Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

tóm tắt luận văn thạc sỹ tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.33 KB, 33 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HÀ
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành Luật hình sự
Mã số: 60 38 40
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trịnh Quốc Toản

Hà Nội 2013

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
trung thực và tin cậy. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩ vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc Gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại Học Quốc Gia Hà
Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hà


MỤC LỤC
Trang
2


Trang phụ bìa Mục lục
Lời cam đoan

Danh mục bảng

Danh mục từ viết tắt Danh mục biểu đồ

MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM
QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về tín dụng, các loại hình tổ chức tín dụng và hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự Việt Nam
1.3. Nghiên cứu so sánh với pháp luật hình sự của một số nước quy định tội vi
phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
Kết luận chương 1
Chương 2. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và đường lối xử lý hình sự đối với tội vi phạm
quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng theo Điều 179
BLHS năm 1999
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vi phạm quy định về cho vay trong

hoạt động của các tổ chức tín dụng
2.1.2. Đường lối xử lý đối với tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng
2.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng với một số tội phạm khác
2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng trong BLHS năm 1999
3


2.3.1. Phân tích, đánh giá hoạt động xét xử của tòa án các cấp về tội vi phạm quy
định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
2.3.2 Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về tội vi phạm
quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy
định về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
Kết luận chương 2
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI
PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG
3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn các quy định của pháp luật về tội vi phạm quy
định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và nâng cao hiệu quả áp
dụng
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về tội vi phạm quy định
cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội vi phạm
quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TCTD

Tổ chức tín dụng

BLHS

Bộ luật hình sự

CBNV

Cán bộ nhân viên

NH

Ngân hàng

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại


HDTD

Hợp đồng tín dụng

DN

Doanh nghiệp

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

KT-XH

Kinh tế - xã hội

5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay các hoạt động tín dụng đang diễn ra mạnh mẽ bởi sự biến
động không ngừng của thị trường tín dụng do vậy pháp luật hiện hành chưa
kịp thời để điều hỉnh các quan hệ này mặc dù đã có hàng loạt các văn bản
pháp lý được ban hành như: Luật tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng, Bộ luật
hình sự… Tuy nhiên, các văn bản này chủ yếu quy định về cách thức tổ chức
6



và hoạt động của các tổ chức tín dụng mà chưa quy định cụ thể về trách
nhiệm pháp lý cụ thể đối với từng hành vi vi phạm trong hoạt động tín dụng.
Việc ban hành các quy định mới phù hợp để ngăn ngừa và điều chỉnh các vi
phạm trong hoạt động cho vay là vấn đề cấp bách và cần được quan tâm trong
tình hình tội phạm ngày càng tăng và phức tạp như hiện nay. Vì vậy, tác giả
chọn vấn đề “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng trong Luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu
Hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động tín dụng cho đến
nay vẫn là mới chưa được nghiên cứu nhiều trong các công trình nghiên cứu
khoa học. Trên thực tế chưa có công trình cụ thể nào đi sâu nghiên cứu quy
định của Luật hình sự về “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng trong Luật hình sự Việt Nam”. Tác giả lựa chọn
nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ các quy định của Luật hình sự và đưa
các giải pháp kiến nghị phù hợp về việc phòng chống, ngăn ngừa tội phạm
xảy ra trong lĩnh vực tín dụng trong tình hình hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự và thực trạng tình hình của “Tội vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng” để đưa ra các giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: quy định của pháp luật hình
sự về “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng.”

7


- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề

liên quan đến “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng dưới góc độ Luật hình sự.”
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 179 BLHS năm 1999, đồng thời nó có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng nói
riêng.
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân
tích và so sánh, phương pháp liệt kê.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương với các nội dung như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong Luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Tội vi phạm về quy định cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của luật hình sự về tội vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO
VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm về tín dụng, các loại hình tổ chức tín dụng và hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng và các loại hình tổ chức tín dụng
Có nhiều quan điểm khác nhau về tín dụng. Theo quy định tại Điều 4 Luật
các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010 thì Tổ chức tín dụng được hiểu “là
doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ
chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức
tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.” [23]:
Các loại hình tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân hàng; Tổ chức tín dụng phi
ngân hàng; Tổ chức tài chính vi mô; Quỹ tín dụng nhân dân. Trong các loại
hình này có thể nhận thấy trong hoạt động tín dụng thì chỉ có loại hình ngân
hàng là hoạt động liên quan trực tiếp đến các hoạt động cho vay, nhận tiền
gửi, tỷ giá hối đoái,… là hoạt động mà xảy ra nhiều tranh chấp và vi phạm
hơn cả so với các loại hình tín dụng khác do chức năng mà nó được thực hiện
theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
Cho vay theo nghĩa chung là việc 1 người thỏa thuận để cho người khác
được quyền sử dụng tài sản của mình trong 1 thời gian nhất định với điều kiện
có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người đó.
9


Theo Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban
hành kèm quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước), tại điều 3 khoản 1“Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó Tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản
tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Theo giáo trình Luật ngân hàng của Nhà xuất bản “Cho vay là một hiện
tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài người có tình trạng

tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo nghĩa chung
nhất được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác đươc quyền
sử dung tài sản của mình (vật cùng loại) trong một thời hạn nhất định với
điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người
đó”[24].
Cho vay trong các tổ chức tín dụng được phân loại thành nhiều hình
thức vay khác nhau như: cho vay dựa vào thời hạn vay; cho vay dựa vào tính
chất có bảo đảm của khoản vay; cho vay dựa vào mục đích sử dụng vốn vay;
việc phân loại cho vay của TCTD có ý nghĩa quan trong cả về lý luận và thực
tiễn. Điều đó thể hiện ở chỗ dựa vào kết quả phân loại cho vay mà các nhà
làm luật có thể xây dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động
thực tiễn nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng. Mặt khác cũng dựa trên kết quả
phân loại cho vay mà mỗi TCTD có thể xây dựng, hoạch định cho mình chiến
lược kinh doanh phù hợp , mang tính khả thi và hiệu quả. Đặc biệt việc phân
loại cho vay còn giúp cho các TCTD ở cơ sở lý luận để xây dựng thành các
quy tắc kỹ thuật nghiệp vụ tương thích với từng loại hình nghiệp vụ cho vay
nhằm phục vụ cho việc triên khai các hoạt động cho vay của mình trong thực
tiễn. Theo các hoạt động ở trên và với tính chất của các hoạt động này thì
pháp luật hình sự đã hình sự hóa việc vi phạm các quy định về những hoạt
10


động này sẽ bị coi là vi phạm pháp luật hình sự và bị xử lý theo quy dịnh của
BLHS Việt Nam 1999. Dưới đây là các hành vi mà bị coi là vi phạm luật hình
sự và bị pháp luật cấm trong hoạt động của các TCTD:
a) Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật;
b) Cho vay quá giới hạn quy định;
c) Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt
động tín dụng.
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội vi phạm quy định

về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự
Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của cá tổ chức tín dụng
có thể được hiểu là việc cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động được giao
nhiệm vụ cho vay đã làm sai, làm trái quy định mà tổ chức đã đề ra gây ảnh
hưởng, thiệt hại đến hoạt động của tổ chức.
Việc quy định tội phạm này như hồi chuông cảnh tỉnh cho các đối
tượng vi phạm rằng mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý theo quy định của pháp
luật và hành vi vi phạm quy định cho vay sẽ bị xử lý bằng chế tài nặng nhất
trong hệ thống pháp luật Việt Nam đó là bằng pháp luật hình sự. Chính vì
vậy, nó có ý nghĩa giáo dục và ngăn ngừa các hành vi vi phạm.
1.3. Nghiên cứu và so sánh với pháp luật hình sự của một số nước
quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng
So với pháp luật của một số quốc gia khác như: Lien Bang Nga,
Canada, Cộng Hòa Bungari thì pháp luật Việt Nam quy định nhiều hơn về
hành vi vi phạm trong hoạt động cho vay của các tổ chức hình sự bằng các
“hình sự hóa” hành vi này nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Còn việc xử lý vi
phạm hành chính chỉ được áp dụng khi hành vi đó chưa đến mức bị coi là
hành vi phạm tội và bị xử lý bằng phạt tiền hay một số hình thức khác. Còn ở
11


pháp luật của các nước thì phạt tiền là hình phạt chủ yếu khi thực hiện hành vi
vi phạm, trong Luật hình sự của các nước hầu như chỉ quy định về hành vi
phạm tội nếu có sự gian lận, hay lừa dối từ cả hai bên tham gia hoạt động này.
Còn ở pháp luật hình sự Việt Nam thì điều luật được áp dụng chỉ cho một bên
là tổ chức tín dụng. Đây là sự khác biệt lớn giữa pháp luật của Việt Nam với
pháp luật của một số nước trên về cách thức xử lý đối với tội phạm trong hoạt
động tín dụng.
Kết luận chương 1:

Hoạt động cho vay của các TCTD là hoạt động quan trọng trong lĩnh
vực tài chính, tiền tệ, quan hệ cho vay cũng rất đặc biệt và ngày càng đa dạng
cùng với sự phát triển kinh tế thị trường hiện nay, hoạt dộng cho vay diễn ra
ngày càng sôi động và diễn biến ngày càng phức tạp. Nghiệp vụ cho vay là
hoạt động kinh doanh chủ yếu của các TCTD đặc biệt là của các NHTM, cũng
là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho các TCTD. Để thực hiện nghiệp
vụ này TCTD sử dụng phần lớn là số vốn mà ngân hàng huy động được từ
nền kinh tế để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế thông qua hình thức
cho vay để hỗ trợ đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận hoặc cho các cá
nhân tổ chức có nhu cầu vay. Trong nền kinh tế thị trường, cho vay là chức
năng kinh tế cơ bản của TCTD. Đối với các hầu hêt các TCTD đặc biệt là các
ngân hàng, dư nợ tín dụng chiếm tới hơn 50% tổng tài sản có và thu nhập từ
hoạt động cho vay chiếm khoảng từ ½ đến 2/3 tổng thu nhập của TCTD. Mặt
khác rủi ro trong hoàt động cho vay có xu hướng tập chung chủ yếu vào danh
mục cho vay. Khi TCTD rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng,
thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động cho vay của TCTD, viêc
TCTD không thu hồi đươc vốn, có thể là do TCTD buông lỏng quản lý, cấp
tín dụng không minh bạch, áp dụng một chính sách tín dụng kém hợp lý, hay

12


do nền kinh tế đi xuống không lường trước hay do nguyên nhân chủ quan từ
phía hach hàng …
Chính vì vậy hoạt động này được điều chỉnh bởi các quy định của pháp
luật chuyên ngành và pháp luật hình sự thông qua ba hình thức thực hiện theo
đó nếu chủ thể vi phạm ba hình thức đó thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự
về hành vi vi phạm của mình. Pháp luật có quy định cụ thể về các TCTD, hoạt
động của các TCTD đặc biệt là hoạt động cho vay của các TCTD để có cơ sở
tiến hành các hoạt động cũng nư phát hiện sai phạm. BLHS năm 199 tại Điều

179 đã quy định các hành vi được coi là vi phạm pháp luật hình sự trong hoạt
động cho vay của TCTD là cơ sở pháp lý để có biện pháp xử lý đúng đắn khi
có sai phạm. Đường lối xử lý tội phạm được quy định cả về mặt hành chính
và hình sự, tùy từng mức độ và trường hợp vi phạm chủ thể sẽ bị áp dụng biện
pháp xử lý theo quy định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hoặc có thể
bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự. Dù biện pháp xử lý áp dụng theo
hình thức nào thì kết quả cuối cùng là nhằm răn đe, ngăn chặn và phòng ngừa
tội phạm nhằm đảm bảo kinh tế, chính trị xã hội đặc biệt đảm bảo hoạt động
và thúc đẩy các TCTD đáp ứng nhu cầu kinh tế thị trường. So với pháp luật
của một số quốc gia trên thế giới thì pháp luật Việt Nam cũng đã có những
điểm tiến bộ đáng kể về việc quy định trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi
tham gia hoạt động cho vay này thông qua các quy định chuyên ngành và quy
định của pháp luật hình sự.
Chương 2
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

13


2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và đường lối xử lý hình sự đối
với tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng theo Điều 179 BLHS năm 1999
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vi phạm quy định về
cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng theo Điều 179 BLHS
năm 1999
Theo quy định tại Điều 179 của BLHS 1999 thì “Người nào trong hoạt
động tín dụng mà có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm
trọng, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt

tù từ một đến bảy năm:
a) Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật;
b) Cho vay quá giới hạn quy định;
c) Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt
động tín dụng.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm
đến mười hai năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc liên quan đến hoạt động tín dụng từ một năm đến
năm năm.” [22]
* Khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm đến chế độ quản lý
nhà nước trong lĩnh vực tín dụng, xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, lợi ích
hợp pháp của các nhân.Khách thể này được nhà nước bảo vệ và có dường lối
xử lý nghiêm minh bởi nó liên quan đến tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, của Nhà nước. [1]

14


* Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt
bên ngoài của tội phạm, gồm có hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và
hậu quả do hành vi này gây ra; các dấu hiệu khác.
*Chủ thể của tội phạm: Người thực hiện hành phạm tội này là cá nhân
đủ độ tuổi luật định, có năng lực trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi
vi phạm các quy định về hoạt động cho vay của ngân hàng. Đối với một số tội
thì người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội có thể là bất cứ cá nhân nào
không phân biệt ngành nghề, giới tính,… đối với một số tội khác thì chỉ có

những người đặc biệt mới có thể thực hiện các hành vi phạm tội trong lĩnh
vực, trường hợp đặc trưng đó như người lái máy bay, người điều khiển tàu
biển hoặc là người có chức vụ, quyền hạn,...
* Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên
trong của tội phạm, gồm có các dấu hiệu lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
[37]. Động cơ và mục đích phạm tội khi thực hiện hành vi vi phạm quy định
về cho vay trong hoạt động của ngân hàng không phải là dấu hiệu bắt buộc để
xem xét có phạm vào tội quy định trong BLHS 1999 hay không. Tuy nhiên,
thực tế khi xem xét đến các vụ án xét xử CBNV liên quan đến hành vi vi
phạm này thì động cơ vụ lợi cá nhân nhằm được hưởng lợi từ hoa hồng, phần
trăm (%) hoặc lại quả từ khách hàng vay vốn là chính, ngoài ra, cũng có thể là
động cơ khác như nể nang, giúp đỡ hoặc do là bạn bè, quen biết…còn động
cơ, mục đích phá hoại chính sách kinh tế, tài chính của Nhà nước hoặc mục
đích là phá hoại ngân hàng trên thực tế khó có thể xảy ra. Chủ thể vi phạm
chủ yếu vì mục đích tư lợi mặc dù biết việc vi phạm sẽ bị truy tố theo quy
định của pháp luật hình sự nhưng vẫn làm để thu lại được lợi ích cho chính
bản thân chủ thể. Trong một số trường hợp họ cuãng có thể bị truy tố do hỗn
hợp lỗi.
15


2.1.2. Đường lối xử lý tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng
Đã được hình sự hóa trong BLHS năm 1999 tại Điều 179 với nội dung
là “tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng”[20]. Việc quy định đường lối xử lý này được căn cứ theo quy định tại
Điều 8- phần chung của BLHS 1999 về tội phạm [20]. Việc xác định mức
thiệt hại theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn về việc áp dụng một số
quy định tại Chương 14 “Các tội xâm phạm sở hữu” [33] của BLHS 1999 để
truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngoài các quy định về xử lý hình sự thì việc vi phạm quy định cho vay
của các tổ chức tín dụng có thể bị xử lý theo quy định của pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002 được sửa đổi bổ sung 2008 [4]. Bên cạnh đó pháp luật
dân sự cũng có quy định về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền đòi lại tài
sản nếu bị chiếm đoạt của chủ sở hữu [22]
2.2. Phân biệt tội vi phạm về quy định cho vay trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng với một số tội khác
2.2.1 Phân biệt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139-BLHS)
So với tội vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng thì cả hai tội này đều giống nhau ở việc thực hiện hành vi với
lỗi cố ý, người phạm tội bất chấp các quy định của pháp luật để thực hiện cho
bằng được hành vi của mình nhằm thu lợi bất chính. Tuy nhiên, chủ thể thực
hiện hành vi lại khác nhau, khách thể, hình phạt cũng khác nhau. So với tội vi
phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng thì cả hai tội
này đều giống nhau ở việc thực hiện hành vi với lỗi cố ý, người phạm tội bất
chấp các quy định của pháp luật để thực hiện cho bằng được hành vi của mình
nhằm thu lợi bất chính. Tuy nhiên, chủ thể thực hiện hành vi lại khác nhau, ở
16


tội vi phạm quy định cho vay của TCTD thì chủ thể thực hiện là người có
trách nhiệm cho vay trong các TCTD nghĩa là những người có quyền thực
hiện hoạt động này mà cố ý làm sai trái để thu lợi bất chính. Còn đối với tội
lừa đảo chủ thể có thể là bất kỳ ai vì muốn chiếm đoạt tài sản mà dùng thủ
đoạn gian dối để thực hiện. Mặt khác tội vi phạm về quy định cho vay chủ
yếu xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, đến tài sản, lợi ích
hợp pháp của cả Nhà nước, còn tội lừa đảo xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Do
vậy đường lối xử lý đối với mỗi loại tội khác nhau. Đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản do tính chất và mức độ gây thiệt hại lớn nên hình phạt đối với tội
này ở mức cao nhất là tử hình còn đối với tội vi phạm các quy định cho vay

thì hình phạt cao nhất cũng chỉ là hình phạt tù. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi
lẽ thiệt hại do tội lừa đảo gây ra không chỉ là thệt hại về tài sản mà còn gây
thiệt hại đến đời sống con người,…
2.2.2 Phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều
140-BLHS)
Cũng giống như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì tội lạm dụng tín
nhiệm cũng có thủ đoạn "gian dối" và hành vi "tự nguyện giao tài sản" (dựa
trên sự tín nhiệm) của nạn nhân. Tuy nhiên, thời điểm xuất hiện thủ đoạn gian
dối là khác nhau. Khác nhau về chủ thể thực hiện hành vi phạm tội; khung và
mức hình phạt. Theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm gây ra thì pháp
luật hình sự cũng quy định khung và mức hình phạt riêng cho mỗi loại tội.
Với hành vi phạm vào tội quy định tại Điều 179 BLHS 1999 được quy định
cụ thể và trực tiếp là: Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật;
Cho vay quá giới hạn quy định; Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật
về cho vay trong hoạt động tín dụng, động cơ phạm tội không được coi là dấu
hiệu phạm tội bởi người phạm tội đã không tuân thủ các quy định pháp lý về
cho vay thông qua đó để nhằm hưởng lợi như: hưởng hoa hồng, phần trăm
17


hay lợi ích nào đó mà bên kia dành cho hoặc từ hành vi của mình nhưng
không có mục đích chiếm đoạt. Do vậy khung hình phạt áp dụng đối với tội
lạm dụng tín nhiệm cũng cao hơn, khung hình phạt cao nhất là tù chung thân
(Điều 140). Hình phạt tiền cũng áp dụng ở mức cao hơn so với tội vi phạm
quy định cho vay bởi quan hệ mà nó xâm phạm là quan hệ sở hữu.
2.2.3 Phân biệt với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản của Nhà nước (Điều 144-BLHS)
Điểm khác biệt lớn đó là yếu tố Lỗi trong việc thực hiện hành vi. Các CBNV
ngân hàng bị truy tố về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản của ngân hàng khi thực hiện hành vi của mình là lỗi vô ý, chứ không

phải do lỗi cố ý như Tội phạm Điều 179. “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” quy định tại Điều 144 BLHS 1999
lại là tội mà trên thực tế các CBNV ngân hàng dễ bị xem xét và truy cứu trách
nhiệm hình sự nhất, mặc dù điều luật đọc lên không có một từ ngữ nào liên
quan đến cán bộ ngân hàng hay hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
Điểm khác biệt hứ hai là về động cơ và mục đích phạm tội: động cơ và mục
đích của CBNV ngân hàng khi thiếu trách nhiệm trong việc quản lý tài sản
ngân hàng gây thiệt hại nghiêm trọng phải khẳng định là KHÔNG, tuy nhiên,
động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc để xem xét có phạm vào
tội quy định tại điều 144 BLHS 1999. Thực tiễn có thể khẳng định, trong các
vụ án xét xử CBNV ngân hàng liên quan đến hành vi thiếu trách nhiệm gây
thiệt hại đến tài sản của ngân hàng thì đều KHÔNG có động cơ vụ lợi hay
mục đích cá nhân, đơn thuần chỉ là không hiểu hết trách nhiệm, không lường
trước được hậu quả và sự nghiêm trọng trong việc thực hiện hoặc không thực
hiện hành vi nào đó theo quy định gây ra thiệt hại và bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Còn đối với tội được quy định tại Điều 179 thì người phạm tội có
động cơ, mục đích rõ ràng trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
18


2.2.4 Phân biệt với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản
lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165-BLHS)
Sự khác nhau lớn nhất đó là khách thể của tội phạm là sự xâm phạm
chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước. Chủ thể của tội phạm là người có
thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Mặt chủ quan của tội phạm lỗi cố
ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp, có thể là lỗi cố ý gián tiếp. Mặt khách quan của
tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau: Hành vi khách quan là hành vi
làm trái (tức là làm không đúng không đầy đủ) các quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế. Hậu quả do tội phạm gây ra xâm phạm trực tiếp đến tài sản
của Nhà nước.

2.2.5 Phân biệt với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
(Điều 285 – BLHS)
Chủ thể của tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” cũng
được coi là chủ thể đặc biệt. Đối với tội phạm này, trách nhiệm của người
phạm tội là trách nhiệm gián tiếp đối với hậu quả xảy ra (hành vi thiếu trách
nhiệm không phải nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng). Đây
là điểm khác biệt so với Tội phạm quy định tại Điều 179, bởi chủ thể thực
hiện hành vi không phải là chủ thể đặc biệt và người thực hiện hành vi phạm
tội phải chịu trách nhiệm trực tiếp về hậu quả mình gây ra. Do đó các quy
định về trách nhiệm hình sự đối với từng loại tội phạm cũng khác biệt.
2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về tội vi phạm quy định về cho
vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong BLHS năm 1999
2.3.1. Phân tích, đánh giá hoạt động xét xử của Tòa án các cấp về
áp dụng các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng trong BLHS năm 1999
Tòa án nhân dân tối cao đã có báo cáo thống kê về tình hình số vụ án
của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong đó bao gồm tội vi phạm
19


quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD trên địa bàn cả nước từ
năm 2007 đến năm 2012 như sau:
1.2. Báo cáo thống kê thụ lý giải quyết vụ án sơ thẩm từ năm 2007-2012:
Số bị cáo
(người)

Năm

Các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh

tế (vụ án)

Tội vi phạm quy
định cho vay
trong hoạt động
của các TCTD
(vụ án)

2007

67

1

1

1.5 %

2008

108

0

0%

2009

2.333


3

0
7

Tỷ lệ (%)

3.0%

21
2010
3.123
14
4.4%
11
2011
1.724
8
4.6%
5
2012
121
3
2.4%
(Nguồn: Báo cáo thống kê thụ lý, giải quyết vụ án hình sự sơ thẩm - Tòa Án
nhân dân tối cao)
Trong tình hình hiện nay, tội phạm này ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp
hơn. Tuy nhiên do một số nguyên nhân dẫn đến tội phạm ẩn nhiều hơn. Hiện
nay các vụ việc liên quan đến vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động
của các tổ cstins dụng xảy ra rất nhiều, hàng loạt các chi nhánh ngân hàng bị

thiệt hại do hành vi làm sai, làm trái của các cán bộ nhân viên cùng với việc
nhiều vụ việc mà nhân viên ngân hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tuy nhiên, việc phát hiện và xử lý còn nhiều hạn chế, vụ án được đưa ra xét
xử còn chưa nhiều.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định
về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng
Thứ nhất, thực tiễn thi hành quy định của BLHS về tội vi phạm quy
định về cho vay của các tổ chức tín dụng còn nhiều hạn chế và bất cập. Quy
20


định tại Điều 179 còn chưa rõ ràng dễ gây nhầm lẫn với các quy định khác
của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Thứ hai, tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng là loại tội mới, chỉ mới diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần
đây. Do vậy việc phát hiện và xử lý tội phạm còn gặp nhiều khó khăn bởi
chưa có nhiều quy định để xử lý tội phạm phù hợp.
Thứ ba, việc điều tra, xác minh tội phạm về vi phạm quy định cho vay
chưa triệt để, dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc không chứng minh được tội phạm.
Vì đây là loại tội phạm mới chỉ xảy ra trong những năm gần đây cùng với sự
phát triển của nền kinh tế và sự ra đời ồ ạt của các TCTD cũng như việc mở
cửa thị trường với các quy định mở hơn của ngân hàng nhà nước. Đồng thời
chưa có nhiều vụ án được đưa ra xét xử về lọa tội phạm này nên quá trình
điều tra, truy tố, xét xử còn chưa cân xứng.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng
Một là, do các TCTD không công khai, báo cáo các sai phạm của tổ
chức. Do vậy, tội phạm không được xử lý, không được phát hiện theo đúng

quy định pháp luật.
Hai là, các quy định của pháp luật về tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các TCTD chưa rõ ràng, chưa đầy đủ. Vấn đề này dế hiểu
bởi chính các cơ quan này đã không hiểu rõ được các quy định của pháp luật
hình sự đối với loại tội phạm này nên khi tội phạm xảy ra thì hị lung túng
không biết nên áp dụng và xử lý như thế nào cho phù hợp
Ba là, do lỗ hổng của pháp luật về hướng dẫn thi hành các quy định về
tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và
thiếu cơ chế giám sát hoạt động của các TCTD
21


Kết luận chương 2:
Qua việc phân tích thực tiễn áp dụng quy định điều 179 BLHS cũng
như thực trạng xét xử về tội vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của
các TCTD thấy rằng mặc dù đã bước đầu có những vụ án được đưa ra xét xử
nhưng chưa nhiều, việc áp dụng quy định về tội cho vay trong hoạt động của
các TCTD còn một số tòn tại và hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trong tình hình kinh tế phát triển như hiện nay, các hoạt động cho vay của
các TCTD diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các vụ vi phạm cũng ngày càng nhiều
và được đang tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, hàng loạt vụ vỡ nợ
tín dụng xảy ra. Bên cạnh tín dụng của nhà nước thì các hoạt động tín dụng
đen cũng đang ngấm ngầm diễn ra với nhiều ưu đãi cho người vay với thủ tục
dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện cho người đi vay. Phải chăng hoạt động này
là do pháp luật còn có nhiều kẽ hở dẫn đến những hệ lụy to lớn đối với thị
trường tài chính, tiền tệ. Do vậy đòi hỏi cần phải có những quy định chặt chẽ
hơn nữa về hoạt động cho vay tín dụng để đảm bảo sự minh bạch, thuận tiện
cho các bên trong quan hệ cho vay. Để xây dựng được khung cơ sở pháp lý
cho các bên tạo ra niềm tin và uy tín của các TCTD thúc đẩy hoạt động cho
vay góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đất nước. Do vậy, nhu cầu

hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động cho vay nói chung và
hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự nói riêng đang là vấn đề cấp bách,
cần thiết đặc biệt trong tình hình kinh tế nhiều biến chuyển như hiện nay.

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI
22


PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
TỔ CHỨC TÍN DỤNG
3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về tội
vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và
nâng cao hiệu quả áp dụng
Việc ban hành các văn bản pháp luật chuyên ngành là cơ sở pháp lý
quan trọng trong việc áp dụng quy định về cho vay trong hoạt động của các
TCTD. Đồng thời việc hình sự hóa quy định tại Điều 179 là cơ sở pháp lý
quan trọng trong việc xử lý người phạm tội, là cơ sở để cơ quan có thẩm
quyền áp dụng khi có hành vi liên quan đến tội phạm này. Việc hình sự hóa
loại tội phạm này có ý nghĩa tích cực trong việc phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định về mặt pháp lý và
các quy định của pháp luật hiện hành về các quy định về cho vay trong hoạt
động của các TCTD. Cụ thể:
Thứ nhất: Đối với hành vi cho vay không có tài sản bảo đảm trái quy
định pháp luật. Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm khoản vay còn nặng tính
chủ quan chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mang tính áp dụng chung cho các
TCTD.
Thứ hai: Đối với hành vi cho vay quá giới hạn quy định. Bản thân thuật
ngữ “quá giới hạn quy định” cũng đang gây ra nhiều ý kiến tranh cãi. Trên

thực tế chưa có văn bản quy định rõ ràng về cơ chế kiểm soát giới hạn cho
vay ngoài quyết định 1627/2001 của Thống đốc ngân hàng nhà nước.
Thứ ba: Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong
hoạt động tín dụng. Thông thường hành vi này sẽ có biểu hiện ở một số tình
huống thực tế như: thẩm định hồ sơ cho vay không chính xác hoặc trái thẩm
quyền; thẩm tra và định giá tài sản bảo đảm không đúng, không chính xác;
thực hiện việc thẩm định hồ sơ cho vay, đánh giá, định giá tài sản bảo đảm
23


không tuân thủ theo quy trình mà tổ chức tín dụng đưa ra….. hoạt động của
các cán bộ tín dụng còn mắc rất nhiều sai sót.
Bên cạnh đó biện pháp cưỡng chế mạnh nhất tại Điều 179 (BLHS) lại
chưa quy định rõ ràng, chưa có sự phân biệt rạch ròi, cụ thể giữa một số tội
như: tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng, tội cố ý làm trái quy định Nhà nước…nên dễ gây nhầm lẫn trong việc
xử lý tội phạm.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật chuyên ngành về hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng
a) Cần quy định điều kiện cho vay, hạn mức cho vay phù hợp với thực
tế thị trường
b) Giải pháp hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu.
c) Thiết lập một cơ chế kiểm soát thông tin có hiệu quả xây dựng hệ
thống thu thập dữ liệu đảm bảo các thông tin cung cấp là tin cậy.
d) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong TCTD, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao với công nghệ hợp lý.
e) Cơ cấu lại hệ thống TCTD cho phù hợp với nền kinh tế thị trường.
f) Tăng cường công tác phối hợp, quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát

trong các TCTD.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong Bộ luật hình sự
Hiện nay, các quy định của Bộ luật hình sự về nhóm tội phạm vi phạm
quy định về trật tự quản lý kinh tế nói chung và về tội vi phạm quy định về
cho vay của các TCTD vẫn còn chưa nhiều và mang tính chung chung. Trong
Bộ luật hình sự chỉ có một điều quy định về hành vi vi phạm quy định cho
24


vay của TCTD tại Điều 179. Trong khi tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp
và cần được xử lý bằng biện pháp nghiêm khắc mang tính cưỡng chế cao nhất
đó là cần phải được lý bằng pháp luật hình sự. Do vậy, cần bổ sung, sửa đổi,
quy định tại điều 179 BLHS theo hướng cụ thể hóa đặc biệt cần quy định cụ
thể các dấu hiệu phạm tội như: Lỗi, chủ thể, hậu quả phạm tội. Trong sửa đổi
Bộ luật Hình sự tới đây, cần phải nghiên cứu, bổ sung thêm các quy định đối
với các loại hình hoạt động thuộc lĩnh vực tài chính tiền tệ vào trong Bộ luật
Hình sự.
3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
về tội vi phạm về quy định cho vay trong hoạt động của cá tổ chức tín
dụng
Một là, sắp xếp và quy hoạch lại sửa đổi và bổ sung các quy định về tội
vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD trong bộ luật
hình sự. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định tại diều 179 BLHS là vấn đề cấp
bách và quan trọng cần phải được tiến hành nhanh chóng. Cần có sự phân
hóa trách nhiệm hình sự giữa lỗi cố ý và vô ý trong một số trường hợp vì lỗi
là một trong những căn cứ thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
Hai là, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán
bộ tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền liên quan. Đẩy mạnh việc tăng
cường giao lưu học hỏi với các quốc gia khác sẽ tăng thêm nhận thức cũng

như sự am hiểu cho các cán bộ nhân viên trong việc áp dụng pháp luật của
quốc gia với những trương hợp phạm tội cụ thể.
Ba là, ban hành các quy định pháp luật hướng dẫn chi tiết các quy định
về vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và
tăng cường công tác thanh tra giám sát giữa các cơ quan có thẩm quyền và
các TCTD. Cùng với các hoạt động này thì hoạt động thanh tra, giám sát liên
ngành cũng cần được đảm bảo, ngoài việc các TCTD tự thực hiện các hoạt
25


×