Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận cao học tư tưởng hồ chí minh về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.65 KB, 19 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn
1.1. Về vai trò của nông nghiệp, nông thôn
1.1.1. Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguyên
liệu đảm bảo nhu cầu ăn, mặc, ở cho toàn xã hội
Nước ta là một nước nông nghiệp, đại đa số dân cư sống ở nông thôn,
phần lớn lao động làm nông nghiệp, bởi vậy Hồ Chí Minh luôn coi nông
nghiệp là ngành sản xuất chính, là cơ sở để phát triển kinh tế đất nước.
Trong thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, Người viết: “Việt Nam là
nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc.
Trong công cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ trông mong vào nông
dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước
ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”1.
Tiếp thu quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê Nin về
vai trò của sản xuất đối với việc giải quyết vấn đề ăn, mặc, ở, trước hết,
Hồ Chủ tịch cho rằng nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm đảm
bảo cho nhu cầu ăn, mặc, ở của nhân dân.
Về vấn đề ăn, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu nạn đói năm 1945 đã cướp đi
sinh mệnh của trên hai triệu đồng bào ta. Đây là nỗi đau lớn không bao
giờ quên đối với các thế hệ người Việt chúng ta. Muốn nâng cao đời sống
của nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề ăn (rồi đến vấn đề
mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn thì phải làm thế
nào cho có đầy đủ lương thực”2. Do vậy, Người luôn nhắc nhở các tầng
lớp nhân dân phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trồng nhiều cây lương
thực, hoa màu, phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn gà, gia cầm v.v.
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr. 215.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr. 543,544.



2


Về vấn đề mặc, Người chỉ rõ chính quyền mới phải “làm cho dân có
mặc”. Khi về thăm hợp tác xã Đại Nghĩa (Hà Đông), Người khuyến khích
bà con nông dân phải tích cực tích cực trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm để
có nhiều nguyên liệu dệt vải, dệt lụa. Khi về thăm quê hương Nghệ An,
Người lại trao đổi với nhân dân địa phương: “Đây một năm sản xuất bao
nhiêu bông? 2.000 mẫu tây được bao nhiêu tấn? 1.000 tấn bông tuy là ít,
nhưng nếu chú trọng lương thực mà không có bông thì tức là có ăn chứ
chưa có mặc”3.
Về vấn đề ở, Người cho rằng đây là một mặt của vấn đề dân sinh và là
vấn đề rất quan trọng. Người đánh giá:” Nông thôn của ta, nhà ở của đồng
bào phần nhiều đang ọp ẹp, tối tăm, chẳng ra sao, chẳng có hàng lối gì…
Khi trước, nhà nào lo làm nhà nấy, làm thế nào cũng được. Nhưng bây giờ
không phải như thế. Bây giờ mình phải đổi mới nông thôn. Nông thôn
mình phải quang đãng, sạch sẽ”4.
1.1.2. Nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành
kinh tế quốc dân khác.
Trước hết, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công
nghiệp.
Hồ Chủ Tịch thường nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp đối với công
nghiệp. Người viết: “Sản xuất nông nghiệp… cung cấp nguyên liệu, vật
liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp và cung
cấp lâm thổ sản để mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài”5.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ mối quan hệ và sự tác động
qua lại giữa nông nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Trong

mối quan hệ với công nghiệp, Người đã nói rất hình ảnh: “Người thì có
3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr. 446.
Sách đã dẫn, trang 446.
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr. 91.
4


hai chân. Kinh tế một nước thì có hai bộ phận chính: nông nghiệp và
công nghiệp. Người không thể thiếu một chân thì nước không thể thiếu
một bộ phận kinh tế”. Người còn nhấn mạnh: “Nông nghiệp không phát
triển thì công nghiệp cũng không phát triển được”6.
1.1.3. Nông nghiệp, nông thôn là thị trường tiêu thụ hàng hóa của công
nghiệp.
Nông nghiệp phát triển, nông dân sẽ có nhiều hàng hóa đưa ra thị
trường do đó lại thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Người chỉ rõ:
“Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương
nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng”7.
1.2. Về các giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
1.2.1. Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động trong nông
nghiệp
Tuy nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn khẳng định về mặt chiến lược lâu dài là phải phát triển công
nghiệp để tạo ra máy móc, phân hóa học, thuốc trừ sâu, hàng tiêu dùng cần
thiết để phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Người chỉ rõ: “Quan
trọng nhất trong đời sống nhân dân là vấn đề ăn. Để giải quyết tốt vấn đề
ăn thì sản xuất lương thực phải dồi dào. Muốn như vậy thì công nghiệp
phải giúp cho nông nghiệp có nhiều máy làm thủy lợi, máy cày, máy bừa,

nhiều phân hóa học…8” Bác nhận thức sâu sắc rằng, muốn ấm no thực sự
thì phải phát triển công nghiệp, phải công nghiệp hóa đất nước. Đời sống
nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất
một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong
nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng
lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn
có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra
6

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr. 619.
Sách đã dẫn, tập 8, tr. 174.
8
Sách đã dẫn, tập 11, tr. 532.
7


gang, thép, than, dầu v.v. Đó là con đường phải đi của chúng ta, con
đường công nghiệp hóa nước nhà.
1.2.2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, nông
thôn
Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức sở hữu ruộng đất trong nông
nghiệp
Thời kỳ 1945- 1954, là thời kỳ cách mạng tháng Tám thành công,
dân ta đã đánh đổ hai xiềng xích thực dân, giành độc lập cho dân tộc, nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa ra đời lại phải đương đầu với cuộc
chiến tranh chống thực dân Pháp lần thứ hai. Lúc này để có lương thực,
thực phẩm cung cấp cho bộ đội và để đảm bảo đời sống của nhân dân, nhất
là nông dân, Chính phủ cách mạng, rồi Chính phủ kháng chiến đã thực
hiện nhiều chính sách dân chủ đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân dân,
đặc biệt là nông dân như tịch thu ruộng đất của địa chủ thực dân và địa chủ

Việt gian chia cho nông dân không có ruộng đất hoặc có rất ít ruông đất. Ở
vùng giải phóng, Người quan tâm đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ và chăm lo đến việc cải thiện đời sống của nhân dân lao động. Người
kêu gọi nông gia ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, thực hiện
khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng”.
Trong thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan điểm
sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu đa dạng.
Theo Người, nền kinh tế dân chủ ở nước ta (vùng tự do) trong kháng
chiến chống Pháp, có các thành phần sau:
- Kinh tế địa chủ, phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội
- Kinh tế hợp tác xã (hợp tác xã tiêu thụ, hợp tác xã cung tiêu và
các hội, tổ đổi công của nông dân) có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội.
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thợ thủ công.


- Kinh tế tư bản của tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng
thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế nhà nước dân chủ.
- Kinh tế tư bản quốc gia (tư bản nhà nước, Nhà nước hùn vốn với
tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong thành phần kinh
tế này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản.Tư bản của Nhà nước là
chủ nghĩa xã hội)9.
Thời kỳ 1954-1969, Hồ Chí Minh luận giải nhiều về chủ nghĩa xã hội
nhất là tư tưởng về xây dựng nền kinh tế dân chủ. Trong đó người dân lao
động thực sự là chủ chế độ, phấn đấu để ai cũng có cơm ăn, áo mặc, có nhà
ở tử tế, ai cũng được học hành, được chữa bệnh. Đồng thời Người còn phân
tích khá nhiều về vấn đề xây dựng hợp tác xã trong nông nghiệp. Theo
Người, tiến lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải tổ chức hợp tác hóa nông
nghiệp. Cuối tháng 10 năm 1955, trong bài nói chuyện tại Hội nghị giảm tô
và cải cách ruộng đất, Người đã chỉ rõ nông thôn không chỉ dừng lại ở cải

cách ruộng đất mà”còn phải tổ chức hợp tác xã nông nghiệp “theo nguyên
tắc tự nguyện, tự giác, quản lý dân chủ và cùng có lợi, “làm cho nông
nghiệp xã hội hóa”10.
Thứ hai, quản lý và phân phối phải được tiến hành dân chủ, công
khai, minh bạch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần với
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò lãnh
đạo, làm nền tảng cho xã hội mới. Từ việc thừa nhận nhiều hình thức sở
hữu đến tất yếu thừa nhận nhiều hình thức quản lý và phân phối khác
nhau. Người viết: “Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ
việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động” . Người
cho rằng: “Một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có
9

Sđd, t.7, tr.221.
Sđd, t.8, tr.76

10


quyền lao động”11. Đó chính là cơ sở cho quan điểm dân chủ trong quản
lý kinh tế và phân phối sản phẩm lao động. Người chỉ rõ: chủ nghĩa xã
hội là công bằng hợp lý, nhưng sự công bằng và hợp lý đó phải theo
nguyên tắc: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng, những người già yếu, bệnh tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm
nom. Trên cơ sở những nguyên tắc phân phối dưới chủ nghĩa xã hội,
Người coi “chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội”.
Theo Người, “ làm khoán là ích chung và lại lợi riêng”; “làm khoán tốt
thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”12.

1.2.3. Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện
Theo Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp toàn diện là một nền nông
nghiệp:
- Có ngành trồng trọt phát triển toàn diện. Trong nghành trồng trọt cũng
phải phát triển toàn diện cả cây lương thực, cây hoa màu, cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ v.v. Người nói: “Phải hết sức phát triển
hoa màu. Chỉ có thóc, không có hoa màu thì không được.Hoa màu không
những là lương thực quý của người, mà còn dùng để chăn nuôi. Ngoài
lương thực, hoa màu Người thường xuyên nhắc nhở bà con nông dân ở
các tỉnh mỗi khi có dịp về thăm là phải dựa vào thế mạnh và điều kiện
thời tiết, thổ nhưỡng ở mỗi nơi mà trồng các lợi cây cho phù hợp như
trồng bông, chè, cà phê, lạc, vừng, trồng dâu nuôi tằm, trồng mía, thuốc
lá, cây ăn quả, cây lấy gỗ v.v. Người rất chú trọng đến phong trào trồng
cây gây rừng và phát động tết trồng cây hàng năm mỗi khi tết đến xuân
về. Về lợi ích của việc trồng cây, Bác viết: “Mỗi tết trồng được độ 15
triệu cây. Từ năm 1960 đến năm 1965…chúng ta sẽ có 90 triệu cây, vừa
cây ăn quả, cây có hoa, vừa cây làm cột nhà. Và trong mười năm, nước ta

11

Sđd, t.9, tr.23

12

Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.8, tr.341, 545.


phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu điều hòa hơn, cây gỗ đầy đủ
hơn”.
- Có ngành chăn nuôi phát triển toàn diện.

Nói về lợi ích của phát triển chăn nuôi, Người chỉ rõ: “Phải phát triển
mạnh chăn nuôi để đảm bảo có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân
bón.”.“Vì chăn nuôi kém mà phân bón ít, lại vì phân bón ít mà sản lượng
lúa và hoa màu giảm sút”13.Trong chăn nuôi, Người cũng thường nhắc
nhở phải chú trọng chăn nuôi trâu, bò, lợn.Bên cạnh đó phải chú ý chăn
nuôi dê, thỏ, gà, vịt v.v.
- Có ngành lâm nghiệp phát triển toàn diện
Không chỉ quan tâm đến trồng cây lấy gỗ ở vùng đồng bằng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm, khuyến khích nhân dân ở các vùng dân
tộc miền núi trồng rừng và bảo vệ rừng. Người nhấn mạnh: “Đồng bào
phải chú ý bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Tục ngữ có câu “rừng
vàng, biển bạc”. Chúng ta chớ lãng phí vàng mà phải bảo vệ vàng của
chúng ta”. Người còn nhắc nhở: “Phá rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì
phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí
hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”14.
- Có ngành ngư nghiệp phát triển toàn diện
Nước ta có diện tích biển rất lớn, với trên 3.000 km bờ biển, bên
cạnh đó là hệ thống sông ngòi, ao hồ dày đặc rất thuận lợi cho việc nuôi,
trồng, đánh bắt và chế biến thủy hải sản cũng như những tài nguyên khác
được khai thác từ biển. Bởi vậy, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến phát
triển kinh tế biển, nhất là phát triển ngư nghiệp và nghề làm muối. Khi
nói chuyện với nhân dân huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Người nhấn
mạnh: “Cần đẩy mạnh nghề đánh cá, nghề làm muối, nuôi dưỡng và bảo

13

Sđd, t.11, tr.149.

14


Sđd, t.10, tr.327


vệ các thứ hải sản, trân châu v.v.” 15. Nói chuyện với nhân dân xã Đại
Nghĩa (Hà Đông), Người lại khuyến khích bà con nuôi thả cá: “Cần đẩy
mạnh thả cá để cung cấp thêm thực phẩm bổ sung cho thịt, cải thiện đời
sống nhân dân. Nuôi cá cũng dễ, có nước và có công thì cá phát triển”16.
- Có các ngành nghề phụ phát triển
Đặc điểm của canh tác nông nghiệp là có tính chất thời vụ nên còn
nhiều thời gian rảnh rỗi. Hơn nữa Người Việt Nam vốn cần cù, yêu lao
động lại có bàn tay khéo léo nên việc mở mang, phát triển các nghành,
nghề phụ trong nông thôn là cực kỳ cần thiết. Nó vừa góp phần giải quyết
công ăn, việc làm tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân, vừa tạo ra
nhiều hàng hóa tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu của xã hội và xuất khẩu. Ở
nông thôn có rất nhiều nghề phụ như nghề mộc, rèn, dệt, may, thêu, mây
tre đan, đúc đồng, các nghề làm bánh trái, giò chả.v.v. Vì vậy Hồ Chí
Minh thường động viên nhân dân các địa phương phát triển nghề phụ và
kinh tế phụ gia đình. Người nói: “Miếng vườn của mỗi gia đình xã viên
và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập” và Người nhắc nhở:
“Phát triển thích đáng kinh tế phụ gia đình của xã viên”17.
- Có quy hoạch, kế hoạch phát triển
Theo Người, nền nông nghiệp phát triển toàn diện không thể là nền
nông nghiệp phát triển một cách tự phát, nhỏ lẻ, manh mún mà phải là
nền nông nghiệp phát triển theo quy hoạch, kế hoạch được xây dựng trên
cơ sở khoa học. Đó là nền nông nghiệp phải được chuyên môn hóa, hợp
tác hóa trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Người viết: “Trong
kế hoạch 5 năm còn nói đến việc bắt đầu khoanh vùng nông nghiệp. Như
nơi nào sản xuất lúa nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất lúa là
chính, nơi nào sản xuất chè nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất
chè là chính

15

Sđd, t.10, tr.354, 610
Sđd, t.10, tr.354, 610
17
Sđd, t.10, tr.352,407
16


1.2.4. Phải xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn
- Trước hết, phải quan tâm đến phát triển thủy lợi đảm bảo việc
tưới, tiêu nước kịp thời.
Nền nông nghiệp nước ta là nông nghiệp lúa nước. Bởi vậy vấn đề
thủy lợi được đặt lên hàng đầu. Từ bao đời nay, các thế hệ ông cha ta đã
rất chú trọng đến xây dựng hệ thống thủy lợi, nhất là hệ thống đê điều ở
vùng đồng bằng sông Hồng. Làm thủy lợi tốt là thực hiện tốt việc chống
hạn, chống úng, chống lụt bão v.v. Người nói: “Làm thủy lợi thì phải khó
nhọc trong vài năm để được sung sướng muôn đời” và Người còn chỉ ra
cách làm thủy lợi ở nước ta: “Làm thủy lợi cần phải kết hợp công trình
lớn với công trình vừa và công trình nhỏ; cần phải kết hợp việc giữ nước
với việc dẫn nước và việc tháo nước”18. Trong điều kiện kinh tế nước ta
còn nhiều khó khăn, tài chính thiếu thốn Người căn dặn phải biết lựa
chọn xây dựng các công trình sao cho thật hiệu quả và phải biết dựa vào
sức mạnh của quần chúng.
- Thứ hai, phải quan tâm đến phát triển điện và giao thông nông
thôn
Giao thông là mạch máu kinh tế của đất nước, phát triển giao thông
là góp phần thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế cũng như đời sống văn hóa
của nông dân và nông thôn. Người nói: “Đắp đường lớn là do Trung ương
phụ trách, Bộ Giao thông chịu trách nhiệm. Nhưng địa phương có thể làm

những đường nhỏ.Làng này qua làng khác thì xã tự động làm, nhiều xã đã
làm tốt.Nên cho đồng bào thấy rõ lợi ích của việc làm thêm đường xá”19.
- Thứ ba, phải quan tâm đến xây dựng nhà ở cho nhân dân
Tục ngữ ta có câu “có an cư mới lạc nghiệp”. Thấm nhuần tư tưởng
của Mác, con người ta trước hết phải có ăn, mặc, ở, sau đó mới học hành.
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến các vấn đề ăn, mặc, ở cho dân.
18

Sđd, t.10, tr.397
Sđd, t.11, tr.128

19


Người nhấn mạnh: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách của Đảng
đều chỉ nhằm nâng cao đời sống nhân dân nói chung, của nông dân nói
riêng”20. Vì vậy đối với nông dân ở nông thôn, Người nói: Chúng ta đang
chuẩn bị xây dựng nông thôn mới. Việc đầu tiên của nông thôn là xây
dựng nhà ở cho đàng hoàng.
- Thứ tư, phải quan tâm đến phát triển giáo dục, y tế, nâng cao trình
độ dân trí và sức khỏe cho nhân dân.
Trước hết phải xây dựng hệ thống trường học, bệnh viện, trạm xá,
nhà trẻ, nhà mẫu giáo, các công trình văn hóa ở nông thôn. Người luôn
nhắc nhở: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người”. Vấn đề này đã được Người đã trình bày ở nhiều nơi,
trong nhiều bài nói chuyện trong những giai đoạn khác nhau của cách
mạng.
1.2.5.Phải tăng cường sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước đối với
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Thứ nhất, ban hành hệ thống các chính sách hỗ trợ nông nghiệp

+ Chính sách giá cả: Người nêu ra phương châm định giá: “Giá cả
quy định là phải chăng, vừa lợi cho nhân dân, vừa lợi cho chính phủ” 21;
“Mua, bán phải theo giá cả thích đáng …Giá cả phải bảo đảm cho Nhà
nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi để xây dựng nước nhà”22. Tuy nhiên
do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và hoàn cảnh
chiến tranh nên việc định giá của chúng ta còn nhiều thiếu sót, chưa đúng
quy luật, giá cả không phản ánh đúng giá trị, dẫn tới người nông dân chịu
thiệt thòi nhiều trong sản xuất kinh doanh, kém niềm phấn khởi.
+ Chính sách thuế nông nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở việc thực hiện chính sách
thuế là phải nhằm khuyến khích sản xuất, khuyến khích tăng năng suất
20

Sđd, t.10, tr.380
Sđd, t.8, tr.422
22
Sđd, t.10, tr.414
21


lao động . Người nói: “Thuế phải khuyến khích sản xuất. Cho nên Nhà
nước chỉ thu thuế những cây trồng chính. Trồng xen kẽ được miễn
thuế.Tăng vụ chưa quá 3 năm, vỡ hoang chưa quá 5 năm, đều chưa phải
nộp thuế”23.Người còn chủ trương, sau khi kết thúc chiến tranh phải thực
hiện miễn thuế nông nghiệp một số năm cho nông dân để họ thêm niềm
phấn khởi, mát dạ, mát lòng.
+ Một số chính sách giúp đỡ, hỗ trợ khác của Nhà nước như: hỗ trợ
về vốn, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, thị trường v.v.
Chẳng hạn Nhà nước cần phải giúp vốn để xây dựng kết cấu hạ
tầng cho nông nghiệp. Bác nói: “Chính phủ phải xuất tiền xây dựng

những trường học, mời thầy để đào tạo cán bộ các ngành về nông nghiệp.
Chính phủ có trách nhiệm xây dựng những công trình thủy lợi lớn và
cùng nông dân, hợp tác xã làm những công trình thủy lợi vừa. Để phát
triển nông nghiệp, hợp tác xã phải tậu trâu bò, sắm nông cụ, mua phâ hóa
học v.v. Hợp tác xã còn nghèo, thường thường Chính phủ phải giúp đỡ,
phải cho vay vốn”24. Người còn thường xuyên nhắc nhở các ban nghành
của Đảng và Chính phủ từ Trung ương đến địa phương phải luôn quan
tâm, giúp đỡ nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Những quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng ta về phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, từ Đại hội III đến Đại hội IV, Đảng ta đã xác định công
nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và con đường công nghiệp hóa là ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý… Song do cơ chế cũ và do chiến tranh kéo dài
23

Sđd, t.10, tr.414-415
Sđd, t.10, tr.414

24


cùng với nhận thức chưa đúng về vai trò của nông nghiệp nên kinh tế
nông nghiệp của nước ta rất kém phát triển, đời sống của nhân dân, nhất
là nông dân vô cùng khó khăn.
Đến Đại hội V, Đảng ta đã nhận thức vai trò quan trọng của nông
nghiệp và chỉ rõ: “Trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80, cần tập

trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
Tại Đại hội VI, Đại hội của đổi mới, Đảng ta đưa ra những chủ
trương lớn về đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Trong nông
nghiệp, thực hiện ba chương trình mục tiêu, nhấn mạnh vai trò của nông
nghiệp trong việc đáp ứng yêu cẩu cấp thiết về lương thực, thực phẩm,
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Đại hội còn chỉ rõ: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không
được tách rời nông nghiệp với công nghiệp, không thể chỉ coi trọng nông
nghiệp hoặc công nghiệp nhưng ở mỗi giai đoạn, trong từng chặng
đường, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau. Trong chặng
đường hiện nay, phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa…”.Yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về
nguyên liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí
hàng đầu của nông nghiệp”25. Đại hội còn nhấn mạnh: “Trong những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm
1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện
cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu”26.

25

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987,
tr.48.
26
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987,
tr.20.



Trên cơ sở nhận thức ngày càng sâu sắc về tầm quan trọng của phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, Đại hội VII tiếp tục bổ sung, phát
triển và làm rõ hơn vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Đại hội VII khẳng định: “Phát triển nông lâm ngư nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh
tế xã hội”27.
Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VII), Đảng ta đã ra Nghị quyết về “Tiếp
tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”. Đến Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), lần đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm
“công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn”, coi đó là
nhiệm vụ chiến lược, có vị trí quan trọng hàng đầu. Tại Hội nghị Trung ương
VII (khóa VII) Đảng ta lại nhấn mạnh: Phải quan tâm đến công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Thực hiện những chủ trương phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn của Đảng, sau 10 năm đổi mới, kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta có những bước phát triển đáng kể. Đại hội VIII đã đánh giá
những thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của nó để đề ra
chủ trương tiếp theo phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ở Đại hội
này, Đảng ta quyết định “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, trong đó nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Văn kiện Đại hội đã chỉ ra những nội
dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
trong những năm 90 của thế kỷ XX là:
“- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng
tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản
phẩm hàng hóa nhiều vế số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về
27

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1993, tr.63.



lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến
và của thị trường trong, ngoài nước.
- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa….
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công
nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công
nghiệp ở đô thị .
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề
mới bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi
nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của nhân
dân. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông
thôn mới văn minh, hiện đại”28.
Đại hội VIII còn chỉ rõ: “Hoàn thành về cơ bản việc giao đất,
khoán rừng cho hộ nông dân. Điều chỉnh việc phân bổ vốn và huy động
thêm nhiều nguồn vốn cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế
nông thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây
dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về
vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ
sản phẩm”29.
Đại hội IX của Đảng ra chủ trương “Tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại nông nghiệp, nông thôn”.Các văn kiện Hội nghị
Trung ương, nhất là Hội nghị Trung ương V thể hiện rất rõ quan điểm
này. Văn kiện Nghị quyết Trung ương V (khóa IX) làm rõ hơn nội dung
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn.
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn
28


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.87
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.87-88.

29


với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí
hóa, thủy lợi hóa , ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trước hết
là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các
khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. “Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch
phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công
bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân ở nông thôn”30.
Đại hội X tiếp tục khẳng định chủ trương: “Đẩy mạnh hơn nữa
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng
bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phải phát triển toàn
diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi
hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản
xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc
điểm từng vùng, từng địa phương. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch
phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới ;
xây dựng các làng, xã, thôn, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi

trường lành mạnh; hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với
xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí; chuyển dịch cơ cấu
lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông
30

Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khóa IX, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2002, tr.9394


nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện
để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể
cả ở nước ngoài”31.
Từ những quan điểm cơ bản trong các Văn kiện của Đảng ở các kỳ
Đại hội, chúng ta nhận thấy có sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức
và trong hành động của Đảng ta. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn ngày càng đầy đủ, ngày càng
hoàn thiện và rõ nét hơn. Chính vì vậy từ khi”Đổi mới” đến nay, nền kinh
tế nước ta nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng có sự
tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ. Nó đã góp phần thực hiện tốt mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của
Đảng ta.
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Trước hết, cần tuyên truyền, phổ biến tư tưởng Hồ Chí Minh và
những chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhằm nâng cao
nhận thức của cán bộ, nhân dân về tầm quan trọng, vị tri, vai trò của nông
nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trong đó, cần tập trung vào

những vấn đề sau:
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến và gắn với nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới.
- Áp dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học nhằm
tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học
và ứng dụng những thành tựu khoa học về nông nghiệp, nông thôn.Tăng
31

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.29-30.


cường hoạt động của các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư.
- Tiếp tục đẩy mạnh điện khí hóa, thủy lợi hóa, cơ khí hóa, cơ giới
hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn góp
phần nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng
hóa nước ta.
- Tiếp tục kết hợp phân công lao động với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp, nông thôn. Kết hợp có hiệu quả các loại cơ cấu: vùng,
ngành và thành phần kinh tế nhằm khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả các
nguồn lực của đất nước.
- Phát triển hợp lý công nghiệp chế biến các sản phẩm của nông
nghiệp nhằm sử dụng nguyên liệu tại chỗ, tạo thị trường cho nông nghiệp,
nông thôn.
- Phát triển tiểu, thủ công nghiệp và các ngành, nghề, làng nghề
truyền thống nhằm tạo công ăn việc làm và hàng hóa đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển các loại hình du lịch, dịch vụ trong nông nghiệp, nông
thôn.
- Tăng cường đầu tư xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tếxã hội cho nông nghiệp nông thôn: đáp ứng nhu cầu về điện, nước cho sản

xuất và tiêu dùng, phát triển hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống
thông tin liên lạc, đặc biệt là internet. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và
nhân lực cho phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao nhằm xây
dựng nông thôn mới văn minh , hiện đại.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu đa dạng trong nông nghiệp,
nông thôn. Trong đó, nêu cao vai trò định hướng, giúp đỡ, hỗ trợ của kinh tế
Nhà nước.Khuyến khích phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức trên
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, tiến dần từ thấp đến cao. Giúp


đỡ về vốn, khoa học, thị trường, tư vấn pháp lý cho kinh tế tư nhân bao gồm
(cá thể,tiểu chủ, tư bản tư nhân) để họ kinh doanh đúng pháp luật, có hiệu
quả, đứng vững trong cơ chế thị trường.
Thứ tư, tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối
với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Nhà nước và chính quyền các cấp cần phải có quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nhằm tránh tình trạng phát triển tự phát,
manh mún, không hiệu quả và khó áp dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác nông
nghiệp như hiện nay.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ phù
hợp với thông lệ quốc tế và những quy định của WTO cũng như của các
Tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế mà nước ta tham gia nhằm tạo điều
kiện và môi trường để phát triển và hợp tác kinh doanh với nước ngoài.
- Xây dựng và ban hành các chính sách phát triển và chính sách hỗ
trợ đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nhất là nhân dân
ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc và các gia đình thuộc diện chính
sách xã hội.
- Sử dụng có hiệu quả các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng, ngân
hàng và các quỹ dự trữ quốc gia cũng như lực lượng kinh tế của Nhà

nước nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và
nông dân.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Một mặt, Nhà nước tăng cường
đầu tư ngân sách nhằm xây dựng hệ thống các trường từ phổ thông đến các
trường dạy nghề, trường trung học cao đẳng và đại học đáp ứng yêu cầu của
nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Mặt khác, phải thực hiện xã hội hóa giáo dục
nhằm tăng cường năng lực cũng như cơ sở vật chất phục vụ công tác đào
tạo.Xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đáp
ứng nhu cầu đào tạo. Đổi mới phương pháp dạy - học cùng với việc xây dựng


hệ thống chương trình, giáo trình tài liệu tiên tiến, phù hợp với thực tiễn của
đất nước và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Gắn đào tạo với sử dụng và thực
hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ phục vụ nông nghiệp, nông thôn.



×