Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.07 KB, 30 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING
KHOA SAU ĐẠI HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN

MÔN: TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI:
“QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT

TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT - SỰ VẬN DỤNG
QUY LUẬT NÀY TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY”

TPHỒ CHÍ MINH – THÁNG 10 NĂM 2017

i


MỤC LỤC

 

CHƯƠNG 1 : QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-XÍT VỀ QUY LUẬT
QHSX PHÙ HỢP VỚI LLSX. ............................................................................................ 1
1.1 Lực lượng sản xuất ........................................................................................................ 1
1.2 Quan hệ sản xuất ........................................................................................................... 2
1.3 Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX .................... 4
1.3.1 Tính chất và trình độ của LLSX ......................................................................... 4
1.3.2 LLSX quyết định QHSX .................................................................................. 5


1.3.3 QHSX tác động trở lại LLSX ............................................................................ 6
1.4 Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX............................................................ 8
CHƯƠNG 2 : QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ ......................................................... 9
2.1 Những sai lầm về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX
trước Đại hội VI. .................................................................................................................. 9
2.2 Đường lối phát triển QHSX và LLSX theo định hướng XHCN. ................................ 10
2.3 Phát triển LLSX và xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN. .......................... 12
2.3.1 Thực trạng nguồn nhân lực của LLSX nước ta hiện nay ................................ 12
2.3.2 Một số giải pháp phát triển LLSX .................................................................. 13
ii


2.4 Xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN .......................................................... 15
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH
ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ .................... 16
3.1 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta............... 16
3.2 Công nghiệp hoá vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . .................................................................. 19
3.3 Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội cơ sở lý luận của sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá. .............................................................................................................. 20
KẾT LUẬN........................................................................................................................ 23

ii


MỤC LỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QHSX : Quan hệ sản xuất






LLSX : Lực lượng sản xuất
SX

: Sản xuất

TBCN : Tư bản Chủ nghĩa
CNXH : Chủ Nghĩa Xã Hội
XHCN : Xã Hội Chủ Nghĩa

33
3


LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội loài người tồn tại và phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài, trải qua
các hình thái kinh tế – xã hội và mỗi hình thái luôn gắn liền với quy luật về sự phù
hợp của QHSX với tinh chất và trình độ phát triển của LLSX. Bên cạnh đó QHSX và
LLSX cũng đóng vai trò là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống
tinh thần xã hội, qua đó ta thấy được tầm quan trọng to lớn của sự phù hợp giữa QHSX
& LLSX, trong sự tồn tại và phát triển của xã hội bởi vì QHSX và LLSX chính là
kết quả của toàn bộ quá trình lao động SX của cải, vật chất.
Không vượt khỏi quy luật khách quan, sự phù hợp giữa QHSX và LLSX của
nước ta cũng là nền tảng, cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của đất nước ta, trong đó
việc làm rõ sự phù hợp giữa QHSX và LLSX cùng với ảnh hưởng của nó tới quá
trình phát triển kinh tế đất nước là đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lí luận, thực tiễn quản
lí đất nước cũng như công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia. Tư tưởng chỉ đạo
của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực SX hiện có, khai

thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế
để phát triển mạnh mẽ LLSX đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN.
Đối với những vấn đề xã hội chính là quy luật quan hệ SX phù hợp với LLSX là vấn
đề cần được quan tâm, để tìm ra được những biện pháp thích hợp. Chính vì lí do đấy
nên em chọn đề tài “ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.

4


CHƯƠNG 1 : QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-XÍT
VỀ QUY LUẬT QHSX PHÙ HỢP VỚI LLSX.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức SX riêng, đó là cách thức con
người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương
thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng của LLSX và QHSX.
1.1 Lực lượng sản xuất

Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ thuật
nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. LLSX biểu hiện mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự SX xã hội con
người chinh phục tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình. LLSX
nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình SX tạo ra của cải xã hội. LLSX
bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất mà trước hết
là công cụ lao động đó là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất. Trong quá
trình SX công cụ lao động luôn luôn được cải thiện, nó là yếu tố động nhất và cách
mạng nhất của LLSX.
Ngoài công cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động,
phương tiện SX như đường sá, cầu cống, xe cộ, bến cảng … là yếu tố quan trọng của
LLSX.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp. Nó vừa là ngành
SX riêng vừa xâm nhập vào các yếu tố cấu thành LLSX đem lại sự thay đổi về chất

1


của LLSX. Các yếu tố cấu thành LLSX tác động lẫn nhau một cách khách quan làm
cho LLSX trở thành yếu tố động nhất.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất nó hoàn
toàn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
1.2 Quan hệ sản xuất

Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan hệ với
nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói cách khác quan
hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
QHSX là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình SX vật
chất. Cũng như LLSX, QHSX thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội. Tính vật chất
của quan hệ sản xuất được biểu hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan độc lập với ý
thức con người.Mỗi loại QHSX tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một phương thức
SX nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm :
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất : tức là quan hệ giữa người với người tư
liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất- Biểu hiện thành chế độ sở hữu trong hệ thống các quan
hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các
quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã được

2


chứng kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữu
tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liệu sản

xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của
các cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất và trong đồi sống xã hội nói
chung trở thành quan hệ hợp tác giúp đỡ nhau. Ngược lại trong các chế độ tư hữu do
tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số người nên của cải xã hội không thuộc về số
đông mà thuộc về một số ít người các quan hệ xã hội do vật bất bình đẳng.
Quan hệ về tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giữa
người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các
quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có khả
năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ
thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu
ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.
Quan hệ phân phối sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau cùng mục tiêu
chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không
ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất ở rộng nâng cao phúc lợi cho người
lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ sản
xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối
có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm

3


hãm sản xuất,, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của baat
kì quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào việc những tư liệu sản xuất chủ yếu
trong xã hội thuộc về ai. Quan hệ sản xuất mang tính chất ổn định tương đối so với
sự vận động không ngừng của LLSX.
1.3 Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức SX, chúng tồn tại không tách rời

nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch
sử loài người : quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX.
Quy luật này vạch rõ sự phụ thuộc của QHSX vào sự phát triển của LLSX, đồng thời
QHSX cũng tác động trở lại LLSX.
1.3.1 Tính chất và trình độ của LLSX

a) Tính chất
Tính chất của LLSX là tính chất của TLSX và của lao động. Nó thể hiện
tính chất của TLSX là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động
riêng lẻ. Những công cụ SX như : búa, rìu, cày, bừa … do một người sử dụng để sản
xuất ra vật dùng không cần tới lao động tập thể, LLSX chủ yếu là mang tính cá nhân.
Khi SX đạt tới trình độ cơ khí hoá thì LLSX đòi hỏi phải được vận động trong sự hợp
tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc cô lập của

4


nền SX nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất xã hội hoá cao.
b) Trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát triển
của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của
lịch sử loài người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người trong giai đoạn
đó.
Trình độ của LLSX nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ
lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và
phát triển của mình.
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ lao động của kĩ
thuật, trình độ kinh nghiệm kĩ năng lao động của người lao động, quy mô SX, trình
độ phân công lao động xã hội … nó quyết định sự hình thành và biến đổi của QHSX
như Mác nói : “ cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay

chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà TBCN ”
1.3.2 LLSX quyết định QHSX

Xu hướng của SX vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao giờ
cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của LLSX.
Trong quá trình SX, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người
luôn luôn tìm cách cải biến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động
tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm

5


SX, thói quen lao động, kĩ năng SX, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ.
LLSX trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Còn QHSX tương đối ổn định,
có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của LLSX. LLSX là nội dung còn QHSX
là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội
dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước
còn hình thức thay đổi theo. Tất nhiên trong quan hệ với nội dung thì hình thức không
phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của LLSX,QHSX cũng hình thành và biến đổi cho
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Sự phù hợp đó là động lực
làm cho LLSX phát triển mạnh mẽ. Nhưng LLSX thường phát triển nhanh còn QHSX
có xu hướng ổn định. Khi LLSX đã phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất
cũ không còn phù hợp nữa sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương
thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển
1.3.3 QHSX tác động trở lại LLSX

Sự hình thành, biến đổi và phát triển của QHSX phụ thuộc vào tính chất

và trình độ của LLSX. Nhưng QHSX là hình thức mà LLSX dựa vào đó để phát triển,
nó tác động trở lại đối với LLSX. Có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của

6


LLSX.
Nếu QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó thúc SX phát triển
nhanh, nếu nó không phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Song sự
kìm hãm đó chỉ có tính chất tạm thời, theo quy luật khách quan thì LLSX sẽ phá vỡ
QHSX lỗi thời để xác lập QHSX mới để phù hợp với sự phát triển của LLSX.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là
quy luật chung nhất của sự phát triển của xã hội, sự tác động của quy luật này đã đưa
xã hội loài người trải qua 4 giai đoạn theo đó là sự ra đời của 4 phương thức SX.
Để chống lại thiên nhiên con người hợp nhau lại theo đó là cộng đồng xã
hội nguyên thuỷ. Công cụ bằng kim loại thay thế đồ đá, LLSX phát triển sẽ mở ra
sản phẩm thặng dư sẽ dẫn đến sự ra đời chế độ chiếm hữu nô lệ. Mâu thuẫn gay gắt
giữa nô lệ và chủ nô cho ra đời giai cấp phong kiến. LLSX dần mang nhiều yếu tố
xã hội, tô tiền thay thế cho tô hiện vật, tô lao dịch, QHSX phong kiến chật hẹp đã bị
thay thế bằng QHSX TBCN. Sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật, người dân có trí tuệ và
chuyên môn hoá cao dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa tính chất xã hội hoá ngày càng
cao của LLSX với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Để giải quyết mâu
thuẫn này đòi hỏi phải có một QHSX mới ra đời đó là QHSX XHCN. Đó chính là
phương thức sản xuất thứ năm mà loài người sẽ tiến tới.
Như vậy, quy luật QHSX phù hợp với LLSX là quy luật chung của sự phát
triển xã hội qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức SX.

7



1.4 Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX
Xu hướng của SX vật chất là không ngừng biến đổi. Sự biến đổi đó bao giờ
cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của LLSX mà trước hết là công cụ lao
động. Công cụ phát triển đến mâu thuẫn gay gắt với QHSX hiện có và xuất hiện đòi
hỏi khách quan phải xoá bỏ QHSX cũ thay thế bằng QHSX mới. Như vậy QHSX
vốn là hình thức phát triển của LLSX (phù hợp), QHSX trở thành xiềng xích trói
buộc kìm hãm sự phát triển của LLSX (không phù hợp). Phù hợp và không phù hợp
là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của LLSX. Tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn
và bao hàm mâu thuẫn.
Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với LLSX, QHSX luôn có tính độc
lập tương đối với LLSX, thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại đối với LLSX,
quy định mục đích của SX. Xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành
các yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.

8


CHƯƠNG 2 : QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ
Ở VIỆT NAM
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh phát triển SX, cải tạo và xây dựng
QHSX nhất thiết phải gắn liền với việc nhận thức và vận dụng quy luật QHSX phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
2.1 Những sai lầm về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX trước Đại hội VI.
Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giưã LLSX và QHSX
trong công cuộc xây dựng QHSX cũ và xây dựng QHSX mới chúng ta đã ra sức vận
động gần như cưỡng bức nông dân đi vào HTX, mở rộng phát triển quy mô nông
trường quốc doanh và các nhà máy xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ SX
đang còn thời kì quá thấp kém, chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là

đã có “QHSX XHCN ” và coi rằng mỗi bước cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới
đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của LLSX mới. QHSX XHCN có khả năng “vượt
trước” mở đường cho sự phát triển của LLSX. Thực tế những năm qua đã chứng
minh quan niệm đó là sai lầm, sai lầm ở chỗ một số mặt của QHSX bị thúc đẩy lên
quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của LLSX.
Đối với Việt Nam chúng ta với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu
phải cải tạo XHCN phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp nặng chỉ coi như
9


mục đích lâu dài phải tiến tới chứ không coi như một tất yếu trực tiếp phải cải tạo
ngay. Song chúng ta đã bất chấp thực tế khách quan mà chỉ dựa vào vai trò tích cực
của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà nước chuyên chính vô sản, bằng những đường
lối, chính sách và những hoạt động tích cực có thể tìm cách giải quyết tốt nhất trong
SX và đời sống xã hội, có khả năng cải tạo ra QHSX mới, mở đường cho LLSX phát
triển nhưng trên thực tế chúng ta dã không thể làm được điều đó.
Quan điểm và QHSX đi trước là không đúng. Điều này đã được Đảng và Nhà
nước ta khẳng định lại trong Đại hội VI, VII, VIII. Và gần đây nhất trong Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX một lần nữa Đảng ta đã nhấn mạnh và khẳng định lại mục
tiêu đối với sự phát triển của LLSX và của nền kinh tế nước ta : “ Từ nay đến năm
2020 ra sức phấn đấu đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. LLSX
lúc đó sẽ đạt đến trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay
thế bằng máy móc ….”
2.2 Đường lối phát triển QHSX và LLSX theo định hướng XHCN.
Qua quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra những
kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng : Một trong những nguyên nhân làm cho SX
chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là “ chưa nắm vững quy luật
QHSX phù với tính chất và trình độ phát triển của LLSX ”, từ đó Đảng ta rút ra cốt
lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn với cách mạng
QHSX với cách mạng Khoa học kĩ thuật, chú trọng việc tổ chức lại nền SX xã hội


10


để xác định những hình thức và bước đi thích hợp.
Trong thời kì quá độ lên CNXH nền kinh tế nước ta không còn là kinh tế TB
nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN
phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần.
Đại hội IX đã khẳng định “ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH,
nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng
QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt : sở hữu, quản lí, và phân phối ”.
Quán triệt quan điểm thực tiễn cơ bản và hàng đầu cảu triết học Mác – Xít thóng
nhất giữa lí luận thực tiễn của Mác – Lênin. Mục tiêu mà đại hội VIII đề ra là sự hoà
hợp cụ thể thống nhất về hình thức kinh tế xã hội. Luôn đúng đắn sáng tạo mối quan
hệ cơ bản, bản chất giữa QHSX và LLSX, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sự đổi mới phức tạp phải có khoa học soi sáng. Thực tiễn là cơ sở của lí luận Qua
thực tiễn rồi mới có cơ sở để khẳng định thành lí luận. Trong thời hiện đại mọi sự
phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học xã hội. Vì vậy, con đường
ngắn nhất để đuổi kịp các nước có nền kinh tế phát triển là phải công nghiệp hoá gắn
liền với giao thông công nghệ.
Tóm lại trong công cuộc đổi mới phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa
QHSX và LLSX hiện có để xác định bước đi phù hợp. Quy luật đó luôn được coi là
tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới trên những điều

11


kiện của LLSX. Đại hội IX đã chỉ rõ : “ Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây
dựng QHSX theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển LLSX, cải thiện

đời sống nhân dân, thực hịên công bằng xã hội ”.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện
tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ
của LLSX. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên
CNXH ”.
2.3 Phát triển LLSX và xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN.
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của LLSX
quyết định. Do vậy trong quá trình xây dựng CNXH việc phát triển LLSX xây dựng
QHSX mới là nhiệm vụ cần thiết khách quan.
2.3.1- Thực trạng nguồn nhân lực của LLSX nước ta hiện nay
Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong điều
kiện nền kinh tế mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỉ
trọng nhỏ, tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua quá xa so với các nước
trong khu vực.
Hiện nay lực lượng lao động ở nước ta tăng tự nhiên khoảng 1,2 triệu
người, trong khi tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2000 còn ở mức 6,4% và tỉ lệ thời
gian lao động được sử dụng ở nông thôn mới đạt 73,8% so với mục tiêu là 75% đang
trở thành vấn đề nổi cộm nhất hiện nay.

12


Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 đã đưa
ra dự báo và các nguồn lực lao động : Đến năm 2010 nước ta có 36,8 triệu người ở
độ tuổi lao động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000. Theo tính toán ban đầu
số lao động cần giải quyết việc làm trong 5 năm 2001 - 2005 là 15 triệu người, bao
gồm lao động mới tăng lên mỗi năm khoảng 1,2 triệu người và số lao động chưa
được giải quyết việc làm từ 5 năm trước chuyển sang trong đó ở nông thôn khoảng
12,5 triệu người, ở thành thị khoảng 2,5 triệu người.
Công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng còn nhiều

bất cập cần phải được giải quyết.
2.3.2 Một số giải pháp phát triển LLSX
Để thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng đề ra là phát triển kinh tế nhiều thành
phần làm cho xã hội công bằng văn minh, chuyển mình đi lên CNXH thì đi đôi với
việc củng cố và hoàn thiện QHSX thì nhất thiết phải phats triển LLSX.Không chỉ
dựa vào năng suất lao động của nông nghiệp mà còn phát triển mạnh cả công nghiệp
với công nghệ hiện đại, kĩ thuật cao, quan trọng hơn nữa là học thức của nhân
dân,những người lao động.
Đổi mới nước ta đi lên CNXH trong những điều kiện còn khó khăn thiếu
thốn nên điều tất yếu là chúng ta không thể nóng vội, duy ý chí đổi mới ngay LLSX
cũ bằng một LLSX tiên tiến được. Do đó, những yếu tố LLSX truyền thống vẫn cần
phải được duy trì và khai thác, cần phải được sáng tạo trong LLSX truyền thống bằng

13


những yếu tố bổ xung cho việc xây dựng LLSX hiện đại. Cần phải kết hợp các yếu
tố truyền thống với yếu tố hiện đại, bảo đảm tính phủ định có kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc cho phép tạo nên một sự phát triển ổn định, bình thường của LLSX tránh
được sự gãy gục trong tiến trình phát triển của nó.
Những tiến bộ to lớn của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay cho
phép nước ta có thể tranh thủ vận dụng trực tiếp những thành tựu khoa học, kĩ thuật
nhập khẩu TLSX hiện đại, chuyển giao công nghệ qua liên kết kinh tế và hợp tác
kinh tế với nước ngoài. Từ đó chúng ta có thể tạo nên sự kết hợp những tiến bộ về
LLSX do đó tiếp thu có chọn lọc từ bên ngoài với những cơ sở vật chất và LLSX vốn
có trong nước để đẩy mạnh và rút ngắn thời hạn phát triển lịch sử tự nhiên của LLSX,
vươn lên kịp trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Con người tham gia vào quá trình SX vừa với tư cách là sức lao động, vừa
với tư cách là con người có ý thức chủ thể của những quan hệ kinh tế, trình độ văn
hoá kĩ thuật chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đối với SX và sản

phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác kĩ thuật và tư liệu vốn có để
sáng tạo trong quá trình SX. Ăng-ghen đã nhấn mạnh : “ Muốn nâng cao sản xuất
công nghiệp và nông nghiệp đến mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới hoá và
hoá học phù hợp thì chưa đủ mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng
lực của con người sử dụng những phương tiện đó nữa.” Để tạo điều kiện cho con
người chủ động nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX,

14


điều chỉnh và hoàn thiện QHSX để thông qua đó phát triển mạnh mẽ LLSX thì đòi
hỏi phải có một cơ chế quản lí phù hợp, cơ chế theo nguyên tắc hạch toán kinh tế.
2.4 Xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN
Xây dựng QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX luôn là
yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng. Bởi vì nó biểu hiện sự lựa chọn những
hình thức, bước đi, giải pháp thích hợp với thực trạng kinh tế nước ta.
Đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất LLSX nước ta hiện nay vừa thấp
vừa không đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây dựng QHSX, một thành phần
dựa trên cơ sở chế độ công hữu về TLSX như trước đại hội VI làm như vậy là đẩy
QHSX đi quá xa so với trình độ LLSX, xây dựng năng lực sáng tạo, chủ động của
các chủ thể trong SX kinh doanh thúc đẩy SX phát triển.
Thực tiễn đổi mới những năm qua đã cho thấy chính sách kinh tế nhiều thành
phần đã góp phần giải phóng và phát triển LLSX đưa đến những thành tựu to lớn có
ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy đại hội VIII khẳng định : “ tiếp tục thực hiện nhất
quán lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp cá nhân trong nước khai
thác tiềm năng ra sức đầu tư phát triển …” trong khi thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thành phần một mặt cần phải thoát khỏi sự trói buộc của tư duy cũ, những nhận
thức không đúng trước đây đối với các thành phần kinh tế để từ đó rút kinh nghiệm,
tháo gỡ những vướng mắc để phát triển nền kinh tế theo đúng hướng.


15


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ
HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói
chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm
chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. một trong
những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mỗi đất nước đều có vị trí địa
lý, điều kiện tự nhiên và sự phân bố dân cư không giống nhau dẫn đến quan hệ sản
xuất và trình độ của lực lượng sản xuất ở mỗi vùng cũng khác nhau. Do tính đặc thù
trên nền khi quan hệ sản xuất ở một vùng, một trình độ phát triển nào đó phù hợp với
tình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kéo theo sự phát triển về kinh tế
nhanh chóng, nhưng nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, vì vậy
quan hệ sản xuất và trình đọ phát triển của lực lượng sản xuất có tác động lẫn nhau
là hai mặt của quá trình phát triển kinh tế.
3.1 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta.

Sau khi giành được chính quyền từ tay đế quốc Pháp nền kinh tế nước ta đi
lên theo nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ trình độ khoa học kém

16


phát triển, quan hệ giữa lực lượng sản xuất với trình độ sản xuất rời rạc, tẻ nhạt. Tuy

nhiên nó cũng có phần phù hợp với thời đó bởi vì nước ta không phải như các nước
bình thường khác mà nước ta là một nước tràn ngập chiến tranh. Đánh thắng đế
quốc Pháp thì giặc Mỹ lại xâm chiếm đánh phá nước ta. Thế rồi non sông về một
mối cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa với một lực lượng sản xuất lớn và tiềm năng
mọi mặt còn non trẻ đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp với nước
nhà và do đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời. Nhìn thẳng vào sự thật
chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan hệ sản
xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ khác, do
quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền
tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng
nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Không thấy rõ các bước đi có tính qui luật trên
con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh cải tạo xã
hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và
tập thể". Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn
rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân tích trên. Trên con đường
tìm tòi lối thoát của mình từ trong lòng nền xã hội đã nảy sinh những hiện tượng

17


trái với ý muốn chủ quan của chúng ta có nhiều hiện tượng tiêu cực nổi lên trong
đời sống kinh tế như quản lý kém, tham ô,... Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu
phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế - xã hội xa lạ được áp đặt
một cách chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh
và phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết về mặt này trên
thực tế chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn
giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất từ đó khắc phục những khó

khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình
thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn
thúc đâỷ sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những
đỉnh cao kinh tế trong

tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển

chủ nghĩa tư bản và luôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất. Mới
đây các nhà báo của nước ngoài phỏng vấn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng "với
một người có bằng cấp về quân sự nhưng không có bằng cấp về kinh tế ông có thể
đưa nước Việt Nam tiến lên không", trả lời phỏng vấn Tổng bí thư khẳng định rằng
Việt Nam chúng tôi khác với các nước ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì
người lính ấy phải có khả năng cầm súng và làm kinh tế rất giỏi, và ông còn khẳng
định là không chấp nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản, nhưng
không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với chủ nghĩa
tư bản trên cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh

18


tế tư bản là sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI cũng đã khẳng định không nhưng
khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cả thế mà phải phát triển
chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là
phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ.
Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt năng
suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước. Đối với thành phần
kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát
triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải có những biện pháp để cho quan hệ
sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực

lượng lao động.
3.2 Công nghiệp hoá vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng
nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá gắn chặt với hiện đại hoá,
trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hoá hiện đại hoá và muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm lực về kinh

tế con

người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất

19


đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm năng lao
động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ
của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục.
Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hoá hiện đại hoá trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một
cơ cấu các thành phần kinh tế hợp qui luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai
cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vì dân giàu nước mạnh công bằng
văn minhhãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận
thức đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
3.3 Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội cơ sở lý luận của sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Chúng ta đều biết rằng, từ trước đến nay, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là

khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế
tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, nhanh chóng đạt tời trình độ của một
nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá như là một cuộc
cách mạng toàn diện và sâu sắc. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật

20


×