh hồn trong tư tưởng của Người. Vì thế đã có một số nhà
nghiên cứu nâng vấn đề Đại đoàn kết trở thành chiến lược Đại đoàn kết.
I.1. Khái niệm
“Chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận
điểm, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp giáo dục, tổ chức, hướng dẫn
hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất
sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là chiến lược xây

dựng, củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, xã hội, con người”1.
I.2. Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành
công của cách mạng
Với Hồ Chí Minh, Đại đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị nhất
thời mang tính chất sách lược mà là vấn đề có ý nghĩa sống còn và lâu dài.
Đại đoàn kết là chiến lược có thể tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp
được, nhờ đó mà hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc và sức mạnh
quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
Đại đoàn kết không đơn thuần là các biện pháp tập hợp lực lượng trong
cuộc đấu tranh cách mạng mà thật sự là một bộ phận hữu cơ của đường lối
cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau, nhưng Đại đoàn kết phải luôn luôn được nhận thức là vấn
1

PGS. Phùng Hữu Phúc: Chiến lược Đại đoàn kết, Nxb Quân đội nhân dân, 1995, tr. 357.

4


đề sống còn của cách mạng. Từ đó Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm
quan trọng về đoàn kết như:
“Đoàn kết làm ra sức mạnh”; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”.
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết … là then
chốt của thành công”.
“Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu
đều tốt”.
Cuối cùng, những luận điểm trên được đúc kết thành chân lý:

“Đoàn kết, đoàn kết, Đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
I.3. Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đại đoàn kết phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng.
Ngày 3/3/1951, trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt
Nam, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục
đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân,
phụng sự Tổ quốc”.
Khi nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội
chủ nghĩa, Người chỉ rõ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: “Một là đoàn
kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước
nhà”1.
Như vậy, đoàn kết không phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả
dân tộc, của cách mạng.
II. NỘI DUNG

Đại đoàn kết vừa là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng vừa
chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu
tranh để tự giải phóng mình vì độc lập, tự do và hạnh phúc.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, T11, tr. 130.

5


Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
rộng rãi, đoàn kết thật sự, đoàn kết với tất cả các giai cấp, đảng phái, thuộc

các tôn giáo khác nhau, không phân biệt trước đây họ đã theo phe nào, miễn
là họ yêu nước, tán thành độc lập, tự do, thống nhất và mưu cầu hạnh phúc ấm
no.
Mặc dầu tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh có một phạm vi rộng lớn
nhưng không phải là một tập hợp lỏng lẻo, hỗn loạn mà là một tập hợp có tổ
chức, có nguyên tắc. Và nguyên tắc nhất quán có ý nghĩa như là xương sống
xuyên suốt của chiến lược Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
“nguyên tắc bảo đảm lợi ích của dân tộc và nhân dân”.
II.1. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của dân tộc và nhân dân trong tư
tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là một nguyên tắc cơ bản, nhất
quán, xuyên suốt
“Suy cho cùng, những thắng lợi vĩ đại mà cách mạng Việt Nam đạt
được trong hơn bảy thập kỷ qua… đều xuất phát từ sức mạnh của khối Đại
đoàn kết dân tộc Việt Nam… đã được Hồ Chí Minh dày công xây dựng” 1.
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề Đại đoàn kết. Trong tất cả
các bài nói, bài viết của Người, Đại đoàn kết chiếm tỷ lệ 43,67%; 869 lần xuất
hiện cụm từ đoàn kết và Đại đoàn kết. Cuối đời, trong bản “Di chúc” bất hủ,
điều mong muốn cuối cùng của Người là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết,
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Vì thế Đại đoàn kết không chỉ là vấn đề cơ bản trong tư tưởng của Hồ
Chí Minh, là tâm huyết, lý tưởng suốt đời của Người mà nó đã trở thành vấn
đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng Việt Nam.
Nếu Đại đoàn kết có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách
mạng Việt Nam thì nguyên tắc bảo đảm lợi ích dân tộc và nhân dân là yếu tố
1

TS. Lê Phương Thảo (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh (tập bài giảng), Nxb Quốc gia,
H., tr. 171.


6


quan trọng nhất giúp cho chiến lược Đại đoàn kết thành công. Và nguyên tắc
này là nguyên tắc bất di bất dịch trong tư tưởng Đại đoàn kết của Người. Vì
Hồ Chí Minh thực hiện chiến lược Đại đoàn kết nhằm tạo ra sức mạnh tổng
hợp để làm cách mạng, xây dựng đất nước. Một khi lợi ích cá nhân người lao
động, của dân tộc, của nhân dân được đảm bảo sẽ trở thành động lực, mục
tiêu của chiến lược Đại đoàn kết.
Mặt khác, nếu đoàn kết không trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân
tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động thì sẽ không đoàn kết
được mọi người bởi lẽ giai cấp nào cũng cần độc lập, tự do, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bất kỳ người nào cũng cần cơm no, áo ấm, học hành… Nếu kêu
gọi họ đoàn kết mà không đảm bảo, đem lại lợi ích cho họ thì họ không đoàn
kết, không đoàn kết đồng nghĩa với việc không tạo ra sức mạnh tổng hợp để
làm cách mạng. Mà lợi ích của các giai cấp lại là lợi ích của dân tộc. Vì vậy,
đoàn kết mà đảm bảo được nguyên tắc này chắc chắn chiến lược Đại đoàn kết
sẽ thành công và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh được điều này.
Do vậy, ở bất cứ thời kỳ cách mạng nào, khi xây dựng đường lối chiến
lược Đại đoàn kết, Hồ Chí Minh luôn nhất quán với nguyên tắc này. Và nó trở
thành nguyên tắc cơ bản, nhất quán, xuyên suốt trong đường lối chiến lược
cách mạng Việt Nam nói chung và chiến lược Đại đoàn kết nói riêng.
II.2. Nội dung nguyên tắc: Đại đoàn kết phải được xây dựng trên
cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản của
nhân dân lao động
Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam, do đó
chiến lược này chủ yếu thể hiện thông qua đường lối của con đường cách
mạng Việt Nam.
Tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927) phản ánh tập trung nhất những
luận điểm cốt lõi của tư tưởng chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh trước khi

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

7


Đoàn kết với ai? Bằng hình thức nào? Ai là người đứng ra tổ chức việc
đoàn kết? Đoàn kết để làm gì? Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927)
Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Muốn làm cách mệnh phải đoàn kết lực lượng dân
tộc, trong đó công nhân - nông dân là chủ, là gốc cách mệnh, là nòng cốt của
khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, học trò, nhà buôn và các tầng lớp khác là bầu
bạn của cách mệnh. Muốn đoàn kết phải tổ chức các hội quần chúng như:
công hội, nông hội, hội phụ nữ, hội thanh niên… Đảng Cộng sản Việt Nam có
vai trò quyết định trong việc vận động, tổ chức nhân dân trong nước, liên lạc
với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản các nước. Mục đích đoàn kết,
theo Hồ Chí Minh: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của
Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.
Để đạt được mục đích này, nguyên tắc có ý nghĩa chiến lược, có vai trò
như xương sống trong tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh là Đại đoàn kết
phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc và quyền
lợi cơ bản của nhân dân.
Tại sao Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối
cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân?
Lợi ích tối cao của dân tộc được Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: Độc
lập, tự do, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Lợi ích cơ bản của nhân dân là: dân có ăn, dân có mặc, dân có chỗ ở và
dân được học hành.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong cảnh “nước mất nhà tan”. Người
quyết định ra đi tìm đường cứu nước tức là tìm cách để giành độc lập cho dân
tộc, hạnh phúc cho nhân dân hiện đang bị thực dân Pháp cướp mất. Do đó, lúc
này Đại đoàn kết nhằm mục đích đánh đổ Pháp và phong kiến giành độc lập

cho dân tộc tức là làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước (cách mạng
tư sản dân quyền), lấy đó làm điều kiện để thực hiện tiếp thổ địa cách mạng
và cuối cùng tiến đến chủ nghĩa cộng sản. Vì nếu không giải phóng được dân

8


tộc thì quyền lợi của các giai cấp và vấn đề ruộng đất cho dân cày đến vạn
năm cũng không thể giải quyết được.
Chính vì vậy, độc lập, tự do của dân tộc là khát vọng, là nhu cầu sống
của bất kỳ người dân nào sống trên mảnh đất Việt Nam. Với Hồ Chí Minh,
độc lập, tự do của dân tộc không chỉ là nhu cầu, khát vọng mà còn là lẽ sống,
lý tưởng của Người. Do đó, độc lập, tự do của dân tộc là nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là mẫu số chung để quy tụ sức mạnh của dân
tộc trong khối Đại đoàn kết toàn dân nhằm mục tiêu độc lập của dân tộc và
hạnh phúc của nhân dân.
Tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ lợi ích dân tộc,
nhân dân. Khối Đại đoàn kết phải được xây dựng trên những lợi ích chung;
lợi ích chung của càng đông người, khối đoàn kết càng mở rộng; lợi ích chung
càng thiêng liêng và càng đáp ứng yêu cầu thiết thân của mọi người, khối
đoàn kết đó càng bền chặt. Đó là lý do vì sao Hồ Chí Minh luôn nhất quán
việc lấy lợi ích của dân tộc chân chính làm cơ sở xây dựng khối Đại đoàn kết
toàn dân.
Độc lập, tự do là mẫu số chung của khối Đại đoàn kết. Mẫu số chung
này được Hồ Chí Minh đúc kết thành câu nói nổi tiếng trở thành chân lý của
dân tộc và thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Trước năm 1945, chân lý này là quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam
được thể hiện qua câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Đốt cả dãy Trường
Sơn cũng quyết phải giành được độc lập dân tộc”. Thời cơ cách mạng đến,
nếu không tổ chức ngay một cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên

phạm vi cả nước là có lỗi lớn với dân tộc. Sau năm 1945, quyết tâm ấy còn
thể hiện qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”: “… Hy sinh đến giọt máu
cuối cùng để giữ gìn đất nước”1, “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”.

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T4, tr 202.

9


“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập”1. Hồ Chí Minh đã phát triển quyền con người
thành quyền dân tộc. Nếu quyền con người là thiêng liêng, bất khả xâm phạm
thì quyền dân tộc cũng thiêng liêng và mọi dân tộc đề có quyền tự quyết định
lấy vận mệnh của mình, trong đó có dân tộc Việt Nam.
Theo luận điểm này, Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không
chỉ được xây dựng trên cơ sở lợi ích dân tộc, quyền lợi nhân dân mà còn cả
quyền con người nói chung và người Việt Nam nói riêng. Đây chính là cơ sở
vững chắc đảm bảo Đại đoàn kết thành công, đồng thời là điểm vĩ đại của
Người. Vì vậy, nhà hiền triết học Singsibata, người Nhật, trong tác phẩm “Việt
Nam và những vấn đề tư tưởng” xuất bản ở Tokyo năm 1968 đã viết: “Cống
hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát hiện quyền lợi của
con người thành quyền lợi dân tộc… và có được điều đó là do cụ Hồ Chí Minh
đã nhận thức đầy đủ những đặc thù dân tộc của các nước thuộc địa và phụ
thuộc”2.
Độc lập, tự do là nguồn gốc ý chí chiến đấu tuyệt vời của Người, của
dân tộc. Đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do và hạnh

phúc của nhân dân. “Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì độc
lập không có nghĩa gì”. Chính vì vậy, ngay trong những ngày kháng chiến
gian khổ của nhân dân ta, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng, thực hiện
khẩu hiệu “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, chăm lo xây dựng chế độ mới,
cuộc sống mới, từng bước nâng cao quyền tự do dân chủ cho đông đảo nhân
dân, cho dân tộc.
Suốt đời Hồ Chí Minh “chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”3.
1
2
3

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T4, tr 240.
Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, H., 1986, tr. 240.
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, tr. 161.

10


Không có gì quý hơn độc lập, tự do - tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ
Chí Minh vừa có bệ đỡ của quá khứ, phản ánh được khát vọng của hiện tại và
soi sáng tương lai của dân tộc, vừa hợp với chính nghĩa sống còn của các
quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đó chính là chìa khóa vạn năng, điểm hội tụ
thắng lợi của chiến lược “Đoàn kết, đoàn kết, Đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”.
Lợi ích là mục tiêu, động lực hoạt động của con người. Đoàn kết hay
không đoàn kết, đoàn kết đến mức độ nào xét cho cùng là tùy thuộc vào việc
nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ: cá nhân, tập thể, gia đình xã hội; bộ phận - toàn thể; giai cấp - dân tộc; quốc gia - quốc tế.
Giữa những cặp quan hệ nói trên luôn chứa đựng những yếu tố tương

đồng và mâu thuẫn. Nguyên tắc Đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân
trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những
yếu tố khác biệt mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của
đoàn kết dân tộc thay cho việc đào sâu cách biệt, thực hiện việc quy tụ thay
cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. Trong mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp,
tầng lớp lại có lợi ích khác nhau, nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có
điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực
hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập hay
không và việc nhận thức giải quyết đúng đắn các mối quan hệ, lợi ích đó như
thế nào.
Như vậy, Đại đoàn kết muốn thành công bên cạnh xây dựng khối Đại
đoàn kết trên cơ sở lợi ích dân tộc thì cần thiết phải nhận thức và giải quyết
đúng quan hệ cốt lõi: dân tộc - giai cấp.
Giai cấp nằm trong dân tộc vì thế dân tộc là cái tổng thể, giai cấp là cái
bộ phận, không có cái tổng thể chung chung trừu tượng, chỉ có cái tổng thể là
tổng hòa các mối quan hệ, liên kết giữa các bộ phận cấu thành dân tộc. Nếu
nhấn mạnh, đề cao một mặt dân tộc hay giai cấp đều là siêu hình; nói cái này
11


là chiến lược, cái kia là sách lược là không đúng. Không giống như những nhà
tư tưởng đương thời, Hồ Chí Minh không tách biệt hoặc đối lập giữa dân tộc
và giai cấp mà ngược lại giải quyết hài hòa mối quan hệ dân tộc - giai cấp trên
cơ sở đảm bảo về mặt lợi ích.
Với Hồ Chí Minh, quyền lợi của giai cấp lãnh đạo phải đại diện cho lợi
ích chung của tất cả các giai cấp, tầng lớp. Điều này đã được các nhà kinh
điển Mác - Lênin nói: Giai cấp công nhân phải tự mình trở thành dân tộc,
giương cao ngọn cờ dân tộc… là với ý nghĩa như vậy.
Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng này của Mác - Lênin, do vậy, Hồ Chí

Minh từng khẳng định: Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là
Đảng của dân tộc. Giai cấp công nhân là đại diện trung thành cho quyền lợi
của dân tộc.
Đồng thời với việc nhận thức, giải quyết đúng quan hệ giai cấp, dân
tộc, trong nguyên tắc Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh còn bao hàm sự kết hợp
chặt chẽ đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế.
Để thực hiện được mục tiêu đoàn kết, đoàn kết trong dân tộc chưa đủ
mà phải đoàn kết với quốc tế. Cả hai sự đoàn kết đều nhằm mục tiêu giành
độc lập tự do, hạnh phúc cho nhân dân và tiến đến việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Sở dĩ chúng ta phải đoàn kết quốc tế vì kẻ thù liên kết với nhau chống
chúng ta - các nước bị nô dịch cũng phải đoàn kết mới tạo ra sức mạnh đủ sức
chiến thắng chúng. Tuy khẳng định đoàn kết với quốc tế là cần thiết, quan
trọng nhưng Người luôn quán triệt tư tưởng “Muốn người ta giúp cho, thì
trước hết mình phải tự giúp mình cái đã” 1, “ đem sức ta mà giải phóng cho
ta”. Trong khi đoàn kết với quốc tế những vấn đề thuộc về lợi ích tối cao của
dân tộc và quyền lợi cơ bản nhân dân phải luôn được giữ vững và đảm bảo,
luôn luôn lấy tinh thần “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” làm phương châm
đoàn kết. Đoàn kết theo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Mục tiêu

1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T2, tr. 293.

12


độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và góp phần vào cách mạng thế giới là cái
dĩ bất biến trong nguyên tắc Đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Chính vì vậy, đối tượng đoàn kết quốc tế là các lực lượng của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ

độc lập dân tộc, phong trào hòa bình và tiến bộ trên thế giới.
Nhân dân các thuộc địa hướng về cách mạng Việt Nam trước hết vì
mục tiêu của nó phù hợp với nguyện vọng thiết tha của các dân tộc là độc lập,
tự do và thắng lợi của Việt Nam sẽ góp phần vào thắng lợi chung của phong
trào chống đế quốc, có ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh trong nhiều nước.
Trong khi đoàn kết cùng các dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nhắc đến nguyên
tắc tôn trọng quyền tự chủ về nền độc lập của các quốc gia khác. Đặc biệt, trong
quan hệ mật thiết với ba nước Đông Dương, sự đoàn kết chặt chẽ chống kẻ thù
chung là điều hết sức cần thiết, đồng thời, tôn trọng nền độc lập của mỗi nước là
điều không thể xem thường. “Ba nước sẽ bang giao với nhau trên nguyên tắc
hoàn toàn bình thường và tôn trọng độc lập quốc gia của nhau”. Nguyên tắc đó
được thể hiện rõ nét trong việc thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh
(1941) cho từng nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Năm 1951, Người đặt vấn đề
tổ chức 3 chính đảng vô sản để lãnh đạo phong trào đấu tranh ở mỗi nước. Đó là
sự thực hiện nghiêm túc nguyên tắc vừa đoàn kết đấu tranh, vừa tôn trọng chủ
quyền dân tộc trong sự nghiệp cứu nước của nhân dân Đông Dương.
Đề cao tinh thần dân tộc, phấn đấu vì lợi ích dân tộc mình, Hồ Chí
Minh đồng thời trân trọng giá trị, quyền lợi của các dân tộc khác, đấu tranh vì
quyền lợi chung của các dân tộc, vì những giá trị tốt đẹp của nhân loại. Trên
tinh thần dân tộc chân chính ấy, Hồ Chí Minh xây dựng khối đoàn kết quốc tế
rộng rãi và mạnh mẽ, ủng hộ cách mạng Việt Nam trong cách mạng giải
phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi Hồ Chí Minh lấy lợi ích của dân tộc làm cơ sở xây dựng khối Đại
đoàn kết rộng lớn, Hồ Chí Minh không chỉ nêu lên được lợi ích thiêng liêng
mà còn đáp ứng được những lợi ích thiết thân của nhân dân. Đó là: ruộng đất

13


về tay dân cày, hòa bình, cơm áo, học hành, nhà ở, việc làm, đời sống được

cải thiện. Tất nhiên trong khi đoàn kết vẫn còn những lợi ích không thống
nhất đã đặt ra cho Hồ Chí Minh phải xử lý theo những cách khác nhau nhưng
lúc nào cũng phải theo tinh thần “Tổ quốc trên hết”. “Tùy thuộc nhiệm vụ
cách mạng cụ thể từng giai đoạn lịch sử, Người đã đưa ra những khẩu hiệu
tranh đấu cho quyền lợi giai cấp một cách hợp lý để vừa đáp ứng được đời
sống nhân dân, vừa xây dựng được khối Đại đoàn kết dân tộc”1.
Tóm lại, thực chất của nguyên tắc đảm bảo lợi ích của dân tộc và nhân
dân trong tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là vấn đề Đại đoàn kết phải
đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nếu độc lập dân tộc là
điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì độc lập, tự do cho đất
nước là cơ sở, tiền đề để người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Điều này
được Hồ Chí Minh khẳng định, khi giành được độc lập chúng ta phải làm
ngay: Làm cho dân có ăn; Làm cho dân có chỗ ở; Làm cho dân được học
hành, vì “cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức cho được tự do, độc lập” 2. Nếu chủ
nghĩa xã hội là con đường đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc đảm bảo quyền
lợi của nhân dân sẽ đảm bảo được quyền lợi của dân tộc. Như vậy nếu Đại
đoàn kết giữ vững nguyên tắc này cũng chính là giữ vững độc lập toàn dân
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và nó luôn là cơ sở vững chắc, là mục tiêu bất
di bất dịch của khối Đại đoàn kết trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân
tộc và trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
III. GIÁ TRỊ CỦA NGUYÊN TẮC QUA CÁC THỜI KỲ CÁCH MẠNG

Như đã khẳng định: vấn đề chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã
trở thành vấn đề chiến lược của con đường cách mạng Việt Nam. Do vậy khi
nói giá trị của nguyên tắc Đại đoàn kết tức là nói đến việc Đảng ta có đã vận

1

TS. Lê Phương Thảo (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh (tập bài giảng), Nxb Quốc gia,

Hà Nội, tr. 190, 191.
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T4, tr 152.

14


dụng nguyên tắc này như thế nào? đạt kết quả ra sao trong cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa?
III.1. Trong cuộc cách mạng Giải Phóng Dân Tộc
Trong cách mạng Giải Phóng Dân Tộc, nổi bật lên hàng đầu nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Giai đoạn này nguyên tắc bảo đảm lợi ích của dân tộc và
nhân dân trong tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ ràng
nhất và được Đảng ta vận dụng sáng tạo nhất và thu được kết quả cao nhất:
Thắng thực dân Pháp - khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; thắng đế quốc Mỹ - non
sông thu về một mối, cả nước thống nhất và bắt tay vào công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
III.1.1. Thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 - 1945)
Sức mạnh vật chất chỉ có thể bị đánh bại bằng sức mạnh vật chất.
Xuất phát từ quan điểm trên nên sau khi tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh quyết định “trở về
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ,
đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập” 1 thì vấn đề Người quan tâm đầu tiên
là lo việc tổ chức hình thành khối Đại đoàn kết nhằm tạo ra sức mạnh vật chất
chính nghĩa chống lại sức mạnh vật chất phi nghĩa. Từ đó, Mặt trận dân tộc
thống nhất ra đời. Mặt trận dân tộc thống nhất được lập ra để thực hiện đoàn kết.
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc
thống nhất có thể có những tên gọi khác như: Hội phản đế đồng minh (1930),
Mặt trận Dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt

Minh (1941), Mặt trận liên Việt (1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam (1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976), nhưng thực
chất chỉ là một - đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở
1

Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tr. 49.

15


trong và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ
quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đoàn kết chỉ có thể thực hiện được khi có sự thống nhất về mục tiêu và
lợi ích. Vì thế, trong đấu tranh giải phóng dân tộc thì “dân tộc là trên hết, Tổ
quốc là trên hết”.
Do vấp váp của thời “ấu trĩ” những năm 1931 - 1935 nên khối Đại đoàn
kết chưa phát huy được sức mạnh của. Từ năm 1936 trở đi, Đảng có sự điều
chỉnh về chiến lược cách mạng và công tác vận động xây dựng khối đoàn kết
dân tộc. Văn kiện “Chung quanh vấn đề chính sách mới” của Đảng Cộng sản
Đông Dương công bố ngày 30 tháng 1 năm 1936 khẳng định “Vấn đề dân tộc
giải phóng là một nhiệm vụ quan trọng”1. Văn kiện kêu gọi các đảng phái “phải
bỏ những quyền lợi ích kỷ hẹp hòi, lấy quyền lợi nhân dân làm đầu, làm cốt để
đoàn kết lực lượng toàn cả dân tộc ở Đông Dương mưu giải phóng dân tộc”2.
Năm 1936 - 1939, trên thế giới hình thành chủ nghĩa phát xít. Lúc này
nhiệm vụ trước mắt của nhân dân Đông Dương nói chung và của nhân dân ta
nói riêng là đấu tranh chống bọn phản động, chống phát xít, chống chiến tranh
đế quốc, đòi quyền tự do cơm áo hòa bình. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn này,
dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh từ nước ngoài, Hội nghị Trung ương Đảng
họp và quyết định thành lập một Mặt trận dân chủ rộng rãi lấy tên là “Mặt trận

thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương” hay còn gọi là Mặt trận Dân chủ
(1936). Mặt trận này có nhiệm vụ đoàn kết toàn dân rộng rãi bao gồm các giai
cấp, đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau…
nhằm đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ. “Mặt trận ấy không những chỉ có
người Đông Dương mà bao gồm cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương,
không những chỉ có nhân dân lao động mà gồm cả tư sản dân tộc”3.

1

Văn kiện Đảng 1930 - 1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TW xuất bản, 1977, T2, tr.
126.
2
Văn kiện Đảng 1930 - 1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TW xuất bản, 1977, T2, tr.
127.
3
Hồ Chí Minh tuyển tập (1920 - 1954), Nxb Sự thật, H., 1980, tr. 318.

16


Khi thời cơ giải phóng dân tộc đang đến, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
kêu gọi “trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng
ta phải đoàn kết đánh đổ bọn đế quốc và Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi
nước sôi, lửa bỏng”1.
Trên tinh thần đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941) họp dưới sự
chủ tọa của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã nhấn mạnh: “trong lúc này, quyền
lợi của bộ phận, của giai cấp cần phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, của dân tộc”2. Do đó, Đảng ta đã tạm gác khẩu hiệu cải cách ruộng đất,
chỉ chia ruộng đất của đế quốc, Việt gian, thực hiện giảm tô, giảm tức; vì lúc
này “không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những

toàn thể quốc gia, dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận,
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” 3.
Ngày 16/8/1945, Đại hội đại biểu quốc dân họp tại đình Tân Trào quyết
định khởi nghĩa. Với tinh thần đoàn kết trăm người như một, Tổ quốc trên hết,
cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường
Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa - mở ra thời đại mới trong lịch sử: thời đại độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, Đại đoàn kết trong giai đoạn này nhằm giải quyết vấn đề dân
tộc. Lợi ích dân tộc, quyền lợi nhân dân lúc này là đòi được độc lập. Còn lợi
ích của bộ phận giai cấp đặt dưới sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Hồ Chí
Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa
quốc gia, dân tộc… Luôn lấy cái chung làm mục tiêu đoàn kết, đấu tranh cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc - điều này góp phần quan trọng vào sự thành
công của cách mạng Việt Nam.
III.1.2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)
III.1.2.1. Đoàn kết xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
1
2
3

GS. Song Thành: Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, tr. 273.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, T3, tr 198.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, T7, tr. 113.

17


Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời đứng trước một tình thế
như ngàn cân treo sợi tóc. Đảng và Hồ Chí Minh tiếp tục nêu cao khẩu hiệu

“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Khác với nội dung cơ bản trước đây của
vấn đề dân tộc là đấu tranh đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai để giành chính
quyền, còn thời kỳ này là đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài để giữ cho
được chính quyền cách mạng vừa giành được và chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến chống Pháp xâm lược lần 2.
Giữ vững được chính quyền cách mạng là yêu cầu sống còn của nhân
dân ta, là đòn bẩy để đưa cách mạng tiến lên. Muốn vậy phải tăng cường đoàn
kết toàn dân hơn nữa, hòa hợp dân tộc, loại trừ chia rẽ, đối lập, xây dựng và
củng cố chính quyền quốc gia để kháng chiến và kiến quốc..
Giai đoạn này, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để
tập hợp lực lượng cách mạng, đoàn kết dân tộc, thu phục nhân tài, sử dụng
nhân sĩ trí thức phục vụ kháng chiến kiến quốc. Hồ Chí Minh kêu gọi tha thiết
các cá nhân, tầng lớp, các đảng phái, tôn giáo, các dân tộc hãy vì quyền lợi
thiêng liêng của Tổ quốc Đại đoàn kết chống kẻ thù chung. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn Chính phủ chung của
chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn
nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta… Sông có thể cạn, núi có thể mòn,
nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt, chúng ta quyết
góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”1.
Để thực hiện quyết tâm này, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là
Liên Việt ra đời. Với chính sách đúng của Mặt trận Liên Việt, chúng ta đã giữ
vững được chính quyền cách mạng. Cơ sở để Hồ Chí Minh thực thi Đại đoàn
kết là dân hưởng quyền tự do, dân chủ và dân sinh.
III.1.2.2. Đoàn kết trong cuộc kháng chiến chống Pháp
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T4, tr. 217 - 218.


18


nước ta một lần nữa”2. Giữ vững ngọn cờ độc lập, tự do, Hồ Chí Minh đã
quyết tâm nêu cao ý chí chiến lược “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”2.
Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trên cơ
sở quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng chiến lược Đại đoàn kết trong chiến tranh giải phóng,
Hồ Chí Minh nêu cao luận điểm quân sự cách mạng của dân tộc: “Bất kỳ đàn
ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ
quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước” 3.
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 là một
sự phát triển cao và sáng tạo về chiến lược Đại đoàn kết toàn dân trong chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc bằng mọi phương tiện sẵn có của mỗi người
dân.
Và nguyên tắc đảm bảo lợi ích dân tộc và nhân dân trong tư tưởng Đại
đoàn kết Hồ Chí Minh được thể hiện qua việc Hồ Chí Minh cùng Ban chấp
hành Trung ương Đảng phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và dân
chủ, giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Đặc biệt giai đoạn này thực
hiện cách mạng thổ địa bằng một đường lối riêng biệt, không tịch thu ruộng
đất của địa chủ phong kiến cho dân cày mà chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng
tài sản khác của Việt gian, phản động để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay
ủng hộ gia đình các chiến sĩ hy sinh: “Dùng phương pháp cải cách và dần
dần thu hẹp phạm vi bóc lột của đại địa chủ phong kiến bản xứ lại (ví dụ
giảm tô), đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất trong phạm vi không có hại cho
Mặt trận thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”4.
1

2
3
4

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T4, tr. 480.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T4, tr. 480.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T4, tr. 480.
Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự thật, H., 1947, tr. 30-31.

19


Đường lối cách mạng ruộng đất riêng biệt này vừa đem lại ruộng đất
cho nông dân lao động vừa giữ vững được khối Đại đoàn kết dân tộc thống
nhất cùng chung sức đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược.
III.1.2.3. Đoàn kết trong đấu tranh chống đế quốc Mỹ, thống nhất nước
nhà (1954 - 1975)
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2
miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Đặc điểm đó quyết định cuộc đấu
tranh cách mạng hai miền thuộc hai chiến lược khác nhau, song trước mắt
nhằm mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, thống nhất đất nước. Vì thế, trong thư gửi đồng bào cả nước ngày
6/7/1956, Hồ Chí Minh viết: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là: Kiên
quyết, tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình, hoàn
thành sự nghiệp vẻ vang giải phóng dân tộc.
Đường lối đấu tranh của chúng ta hiện nay là: toàn dân từ Nam đến
Bắc đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ra sức
củng cố miền Bắc thành nền tảng vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà.

Hễ là con Hồng cháu Lạc, người có lương tâm, thì chắc ai cũng tán
thành và ủng hộ mục đích cao cả ấy. Cho nên chúng ta đoàn kết rộng rãi tất cả
những người Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, yêu thống nhất trong cả
nước và ngoài nước. Với lực lượng đoàn kết ấy, chúng ta hoạt động không
ngừng cho Nam - Bắc gần gũi nhau, chúng ta kiên quyết đấu tranh củng cố
hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả
nước…”1.
Chủ trương trên đây của Hồ Chí Minh là đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn của đất nước, hợp với nguyện vọng thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam
đến Bắc, của tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân và cá nhân yêu nước.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Sự thật, H., 1987, T7, tr. 463.

20


Để mở rộng khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết cả những thực sự yêu Tổ
quốc, yêu hòa bình, không phân biệt thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng
lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với bên nào nhằm tập trung mũi nhọn đấu
tranh của nhân dân ta chống Mỹ - Diệm để thực hiện thống nhất Tổ quốc, Đại
hội Mặt trận Liên Việt toàn quốc họp từ ngày 5 - 10/9/1955 tại Hà Nội quyết
định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tiếp tục sự nghiệp đoàn kết toàn
dân của Mặt trận Liên Việt.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam
còn phải tiếp tục đấu tranh hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh lại phải tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa giai
cấp và dân tộc, giữa củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam.
Hồ Chí Minh nói: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu
tranh của nhân dân ta. Nền có vững nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt.

Muốn thực hiện cương lĩnh của Mặt trận thì chúng ta phải ra sức củng cố
miền Bắc về mọi mặt, phải làm cho miền Bắc vững mạnh và tiến lên mãi; chứ
quyết không hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc”1.
Theo phương hướng trên, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã động viên và
tổ chức nhân dân ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ở miền Bắc,
đấu tranh đòi chính quyền miền Nam phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, chống
đàn áp, khủng bố những người kháng chiến cũ, thi hành các quyền tự do, dân
chủ, hiệp thương với miền Bắc để tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Ở miền Nam, chế độ Mỹ - Diệm là một chế độ cực kỳ phản động và tàn
bạo. Mặt trận dân tộc thống nhất ở miền Nam phải đoàn kết rộng rãi: dân tộc
đa số, thiểu số, các đảng phái, các tôn giáo và những cá nhân yêu nước, đoàn
kết với ngoại kiều, đặc biệt là Hoa kiều, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo,
chính kiến, điều cốt yếu là chống Mỹ - Diệm, tán thành tự do dân chủ, cải
thiện dân sinh và hòa bình thống nhất Việt Nam. Tranh thủ đoàn kết với mọi
người có thể đoàn kết được, phải trung lập mỗi người có thể trung lập được kể
cả những người có ít nhiều khuynh hướng chống Mỹ - Diệm. Mặt trận miền
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Sự thật, T7, tr. 331.

21


Nam tuy riêng cho miền Nam nhưng cùng thực hiện mục tiêu chung với Mặt
trận Tổ quốc là: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ
và giàu mạnh do Đảng lãnh đạo.
Năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được
thành lập tiếp tục giương cao ngọn cờ cứu nước với chương trình hành động
10 điểm với nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm xây
dựng một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới

hòa bình, thống nhất Tổ quốc.
Trong khi đoàn kết, Hồ Chí Minh luôn bảo đảm lợi ích tối cao của Tổ
quốc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Mặt khác, Hồ Chí Minh vẫn
quan tâm thích đáng đến lợi ích của giai cấp tư sản dân tộc, tầng lớp trí thức
và các nhân sĩ tiến bộ khác. “Đối với các nhà tư sản công thương, nhà nước
không xóa bỏ quyền sở hữu tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà ra
sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh” 1. Trên thực
tế, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam đã tiếp thu chính sách cải tạo xã hội chủ
nghĩa của Đảng và Bác Hồ, góp phần nhất định vào việc xây dựng kinh tế
trong thời kỳ quá độ.
III.2. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (1975 - nay)
III.2.1. Miền Bắc (1954)
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, với phương châm: xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn,
vững chắc cho cách mạng miền Nam đánh Mỹ. Muốn vậy chúng ta phải tăng
cường khối Đại đoàn kết hơn nữa, lúc này độc lập tự do phải gắn liền với
nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Nam Bộ là máu của máu
Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam, Bắc, Trung, Nam là một khối không thể
phân chia. Đó là nguyên tắc đồng thời là điểm tương đồng, mục tiêu chung
của công dân Việt Nam, là mục đích của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.,

, T9, tr. 589.

22



Xuất phát từ mục tiêu này, Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện chiến lược
Đại đoàn kết, đoàn kết được mở rộng, Hồ Chí Minh tiếp tục giải quyết mối
quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa củng cố miền Bắc và chiếu cố miền
Nam, giữa cải thiện đời sống nhân dân lao động với việc xóa bỏ giai cấp địa
chủ và từng bước cải tạo xã hội chủ nghĩa, đổi mới giai cấp tư sản dân tộc.
Trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp lúc đó, nhất là sau phát hiện sai
lầm cải cách ruộng đất, Mặt trận Dân tộc thống nhất càng phải được củng cố
và mở rộng, thu hút nhân dân vùng giải phóng vào Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam theo nguyên tắc: tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Bất kỳ ai, dù quá khứ của họ như thế
nào, miễn là ngày nay họ thật lòng ủng hộ công cuộc xây dựng miền Bắc và
đấu tranh thống nhất nước nhà, thì chúng ta đoàn kết với họ”.
III.2.2. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975)
Là giai đoạn kế thừa, phát triển chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thống nhất.
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục giương cao ngọn cờ Đại đoàn kết Hồ
Chí Minh trong thời kỳ lịch sử mới.
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
thắng lợi, cách mạng Việt Nam bước sang một thời kỳ lịch sử mới: cả nước
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong khoảng 10 năm đầu (1976 - 1986)
xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam
giành được nhiều thắng lợi quan trọng, đồng thời cũng vấp phải một số sai
lầm, mà một trong những nguyên nhân sai lầm, là do chúng ta chưa nghiên
cứu, kế thừa, phát triển đúng chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh phù hợp
với tình hình mới.
Cũng trong thời gian này, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô, Đông Âu tác động mạnh đến hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa khác. Nôn
nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn, mong muốn nhanh chóng có được chủ
nghĩa xã hội trở thành một căn bệnh phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa.
23



Ở nước ta, sau thắng Mỹ, tâm lý chủ quan, tự cho rằng: Mỹ chúng ta
còn đánh thắng huống hồ là xây dựng kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã
xuất hiện phổ biến. Tâm lý này được nuôi dưỡng, kích thích bởi khuynh
hướng nôn nóng của các nước xã hội chủ nghĩa.
Tất cả những yếu tố khách quan, chủ quan, trong nước, ngoài nước nói
trên đã đẩy chúng ta tới sự nôn nóng, duy ý chí. Và do vậy, các kế hoạch cải
tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng, phát triển kinh tế trên quy mô lớn đã được
triển khai ồ ạt trên phạm vi cả nước, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp không
được tính toán và kết hợp hợp lý. Những việc làm ấy, trên thực tế, đã vi phạm
những nguyên tắc của chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Kết quả là, vào
giữa thập kỷ 80, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội,
khối đoàn kết dân tộc, khối liên minh công - nông có nguy cơ rạn nứt, quần
chúng giảm sút lòng tin đối với Đảng và Nhà nước.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã kịp thời khởi xướng công cuộc đổi mới
và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) là Đại hội đánh dấu công
cuộc đổi mới của Đảng ta sao cho phù hợp với tình hình mới, nhiệm vụ mới.
Đại hội đã xác định phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế, trong đó thể
hiện đậm nét tư tưởng Đại đoàn kết.
Về kinh tế: Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,;
trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi trọng lợi ích của người
lao động nhằm liên kết và phát huy sức mạnh của tất cả các giai tầng xã hội
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về chính trị: Đại hội nhấn mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động và củng cố, tăng cường khối Đại đoàn kết dân tộc.
Về chính sách xã hội: “Đại hội quan tâm đến chính sách giai cấp và
chính sách dân tộc”, coi đó là bộ phận trọng yếu của chính sách xã hội..
Đến Đại hội VII, tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh được phát triển
lên một tầm cao mới. Nghị quyết Trung ương 2, 3, 4, 5 khóa VII toát lên

những tư tưởng chủ đạo:
24


Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, đặt
quyền lợi của đất nước, dân tộc và lợi ích của con người lên hàng đầu, lấy đó
làm cơ sở để xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc.
Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất
nước.
Nhận thức vị trí đặc biệt quan trọng của chiến lược Đại đoàn kết, ngày
17/11/1993, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị
quyết 07 - NQ/TW “về Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường mặt trận dân tộc
thống nhất”. Nghị quyết này phản ánh tập trung nhất sự kế thừa, phát triển chiến
lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Hiện nay, “bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp
đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”... Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh
tổng hợp của khối Đại đoàn kết toàn dân… Muốn vậy phải “phát huy sức mạnh
của cả cộng đồng dân tộc… Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng, tôn
trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc…”.
Đại hội X (2006) cũng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của chiến
lược Đại đoàn kết. Như vậy, chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh có một sức
sống kỳ diệu. Trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ Đại đoàn kết Hồ Chí
Minh “cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về phương pháp”, đoàn kết là một
trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi nguy cơ, thử

thách, xây dựng thành công một nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

25


×