Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

khóa luận triết học vấn đề con người trong triết học trung quốc cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.27 KB, 84 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................7
Chương 1: TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI TRUNG
QUỐC THỜI KỲ CỔ ĐẠI.............................................................................7
1.1.Thời kỳ Ân Thương - Tây Chu....................................................................7
1.2. Thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc..............................................................12
Chương 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI.......................................................17
2.1. Quan điểm về con người thời Ân Thương - Tây Chu..............................17
2.2. Quan điểm về con người thời Xuân Thu - Chiến Quốc...........................18
2.3. Ý nghĩa của các quan điểm cơ bản về con người trong triết học Trung
Quốc cổ đại trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay..........59
KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78


1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Trong lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa nhân loại, vấn đề con người
luôn giữ vị trí trung tâm và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã
hội, đặc biệt là khoa học xã hội nhân văn. Tuy nhiên mỗi ngành khoa học lại
nghiên cứu con người dưới một góc độ khác nhau. Triết học nhìn nhận, nghiên
cứu con người dưới một góc độ hoàn toàn khác những ngành khoa học xã hội
còn lại, đó là nhận thức con người một cách toàn diện trong tính chỉnh thể của
nó.
Con người từ đâu sinh ra? Ý nghĩa cuộc sống con người là gì? Trong
mỗi thời đại lịch sử, con người quan hệ với tự nhiên và đồng loại như thế
nào? Vai trò của con người trong sự phát triển của nhân loại được thể hiện


như thế nào?... Đó là những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất mà các học thuyết
triết học từ cổ đại đến nay đã đặt ra và giải đáp bằng nhiều cách khác nhau.
Như vậy có thể thấy rằng vấn đề con người chưa bao giờ cũ, nó dù ở thời đại
nào cũng luôn được quan tâm với nhiều cách tiếp cận mới mẻ.
Cùng với Ấn Độ, Trung Quốc cũng là cái nôi của nền văn minh
phương Đông nói riêng và của nhân loại nói chung. Không chỉ đạt được
những thành công rực rỡ trên lĩnh vực khoa học tự nhiên với nhiều phát minh
vĩ đại, Trung Quốc cổ đại cũng là cái nôi sinh ra một hệ thống triết học đồ sộ.
Trải qua hàng nghìn năm phát triển, có thể thấy rằng triết học Trung Quốc có
nội dung cực kì phong phú, sâu sắc. Trong đó vấn đề con người trong triết học
Trung Quốc cổ đại nói riêng và con người trong lịch sử Trung Quốc nói chung
là một vấn đề cốt lõi, nổi bật của lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Tuy nhiên, con
người trong Triết học Trung Quốc cổ đại do chịu sự quy định của điều kiện
lịch sử lúc bấy giờ cho nên chưa được nghiên cứu đầy đủ, toàn diện mà mới


2

chỉ chú trọng trên một số khía cạnh như đạo đức, luân lý. Rất nhiều những tư
tưởng của triết học Trung Quốc cổ đại về vấn đề con người như Tam Cương,
Ngũ Thường, Kinh Lễ, Gia Lễ…cho đến ngày nay vẫn còn mang những giá
trị hết sức to lớn, và có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều các nước khác trong
khu vực Châu Á, trong đó có Việt Nam.
Lịch sử nhân loại, xét đến cùng, là lịch sử giải quyết vấn đề con người,
từng bước thoát khỏi thần quyền và bạo quyền để đi đến mục tiêu cuối cùng là
phát triển toàn diện cá nhân trong xã hội văn minh. Không một dân tộc nào
tồn tại và phát triển lại không chú ý đến vấn đề con người, nếu có sự khác biệt
thì là ở mục đích và phương pháp giải quyết. Việt Nam cũng không ngoại lệ,
hiện nay nước ta đang thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện.
Đại hội lần thứ IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát

triển nguồn lực con người với yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi không chỉ kế
thừa các giá trị truyền thống của dân tộc, mà còn phải kế thừa những tinh hoa
văn hóa của tư tưởng nhân loại về con người. Đặc biêt, với một nghìn năm
Bắc thuộc, rất khó để Việt Nam không chịu ảnh hưởng bởi những tư tưởng
của Trung Quốc. Nhưng vấn đề đặt ra là, chúng ta có thể và cần kế thừa
những gì từ những di sản đó. Do đó, khai thác và phát huy những yếu tố tích
cực đồng thời khắc phục, xóa bỏ những hạn chế của những quan niệm về đạo
đức, con người trong triết học Trung Quốc cổ đại từ đó góp phần xây dựng và
hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang là một
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, em chọn đề tài: “Vấn đề con người
trong triết học Trung Quốc cổ đại” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình
nhằm tìm hiểu những quan niệm về con người của các triết gia tiêu biểu thời
Trung Quốc cổ đại, để từ đó có được những tri thức góp phần vào công cuộc
xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay.
2.Tình hình nghiên cứu


3

Vấn đề con người trong triết học Trung Quốc cổ đại có một vai trò và ý
nghĩa quan trọng trong lịch sử triết học Trung Quốc nói riêng và trong sự phát
triển liên tục của lịch sử triết học nói chung. Do vậy đã có rất nhiều công trình
khoa học nghiên cứu, luận giải ở nhiều cấp độ và nhiều khía cạnh khác nhau.
Ngoài các công trình nghiên cứu một cách hệ thống về lịch sử triết học Trung
Quốc có tính chất kinh điển như: Doãn Chính (chủ biên) (2002), Đại cương
triết học Trung Quốc, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội; Giản chi – Nguyễn
Hiến Lê, Đại cương lịch sử Triết học Trung Quốc, Nhà xuất bản Thanh niên,
Hà Nội, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu khác như:
Lịch sử triết học, GS.TS Nguyễn Hữu Vui, Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia; Khái lược lịch sử triết học của PGS.TS.Bùi Thanh Hương và
Nguyễn Văn Đại, Khoa triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Đại
cương triết học phương Đông cổ đại, Nhà xuất bản Đại học và giáo dục
chuyên nghiệp năm 1992; Lịch sử triết học Phương Đông, PGS.TS.Doãn
Chính (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2012. Những
công trình này đã trình bày một cách hệ thống, sâu sắc và sinh động quá trình
phát sinh, phát triển của các nền triết học, trong đó có triết học Trung Quốc cổ
đại. Vấn đề con người trong Triết học Trung Quốc cổ đại được đề cập đến là
một nội dung nổi bật, là thành tựu triết học vô giá của phương Đông nói riêng
và nhân loại nói chung.
Trên các báo và tạp chí khoa học cũng đã đăng tải, công bố một số
công trình nghiên cứu về vấn đề con người trong triết học Trung Quốc cổ đại,
trong đó đáng chú ý là các bài viết: Triệu quang Minh, Trần Thị Lan Hương:
“Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi”, tạp chí Triết học,
số 219, 8-2010; Nguyễn Thị Thu Thủy:“Một số nội dung cơ bản của đạo đức
Nho giáo và vai trò, ý nghĩa của nó với việc hoàn thiện đạo đức con người
Việt Nam hiện nay”, Báo cáo NCKH năm 2010; Nguyễn Văn Hiền: “Thuyết


4

kiêm ái: nội dung, giá trị và ý nghĩa đối với việc xây dựng đạo đức ở nước
ta”, Tạp chí Triết học, số 232, 9-2010; Nguyễn Thanh Bình (1999), “Cách
xem xét, đánh giá con người thông qua các mối quan hệ xã hội cơ bản của
Nho giáo - Một giá trị kế thừa và phát triển”, Tạp chí Triết học, số 3; . Minh
Anh (2004), “Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo”, Tạp chí Triết
học, số 8. Những bài viết này đã tiếp cận, làm rõ một số quan điểm của một
số trường phái triết học cụ thể trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại về
vấn đề con người, đồng thời cũng chỉ ra những giá trị, ý nghĩa của những
quan điểm này đối với Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung.

Và còn rất nhiều những công trình khác và những bài viết trong các tạp
chí khi đề cập đến vấn đề con người nói chung, trong triết học Trung Quốc cổ
đại nói riêng. Tuy nhiên, vì điều kiện thời gian nên trong đề tài khóa luận này
em chỉ xin nêu ra một vài công trình tiêu biểu nói trên. Những tài kiệu trên
đây là nguồn tư liệu quý giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích: Trình bày một cách hệ thống quan niệm về con người
trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại.
+ Nhiệm vụ:
- Làm rõ những tiền đề về kinh tế, chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
cho sự ra đời của những quan niệm về con người của các triết gia thời kì này.
- Tập trung nghiên cứu các tư tưởng triết học cơ bản về nhân sinh quan
của các triết gia tiêu biểu trong một số trường phái triết học tiêu biểu thời kì
này như Nho gia, Đạo Gia, Pháp gia…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những tư tưởng triết học cơ bản của các triết
gia, các trường phái triết học về vấn đề con người trong triết học Trung Quốc
cổ đại.


5

- Phạm vi nghiên cứu: Những tài liệu liên quan đến đạo đức, con người
của các triết gia, các trường phái triết học giới hạn trong phạm vi thời Trung
Quốc cổ đại. Không nghiên cứu vấn đề này ở những giai đoạn thời, kì khác
trong lịch sử triết học Trung Quốc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin: Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn kết hợp
một số phương pháp như: phân tích tổng hợp… Những phương pháp chủ yếu

được sử dụng trong nghiên cứu đề tài: phương pháp logic và lịch sử, khái quát
hóa, hệ thống hóa.
6. Đóng góp của khóa luận
- Khái quát những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội Trung Quốc cổ
đại cho sự ra đời của những quan niệm về con người của các triết gia thời kì
này.
- Trình bày một cách hệ thống quan điểm về con người trong lịch sử
triết học Trung Quốc cổ đại, trong đó tập trung nghiên cứu các tư tưởng triết
học cơ bản về nhân sinh quan của các triết gia tiêu biểu trong ba trường phái
nổi bật thời kì này như: Nho gia, Đạo gia, Pháp gia.
- Đánh giá những giá trị và hạn chế của những quan điểm về con người
trong triết học Trung Quốc cổ đại, từ đó rút ra những tri thức góp phần vào
công cuộc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn chia làm 2 chương, 5 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1: TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI TRUNG
QUỐC THỜI KỲ CỔ ĐẠI (2 tiết)


6

1.1. Thời kỳ Ân Thương - Tây Chu
1.1.1. Triều Thương
1.1.2. Triều Tây Chu
1.2. Thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc
Chương 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI
TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUÔC CỔ ĐẠI (3 tiết)
2.1. Quan điểm về con người thời Ân Thương - Tây Chu

2.2. Quan điểm về con người thời Xuân Thu - Chiến Quốc
2.2.1. Quan điểm của Nho gia về vấn đề con người
2.2.2. Quan điểm của Đạo gia về vấn đề con người
2.2.3. Quan điểm của Pháp gia về vấn đề con người
2.3. Ý nghĩa của các quan điểm cơ bản về con người trong triết học
Trung Quốc cổ đại trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.


7

NỘI DUNG
Chương 1
TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI
KỲ CỔ ĐẠI
1.1.Thời kỳ Ân Thương - Tây Chu
1.1.1. Thời kỳ Ân Thương (khoảng thế kỷ XVII - XI TCN)
Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XI tr.CN, trên dải hoàng thổ phì nhiêu của
con sông Hoàng Hà ở phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên minh thị tộc
lớn, với một nền nông nghiệp định cư khá phát triển, chữ viết bắt đầu được sử
dụng và những hình thức nhà nước phôi thai đã bắt đầu xuất hiện. Đó là thời
đại Ân - Thương buổi bình minh của nền văn minh Trung Quốc.
Dựa vào nguồn tài liệu Bốc từ - loại văn tự xuất hiện sớm nhất ở Trung
Quốc khắc trên mai rùa hay xương thú, các nhà nghiên cứu giáp cốt Trung
Quốc cho chúng ta biết sơ qua về tình hình kinh tế - xã hội của thời đại Ân
Thương. Tương truyền rằng thủy tổ của tộc Thương là Khế, người đồng thời
với Hạ Vũ, nhưng đến cháu thứ 14 của Khế là Thang, tộc Thương mới bắt đầu
bước sang xã hội có giai cấp. Trong khi nước Thương ở vùng hạ lưu Hoàng
Hà không ngừng lớn mạnh thì nước Hạ ở trung lưu Hoàng Hà đang nhanh
chóng suy yếu, nhân dân đang căm ghét vua Kiệt, nhân đó, Thang đã đem
quân đánh Hạ, Kiệt thua chạy đến đất Nam Sào, nhà Hạ bị tiêu diệt nhà

Thương được hình thành. Khi mới thành lập, nhà Thương đóng đô ở Bạc ở
phía nam Hoàng Hà, nhưng từ đó trong nội bộ giai cấp thống trị thường xảy
ra những cuộc đấu tranh. Để làm yếu thế lực của tầng lớp quý tộc, đồng thời
để tránh nước lụt,vua Thương đã dời đô nhiều lần và đến cháu 10 đời của
Thang là Bàn Canh thì dời đô đến Ân ở phía Bắc Hoàng Hà. Cho đến khi nhà


8

Thương diệt vong, chỉ trừ vua cuối cùng là Trụ đóng đô ở Triều-ca, còn đều
lấy Ân làm kinh đô, vì vậy triều Thương còn gọi là triều Ân.
Về kinh tế - xã hội, mặc dù trình độ phát triển của công cụ sản xuất còn
ở mức độ thấp, đồ sắt chưa phổ biến, mới chỉ phổ biến đồ thau nhưng nhờ vào
điều kiện tự nhiên thiên nhiên thuận lợi, cả một vùng đất phì nhiêu của lưu
vực các con sông Hoàng Hà, Hắc Thủy, Nhược Thủy, Lạc Thủy của vùng
Hoàng Hà Lục Tỉnh, các bộ lạc người Ân đã định cư ở đây và có một nền
kinh tế sản xuất ổn định. Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, chăn nuôi và săn
bắn phát triển ở trình độ cao. Hình thức quan hệ sản xuất thời Ân là chế độ nô
lệ gia trưởng kiểu phương Đông ở trình độ thấp, chưa có sự phân biệt rõ rệt về
khái niệm “sở hữu” đối với tư liệu sản xuất và sức lao động. Cũng nhiều tài
liệu cho thấy rằng vào thời Ân, xã hội cũng đã có sự phân tách, đối lập giữa
thành thị và nông hôn, có sự phân định, xác lập bờ cõi, nhưng còn ở trình độ
thấp; chỉ mới ở thời kỳ manh nha của sự thành lập nhà nước. Ngày nay đã
phát hiện được hàng vạn đồ dùng bằng đồng thau đời Ân Thương như đồ tế
lễ, đồ uống rượu,vũ khí, công cụ thủ công nghiệp…Nghề làm đồ gốm thời
Thương cũng có những tiến bộ mới. Ngoài các loại gốm đỏ, đen, xám còn làm
được đồ sành, đồ gốm trắng và gốm tráng men. Ngoài hai nghề quan trọng nói
trên, các nghề khác như nghề làm đồ đá, ngọc, xương, đồ gỗ, đồ da cũng
tương đối phát triển. Việc trao đổi buôn bán cũng khá phát triển. Tại các di chỉ
đời Thương đã phát hiện được nhiều vỏ ốc biển là thứ rất hiếm ở vùng đó mà

người thời Ân Thương dùng để làm tiền gọi là bối. Ngoài bối bằng vỏ ốc
người ta còn phát hiện bối bằng đồng. Các di chỉ khảo cổ và các tài liệu giáp
cốt cũng cho biết rằng đời Thương đã có sự phân hóa giai cấp. Các loại đồ
đồng bằng đồng thau, bằng ngà, bằng ngọc cũng như xe ngựa và những thứ
quý báu và hàng chục, hàng trăm người hầu được chôn theo các quý tộc sau
khi chết.


9

Về văn hóa, đời Ân Thương đã có chữ viết tượng hình được khắc trên
mai rùa hay xương thú (giáp cốt). Một thành tựu quan trọng khác của người
Ân Thương đó là phát minh ra lịch mùa. Nó có quan hệ khăng khít với việc
phát minh ra chữ viết, là vũ khí quan trọng trong việc lợi dụng và chinh phục
thiên nhiên của cư dân làm nông nghiệp định cư ở lưu vực các con sông lớn.
Họ quan sát sự vận hành của Mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kì của nước
sông dâng lên, quy luật sinh trưởng của các cây trồng mà làm ra Âm lịch.
Việc làm ra lịch là một phát minh khoa học sớm nhất của Trung Quốc, nó
phản ánh tri thức khoa học tự nhiên của người Ân - Thương đã phát triển
tương đối toàn diện. Tuy nhiên, khoa học thời cổ đại không thể không thoát
khỏi những ảnh hưởng của những quan niệm tôn giáo thần bí, những tư tưởng
thần thoại về sự vận hành của các thiên thể, quan niệm ghi mùa gắn liền với
việc tế tự tổ tiên.
1.1.2. Thời kỳ Tây Chu (Khoảng thế kỉ XI đến thế kỷ VIII TCN)
Chu là một bộ lạc cư trú ở thượng lưu Hoàng Hà. Tương truyền rằng
thủy tổ của tộc Chu là Khí, vì trồng lúa giỏi nên được gọi là Hậu Tắc và được
tôn làm thần nông nghiệp. Đến đời cháu 12 đời của Khí là Cổ Công Đản Phụ,
sự phân hóa giàu nghèo trong bộ lạc Chu đã biểu hiện rất rõ rệt. Vì bị người
Nhung lấn chiếm nên Cổ Công Đản Phụ đã phải dời bộ lạc từ đất Mân đến đất
Kỳ và định cư ở cánh đồng Chu. Tại đây bộ tộc Chu làm nhà cửa, xây thành

quách, đặt “quan lại”. Những cuộc chiến tranh với bộ tộc xung quanh đem lại
cho Chu nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ càng đẩy nhanh quá trình phân hóa
trong bộ tộc Chu. Vào khoảng thế kỷ XI TCN, tộc Chu từ phía Tây Bắc, men
theo sông Hoàng Hà, tiến vào đất Ân Thương và cuối cùng tiêu diệt hoàn toàn
nhà Ân Thương lập nên nhà Chu. Giai đoạn đầu của nhà Chu, sử gọi là Tây
Chu bởi từ Vũ Vương đến U Vương đóng đô ở Cảo Kinh, phái Tây của Lạc
Ấp ở Tây Bắc nên gọi là Tây Chu. Sau U Vương đến Bình Vương, do các bộ


10

tộc du mục ở Tây Bắc luôn quấy phá nên phải dời đô về Lạc Ấp, nên gọi là
Đông Chu.
Căn cứ vào nguồn tài liệu kim văn và tài liệu gián tiếp của người đời
sau ghi chép lại, chúng ta biết được được rằng thời kỳ này mặc dù đồ sắt chưa
xuất hiện phổ biến, nhưng do biết tiếp thu được những thành tựu của nguời
Ân để lại, điều kiện thiên nhiên thuận lợi, có nguồn lao động dồi dào là các
đơn vị thị tộc bị chinh phục, kết hợp với cách thức tổ chức quản lý vó tính kỷ
luật cao của cư dân du mục, người Chu đã tiến xa hơn người Ân trên con
đường “dựng nước”, chính thức bước vào xã hội văn minh. Do “dựng nước”,
bước vào văn minh trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém
cho nên tình hình kinh tế - xã hội thời Tây Chu có những đặc điểm cần lưu ý
sau đây:
Thứ nhất, nhà Chu thực hiện chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất
(ruộng đất) và sức lao động (các đơn vị công xã và thị tộc bị chinh phục trong
chiến tranh) rất nghiêm nhặt. Về nguyên tắc, ruộng đất, mọi thành viên đều
thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Do quyền sở hữu thuộc về nhà nước
nên ruộng đất không được mua bán. Ngoài vùng xung quanh kinh đô mà vua
Chu giữ lại cho mình, gọi là vương kì, đất đai trong cả nước đươc phân phong
cho anh em và các công thần của nhà vua. Tùy theo bà con thân hay sơ, công

lao lớn nhỏ mà được phân phong ruộng đất rộng hay hẹp, gần hay xa và tước
cao hay tước thấp, tốt hay xấu. Những người được phong tước và đất trở
thành các vua chư hầu của nhà Chu.Vua chư hầu tuy không có quyền sở hữu
hoàn toàn về đất được phong nhưng được truyền lại cho con cháu. Đối với
vua Chu, vua chư hầu có nhiệm vụ hàng năm phải đến chầu, nộp cống, ngoài
ra con phải đem quân đội đến giúp mỗi khi có chiến sự xảy ra. Nếu không thi
hành đúng những nghĩa vụ đó tùy theo mức độ mà bị giáng chức tước, bị thu
hồi đất phân phong hoặc bị đem quân đến tiêu diệt. Ruộng đất trong vương kì


11

và trong nước chư hầu đem phong cho các quý tộc quan lại triều đình nhà Chu
và triều đình các nước chư hầu gọi là khanh, đại phu. Khanh, đại phu lại chia
thái ấp cho những người giúp việc của mình gọi là sĩ. Cuối cùng trong các
làng xã, ruộng đất được chia cho nông dân để cày. Mỗi hộ nông dân được chia
một mảnh ruộng rộng 100 mẫu gọi là một điền. Để chia ruộng đất thành từng
phần như vậy và để dẫn nước vào ruộng, người ta đắp bờ vùng bờ thửa và đào
những con mương ngang dọc do đó tạo thành những hình như chữ “tỉnh” ở
trên cánh đồng nên gọi là “tỉnh điền”. Như vậy, tỉnh điền là chế độ phân phối
ruộng công ở Trung Quốc cổ đại. Chế độ ấy tồn tại đến thời Chiến Quốc khi
ruộng tư xuất hiện thì dần dần tan rã.
Thứ hai, nhà Chu thành lập thành thị đại quy mô, đã có sự phân biệt,
đối lập thành thị (Đô, Quốc) với nông thôn (Bỉ, Dã). Trong xã hội có sự phân
chia giai cấp: quý tộc, nông dân, nô lệ. Thành thị là nơi ở của tầng lớp quý tộc
thị tộc, của kẻ thống trị, còn nông thôn là nơi ở của người thị tộc bị nô dịch. Ở
đây nhà Chu đã phải giữ lại hình thức tổ chức của thị tộc cũ, chế độ thị tộc
thành thị và chế độ thị tộc nông thôn. Hệ quả là trong phân tầng xã hội có sự
phân biệt giữa quý tộc và nô lệ, kẻ hèn. Đứng đầu giai cấp quý tộc là vua, bắt
đầu từ đời Chu gọi là Vương, là Thiên tử là người có quyền về hành chính và

tư pháp. Ý chí của vua là pháp lệnh. Trong xã hội lúc bấy giờ đã nảy sinh đối
kháng giai cấp, đối kháng giữa thành thị và nông thôn.
Thứ ba, nền kinh tế của nhà Chu chủ yếu vẫn là dựa vào nền sản xuất
nông nghiệp, tuy nhiên bên cạnh đó còn có một số các nghề phụ khác như
chăn tằm, dệt lụa, kéo sợi, dệt vải,... mặc dù nông dân được coi là “dân của
vua” tức là dân tự do nhưng bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhận 100 mẫu ruộng
công nằm trong lãnh địa của quý tộc,nông dânphải nộp thuế bằng khoảng1/10
thu hoạch.Ngoài ra họ còn nộp các khoản thuế phụ khác như lụa, da, thú
săn…và phải làm tạp dịch như xây dựng dinh thự, thành quách, cầu cống…


12

Đời sống của họ rất cực khổ. Giai cấp có địa vị thấp kém là nô lệ. Cũng như
đời Thương, nguồn nô lệ chính là tù binh, ngoài ra còn có một số người đồng
tộc bị biến thành nô lệ vì phá sản hoặc vì phạm tội. Công việc chủ yếu của nô
lệ là hầu hạ và làm các công việc trong gia đình. Có một số được làm trong
các xưởng thủ công và tổ chức buôn bán của nhà nước. Nô lệ thường bị thích
chữ vào mặt và bị coi như hàng hóa để buôn bán, trao đổi, ban tặng. Thời Tây
Chu, 5 nô lệ mới đổi được một con ngựa và một cuộn tơ. Lúc bấy giờ tục
dùng người tuẫn táng vẫn thịnh hành. Trong số những người được chôn theo
ấy, chắc chắn phần lớn là nô lệ.
Thứ tư, về văn hóa cũng như đời Ân, nhà Chu cũng có chữ viết người
ta đã tìm thấy nhiều tài liệu kim văn (chữ khắc trên đồng) vào thời kỳ này.
Nhà Chu cũng tiếp thu những thành tựu đạt được từ thời Ân Thương và có
những điểm phát triển hơn. Ở thời kỳ này nhà Chu đã xuất hiện một thứ học
thức “học ở quan phủ” của riêng bọn quý tộc, không có ở nông thôn. Đảm
nhiệm quan chức văn hóa chủ yếu là những người làm Chúc, Tông, Bốc, Sử.
1.2. Thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc
Thời Xuân Thu là giai đoạn đầu của thời Đông Chu bắt đầu từ năm 770

TCN cho đến thế kỷ V TCN trước sau gồm khoảng 3 thế kỷ. Sở dĩ thời kỳ này
gọi là Xuân Thu vì nó tương đương với giai đoạn lịch sử được chép trong
sách Xuân Thu của Khổng Tử. Sách Xuân Thu là quyển sử nước Lỗ trong đó
ghi chép những sự kiện xảy ra từ 722 TCN đến năm 481 TCN. Thời Xuân
Thu là thời kỳ xã hội Trung Quốc có nhiều chuyển biến quan trọng về kinh tế,
chính trị và xã hội. Năm 770 TCN, Chu Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp, ở
phía Đông, giai đoạn Đông Chu bắt đầu. Đến năm 256 TCN, Chu bị nước Tần
thôn tính, nhà Chu diệt vong. Sau khi Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp không
lâu, trong cung đình xảy ra việc cha con tranh nhau ngôi vua làm cho thế lực
của nhà Chu ngày càng suy yếu. Đã thế vương kì của Đông Chu vốn là một


13

vùng nhỏ hẹp, nhưng phần thì phải phân phong cho các công thần, phần thì bị
một số nước chư hầu lấn chiếm, nên đất đai còn lại càng hẹp. Mặt khác do uy
thế chính trị của nhà Chu ngày càng bị giảm sút, nhiều nước chư hầu không
chịu triều cống cho nhà Chu nữa. Bị suy yếu về chính trị và gặp nhiều khó
khăn về kinh tế như vậy nên về danh nghĩa tuy vẫn là vua chung của cả nước
nhưng thực tế là không đủ sức điều khiển các nước chư hầu. Do dó tình hình
kinh tế xã hội thời kì này cũng có nhiều sự thay đổi so với thời kì trước. Cụ
thể:
Thời kỳ Xuân Thu, người Trung Quốc đã biết dùng đồ sắt và cùng với
đó là biết dùng súc vật làm sức kéo, vấn đề thủy lợi thời kỳ này cũng được coi
trọng. Do đó, nền nông nghiệp thời kỳ này cũng phát triển hơn trước. Ngành
thủ công nghiệp, đến thời Xuân Thu cũng được phát triển và thu được nhiều
thành quả. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Vào
thế kỷ VI - V TCN, xuất hiện những thành thị thương nghiệp buôn bán xuất
nhập nhộn nhịp ở các nước Hàn - Tề - Tần - Sở. Trong số đó, theo Chiến
Quốc sách, thành phố Lâm Tri có đến 7 vạn hộ. Qua đó có thể thấy số dân

trong các thành thị Trung Quốc lúc bấy giờ không phải là ít.
Về quan hệ ruộng đất thì đến thờ Xuân Thu đã có sự thay đổi về quyền
sở hữu ruộng đất. Trong giai đoạn trước, toàn bộ ruộng đất ở Trung Quốc đều
thuộc quyền sở hữu của nhà nước, nhưng bắt đầu từ thời Xuân Thu, chế độ
ruộng đất của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư xuất hiện ngày càng một
nhiều. Thời Tây Chu, trên cơ sở “Khắp dưới gầm trời, đâu cũng đất vua”,
Thiên tử nhà Chu đã phong đất cho các chư hầu. Khi mới phân phong, sự ràng
buộc của nhà Chu đối với chư hầu, một mặt dựa vào quan hệ họ hàng, mặt
khác dựa vào quan hệ giữa tôn chủ (người phong đất) với bồi thần (người
được phong). Nhưng đến thời Xuân Thu, cái quan hệ họ hàng đó đã trở nên xa
xôi và quan trọng hơn, nhà Chu với tư cách là tôn chủ không còn đủ thế lực


14

để bắt những người được kế thừa đất phong phải thực hiện nghĩa vụ của họ.
Vì vậy, trên thực tế, các nước chư hầu đều coi lãnh địa được phong là quyền
sở hữu của họ. Ngoài lãnh địa được phong, các nước lớn còn thôn tính nhiều
nước nhỏ và xâm chiếm đất đai của các nước khác. Bộ phận đất đai này lại
càng là sở hữu của họ. Trong các nước chư hầu, do sự suy yếu của nhà vua,
do tranh giành đất đai của nhau, thái ấp của Khanh đại phu cũng biến dần
thành ruộng đất tư của họ. Trong quá trình ấy, chế độ tỉnh điền cũng dần dần
tan rã. Do công cụ sản xuất tiến bộ và số dân lao động tăng lên, người ta có
khả năng khai khẩn thêm nhiều đất hoang. Vì vậy, một số nông dân đã khai
phá thêm một ít ruộng đất ngoài phần đất được chia, do đó sự chênh lệch về
tài sản trong hàng ngũ nông dân cũng ngày càng rõ rệt. Hơn nữa, do kỹ thuật
sản xuất tiến bộ, việc đầu tư công sức vào ruộng đất cũng khác nhau, vì vậy,
nhiều nông dân không muốn thực hiện việc định kỳ chia lại ruộng đất như
trước nữa. Cho nên đến thời kỳ này một số nông dân cũng có ruộng đất riêng.
Trước kia, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên không được mua

bán, nhưng đến thời Xuân Thu, hiện tượng mua bán ruộng đất đã xuất hiện.
Về quan hệ giai cấp: Trước hết, sự xuất hiện chế độ ruộng tư đã dẫn
đến sự phân hóa trong giai cấp thống trị. Do có ruộng đất riêng, một số
Khanh, đại phu, sĩ đã biến thành những địa chủ mới. Sự tan rã của chế độ tỉnh
điền đã làm cho giai cấp nông dân bị phân hóa. Bắt đầu từ thời Xuân Thu,
trong xã hội mới xuất hiện một số thợ thủ công và người buôn bán tự do. Do
có thế lực lớn về kinh tế, các nhà buôn lớn cũng có ảnh hưởng đáng kể về
chính trị. Giai cấp quý tộc Chu bị mất đất, mất dân, địa vị kinh tế ngày càng
sa sút và đương nhiên vai trò chính trị, ngôi Thiên Tử của nhà Chu chỉ còn là
hình thức. Sự phân biệt sang hèn dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của chế độ
thị tộc tỏ ra không còn phù hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở tài sản.


15

Các nước chư hầu không chịu phục tùng vương mệnh nữa, không chịu cống
nạp, mang quân thôn tính nhau, tự xưng là Bá vương.
Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng
trong kết cấu giai tầng xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện, mới cũ đan xen
và mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư
hữ tài sản, có địa vị kinh tế trong xã hội (Hiển tộc) mà không được tham gia
chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc cũ của nhà Chu đang nắm quyền.
Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với giai cấp
quý tộc thị tộc Chu. Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp
mới lên tấn công về mặt chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn
với tầng lớp đại quý tộc thị tộc đang nắm quyền. Ngay trong bản thân giai cấp
quý tộc thị tộc Chu cũng có những sự không bằng lòng với trật tự cũ. Đó là bộ
phận quý tộc thị tộc Chu chuyển hóa lên giai tầng mới, họ muốn cải biến trật
tự xã hội bằng con đường cải lương, cải cách. Và không thể không nhắc đến
mâu thuẫn của nông dân công xã thuộc các tộc bị người Chu nô dịch với nhà

Chu và tầng lớp đang lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ.
Chính những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ
thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ
gia trưởng (Tông pháp), xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải phóng
lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Chính những điều kiện lịch sử kể trên đã khiến Trung Quốc cổ đại bước
vào thời kỳ Chiến Quốc, thời kỳ nổi bật với những cuộc chiến tranh thôn tính
nhau. Người chấm dứt tình trạng này, thống nhất Trung Quốc mở ra một thời
kỳ mới cho Trung Quốc không ai khác chính là Tần Thủy Hoàng.
Kinh tế - xã hội đang chuyển mình dữ dội tất yếu kéo những thay đổi
lớn trong lĩnh vực văn hóa. Thời kì này trên lĩnh vực khoa học tự nhiên (nhất
là thiên văn học và y học) đã đạt được những thành tựu nhất định, trở thành


16

nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư
tưởng được nảy sinh từ điều kiện kinh tế - xã hội trong suốt giai đoạn Xuân
Thu - Chiến Quốc.
Tiểu kết chương I: Là một hình thái ý thức xã hội, cho nên khi đề cập
đến những điều kiện cho sự ra đời những tư tưởng của Triết học nói chung
không thể không tìm hiểu tồn tại xã hội làm nảy sinh những quan điểm tư
tưởng đó. Cụ thể, khi đi nghiên cứu, tìm hiểu “Vấn đề con người trong Triết
học Trung Quốc cổ đại” ta không thể không xét đến những điều kiện về kinh
tế, chính trị, xã hội làm nảy sinh những quan điểm, tư tưởng này. Trung Quốc
cổ đại trải qua hai thời kỳ: thời Tam đại và thời Xuân Thu – Chiến Quốc.
Trong đó thời Tam đại trải qua các triều đại nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu.
Tuy nhiên, triều nhà Hạ không có nhiều nổi bật về những tư tưởng triết học do
đó lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu nói đến thời ký Ân Thương Tây Chu và thời Xuân Thu – Chiến Quốc.
Vào thời nhà Ân – Thương, trình độ phát triển của công cụ sản xuất còn

thấp, đồ sắt chưa phổ biến, hình thức quan hệ sản xuất là chế độ nô lệ gia
trưởng kiểu phương Đông ở trình độ thấp, chưa có sự phân biệt rõ rệt về khái
niệm “sở hữu” đối với tư liệu sản xuất và sức lao động. Thời kì này cũng đã
có sự phân tách, đối lập giữa thành thị và nông thôn, có sự phân định, xác lập
bờ cõi nhưng còn ở trình độ thấp, chỉ mới ở thời kỳ manh nha của sự thành
lập nhà nước. Đến thời nhà Tây Chu, do kế thừa những thành tựu của người
Ân để lại mà người Chu đã tiến xa hơn người Ân trên con đường “ dựng
nước”, bước vào xã hội văn minh. Nhà Chu đã thực hiện chế độ quốc hữu về
tư liệu sản xuất và sức lao động rất nghiêm ngặt, đã có sự phân biệt đối lập
giữa thành thị và nông thôn nhưng do trình độ non yếu của sức sản xuất mà sự
phân công, chia tách xã hội lần thứ nhất này không triệt để. Thời kỳ Ân
Thương – Tây Chu đã đạt được những thành tựu nhất định về tri thức khoa


17

học như phát minh ra lịch mùa, đã có chữ viết,..nhưng những phát minh khoa
học vẫn chưa thể thoát khỏi ảnh hưởng của những quan niệm tôn giáo thần bí.
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc được coi là thời kỳ có nhiều biến động
lớn lao, toàn diện của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Thời kỳ này đồ sắt đã
xuất hiện phổ biến, công cụ sản xuất bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ
đồng đá trước đây đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông
nghiệp. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Chế độ
quốc hữu tư liệu sản xuất nay đã bị phá vỡ, giai cấp quý tộc thị tộc Chu bị mất
đất, vai trò của Thiên tử nhà Chu chỉ còn là hình thức. Chính sự thay đổi này
làm cho kết cấu giai tầng của xã hội có nhiều biến đổi, nhiều giai tầng mới
xuất hiện do đó cũng xuất hiện những mâu thuẩn mới và ngày trở nên gay gắt.
Tất cả những mâu thuẩn trong xã hội thời kỳ này cũng phản ánh một hiện
thực rằng càn phải giải thể chế độ nô lệ thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong
kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế động gia trưởng, xây dựng nhà nước

của giai cấp quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội
phát triển. Đây cũng là thời kỳ đạt được nhiều thành quả trên lĩnh vực khoa
học tự nhiên nhất là thiên văn học và y học. Nó chính là nguồn động lực quan
trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư tưởng thời kỳ này.


18

Chương 2
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT
HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
2.1. Quan điểm về con người thời Ân Thương - Tây Chu
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở
Trung Quốc cổ đại, thế giới quan thần thoại mê tín và tôn giáo duy tâm với
các biểu tượng về “Thiên mệnh”, về “Thượng đế” và quỷ thần - những lực
lượng tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự tiến hóa của vũ trụ và đời
sống xã hội, đã trở thành hình thái ý thức chiếm địa vị thống trị lúc bấy giờ.
Về tư tưởng đạo đức chính trị, thời Ân Thương chưa hề có ý thức về ý nghĩa
đạo đức, tức là giữa các thành viên trong thị tộc chưa có quan hệ thứ bậc được
xác lập dựa trên quan hệ quyền lợi nghĩa - vụ của xã hội văn minh sau này;
trong sinh hoạt cộng đồng họ rất tôn sùng người cầm đầu thị tộc. Điều này đã
không còn nữa ở thời kỳ Tây Chu. Nếu tộc trưởng ở thời Ân Thương có vị trí
chủ yếu ở mặt tinh thần, quyền lực cá nhân chưa vượt qua chức năng công
cộng, thì ở thời Chu, tộc trưởng đã thành Thiên tử, là chủ của muôn dân, do
vậy trong quan hệ xã hội đã đẻ ra mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Đó
cũng chính là cơ sở nền tảng để hình thành nên quy tắc đạo đức nhà Chu.
Không những thế người đời Thương, Chu còn mê tín “bói toán” tin rằng con
người có thể thông đạt với thượng đế và quỷ thần, đồng thời họ nhân cách
hóa, thiêng liêng hóa hiện tượng tự nhiên, coi hiện tượng tự nhiên là một thứ
thần bí có thể quyết định vận mệnh loài người, là đối tượng để họ sùng bái và

cúng tế. Con người chỉ có tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của các vua chúa người chịu mệnh lệnh của trời cai trị dân trên mặt đất, nếu không thì thượng
đế sẽ trừng phạt cực kì tàn khốc, gieo xuống cho nhân dân những tai họa nặng
nề. Sự mê tín tôn giáo ấy bị bọn quý tộc chủ nô dựa theo và lợi dụng để củng


19

cố nền thống trị của chúng đối với nhân dân. Đối lập với những quan điểm
duy tâm tôn giáo ấy, cuối thời Tây Chu đã xuất hiện tư tưởng triết học duy vật
và những quan niệm có tính chất vô thần tiến bộ. Từ chỗ hoài nghi, tín
ngưỡng tôn giáo, phê phán các thứ tín ngưỡng nguyên thủy, sùng bái linh
thiêng, cúng tế, thuật chiêm tinh, bói toán, lên án sự giả dối, tàn ác của bọn
thống trị, họ đã chuyển qua phê phán chính “thượng đế” - một lực lượng tối
cao, anh minh mà họ vốn tôn sùng. Qua đó những tư tưởng tiến bộ đã khẳng
định và nâng cao và có tác dụng đối với hoạt động của con người trong tự
nhiên cũng như trong xã hội. Họ tin rằng con người có thể quyết định vận
mạng của mình, không cần phải cầu khẩn quỷ thần giúp đỡ. Tạng Văn Trọng
cho rằng chỉ cần con người ra sức sản xuất nông nghiệp và tiết kiệm tiền của
thì có thể đề phòng thiên tai, cúng tế đồng bóng đều không có lợi ích gì cả. Sỹ
Bái cho rằng, dựa vào quỷ thần để giải thích hành vi của mình là tội ác. Từ
Sản đưa ra danh ngôn “Đạo trời xưa, đạo người gần”. Họ còn ý thức được
rằng quần chúng nhân dân quan trọng hơn quỷ thần, nếu kẻ thống trị không
được nhân dân ủng hộ thì dù sùng bái quỷ thần cũng bị mất chính quyền. có
thể nỏi ở thời kì này vấn đề con người chưa được các triết gia chú ý tìm hiểu,
nếu có nhắc đến thì những tư tưởng này thường được đề cập bên cạnh
“thượng đế”, “thiên mệnh”, con người chưa được chú trọng nghiên cứu ở một
khía cạnh độc lập mà thường bị lồng vào yếu tố duy tâm thần bí.
2.2. Quan điểm về con người thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Có thể thấy được rằng tư tưởng triết học của Trung Quốc khởi nguồn là
thần thoại thời tiền sử và phải đến thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, thời đại

của trí tuệ được giải phóng, trí thức được tôn là thầy và trí thức được phổ cập
thì tư tưởng triết học Trung Quốc trong đó có “vấn đề con người” mới trở
thành hệ thống hoàn chỉnh. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chử
tử”, “Bách gia tranh minh”. Cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc học thuyết của


20

các triết gia lần lượt nở rộ, trong khoảng “103 nhà” nổi lên “Sáu nhà”. Nho
gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Âm Dương gia trong đó có ảnh
hưởng lớn là Nho gia, Đạo gia và Pháp gia.
Nội dung tư tưởng triết học của ba học phái này lấy con người làm
trung tâm và mục tiêu nhận thức. Đề cao giá trị đạo đức và tinh thần nhân
văn; khẳng định giá trị tích cực của con người đối với mình và đối với xã hội;
đặt con người trong mối quan hệ giữa con người với con người. Các học phái
này tập trung phân tích con người từ bản chất và có mục tiêu chung là xây
dựng con người đạo đức, có nghĩa, có nguyên tắc.
2.2.1. Quan điểm của Nho gia về vấn đề con người
* Về bản chất con người
Trong lịch sử triết học Trung Quốc, Nho gia là một trường phái triết
học đưa ra học thuyết chính trị đạo đức để giáo hoá con người, nhằm củng cố
duy trì trật tự xã hội. Chính vì vậy giáo lý của Nho giáo thiên về việc xem xét
lý giải con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề chính vẫn là
luận bàn về bản tính con người thông qua khái niệm “tính người”, “tâm
người”, “lý người”, tức chỉ là bàn đến phẩm chất tinh thần, ý thức tâm lý, tư
tưởng mà chưa đi sâu vào bản chất đích thực của con người. Từ rất lâu trong
lịch sử Trung Quốc đã xuất hiện phạm trù Tính và trong giai đoạn trăm nhà
đua tiếng, bách gia chư tử thì mỗi triết gia, mỗi trường phái lại luận bàn về
Tính với những quan điểm khác nhau và thông qua những quan điểm này mà
có những lý giải khác nhau về bản chất con người. Mạnh Tử đề xuất Tính là

“Thiên chi giáng tài” (tài trời cho), Tuân Tử cho rằng Tính là “bản thủy tài
phác” (tố chất nguyên sơ còn chất phác) của con người, Đạo gia Trang Tử đề
xuất Tính là “Sinh chi chất” (chất của Sinh); Cáo Tử cho rằng “Sinh chi vị
Tính” (sinh gọi là Tính), Hàn Phi Tử của Pháp gia lại đưa ra Tính là “Thiên
Tính” của con người. Đồng thời cùng với việc đưa ra một quy định chung cho


21

nội hàm Tính, mỗi triết gia, mỗi phái đều cố gắng thông qua Tính để tìm hiểu
nhân tính, tìm hiểu về bản chất của con người theo mỗi hướng khác nhau.
Phạm trù Tính và tư tưởng Tính trong triết học Trung Quốc đầu tiên được đào
sâu tìm hiểu và phát triển trong Nho gia. Nho gia thời Tiên Tần bàn về Tính
năng và nhân tính. Mặc dù, mỗi nhà triết học của Nho giáo xem xét bản chất
con người ở mỗi khía cạnh khác nhau (Khổng Tử: Tính tương cận, tập tương
viễn; Mạnh Tử: tính thiện; Tuân Tử: tính ác), song trong toàn bộ quá trình vận
động của lịch sử tư tưởng thì ở họ, vẫn có sự kế thừa, phát triển và làm cho
quan niệm về bản chất con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
Khổng Tử là người luận bàn về Tính sớm nhất. Trong Luận ngữ, Khổng
Tử đã hai lần bàn về Tính, tuy vẫn còn tương đối đơn giản sơ khai nhưng có tính
sáng tạo. Ông cho rằng: Tính tương cận dã, tập tương viễn dã” [31,70]. Tính nói
ở đây là bản tính trời sinh của nhân loại. Khổng Tử cho rằng nhân tính con người
gần gũi tương tự nhau, vốn không có khác biệt cơ bản. Phẩm chất của con người
là chất phác, chân thực. Sự khác biệt thiện, ác, trí ngu của mọi người là do hậu
thiên tập nhiễm khác nhau mà hình thành, tức là do quá trình tiếp xúc và học
hành mà có sự khác biệt. Hay hiểu sâu xa hơn, Khổng Tử muốn nhấn mạnh đến
sự tác động của hoàn cảnh, điều kiện sống đến bản chất con người. Rằng con
người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà trong chừng mực nhất định con
người tạo ra xã hội và bị xã hội quy định bản tính chủ quan của bản thân mình.
Có thể thấy tư tưởng này của Không Tử đề cập đến hai vấn đề:

Một là nhân tính chung phổ biến của nhân loại. Bản tính của con người
theo Khổng Tử là tính tự nhiên, trời phú cho con người, ngay từ khi sinh ra đã
có. Sự phú tính đó về cơ bản là đồng đều: “Tính người này, tính người kia do
trời phú thì đều gần như nhau cả” ( Luận ngữ, Dương hóa). Vì thế trong Thiên
ung dã Khổng Tử cho rằng: “ Con người ta sinh ra bản tính vốn ngay thật –
Nhân chi sinh dã trực” [27,365]. Bản tính của con người thể hiện thông qua


22

một loạt các đức tính trong đời sống con người và được phản ánh trong hệ
thống các phạm trù đạo đức của ông như: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Hiếu, Kính
đễ,…Theo Không Tử, tất cả những đức tính này sẽ hội tụ đầy đủ trong mẫu
người lý tưởng, toàn trí toàn đức mà ông gọi là người quân tử. Trong triết học
của Không Tử, những phạm trù đạo đức phản ánh những đặc tính của con
người không tách rời nhau mà tạo thành hệ thống những đặc tính hữu cơ trong
đạo đức nhân sinh. Các phạm trù đạo đức như một vòng tròn đồng tâm mà
phạm trù nhân là tâm điểm. Bởi theo Khổng Tử phạm trù nhân là phạm trù chỉ
ra cái bản chất nhất của con người. Và tất nhiên “Nhân” ở đây được ông đề
cập đến với ý nghĩa sâu rộng nhất, ông cho rằng con người muốn thực hiện
điều nhân phải có lễ, thực hiện được điều nhân theo nghĩa là trung, là hiếu, là
kính đễ,…Nó cũng được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính
con người con người thông qua lễ, nghĩa mà quy định những quan hệ người
với người trong gia tộc đến bên ngoài xã hội. Đối với Khổng Tử mẫu người lý
tưởng hội tụ đủ những đức tính này là người quân tử: “Người quân tử làm
việc chi cũng lấy nghĩa làm gốc. Người noi theo lễ tiết mà thi hành, người
phát biểu nghĩa của mình bằng khiêm tốn và người thành tựu bằng lòng tín
thật. Làm một việc mà có đủ các đức tính: nghĩa, lễ, tốn, tín như vậy thật là
người quân tử thay - Quân tử nghĩa dĩ vi nhất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi.
Quân tử tai” [27,365].

Hai là khẳng định rằng nhân tính là do trời sinh nhưng tinh thần, đạo
đức của con người lại có thể thông qua học tập thực hành mà có được. Về
phương diện này, Khổng Tử gọi đó là tập. Tập mà Khổng Tử nói đến ở đây
không phải là hàng ngày quan sát, bắt chước, mà quan trọng hơn nữa là học
tập đạo lý một cách có mục đích. Ông lập luận rằng do sở tập khác nhau cho
nên con người vừa có thể làm thiện cũng có thể làm ác, vừa có thể làm quân
tử cũng có thể làm tiểu nhân.


23

Xuất thân là một nhà triết học thiên về chính trị - xã hội đồng thời do
những yêu cầu của xã hội lúc bấy giờ nên trong triết học nhân sinh của mình
Khổng Tử muốn kế thừa sự nghiệp của Văn Vương, Chu Công để lập lại kỉ
cương pháp chế của nhà Chu. Chính vì vậy Khổng Tử xây dựng nên thuyết
“Đạo làm người” với tư tưởng hạt nhân là Nhân và Nghĩa. Ông cho rằng với
con người và xã hội loài người, việc đề ra đạo cho thật đúng đắn, thật rõ ràng
là rất quan trọng bởi không biết đạo thì không thể làm người, không thể sống
một cuộc sống xứng đáng. Ông từng nhấn mạnh điều này với học trò của
mình: “ Buổi sáng nghe đạo thì buổi tối chết cũng được rồi” (Luận ngữ, Lý
nhân). Trong quan niệm của Khổng Tử con người cũng là một loài trong khối
nhất thể bao gồm cả trời đất, muôn vật, muôn loài và là một bộ phận nhỏ của
tự nhiên. Cho nên lấy cơ thể mà nói, thì con người phải nhất luận tuân theo
những nguyên lý “âm dương biến hóa” của đạo trời và “cương nhu tương
thôi” của đạo đất. Nhưng bên cạnh đó, con người lại là một loài có tâm hồn,
có ý thức, có trí tuệ và loài người có cuộc sống xã hội. Có thể thấy được rằng
Khổng Tử đã nhận thức được sự khác biệt trong quan hệ giữa con người với
con người trong đời sống xã hội với quan hệ giữa con người với tự nhiên. Bởi
vậy ông nêu quan điểm: “tính tương cận, tập tương viễn” như đã phân tích ở
trên. Ông cũng lập luận rằng do sở tập khác nhau dẫn đến nhiều người đã

không giữ được tính người mà trời đã mệnh cho, chính vì vậy Khổng Tử chỉ
ra sự cần thiết phải lập đạo cho con người. Phải thấy được ý nghĩa của đạo đối
với tính người do trời mệnh phú cho. Trong Trung dung có nêu lên luận điểm
cơ bản này: “ Trời mệnh cho gọi là tính, kèm cặp dần dần tính là đạo, dưỡng
đạo gọi là hóa” (Trung dung, XX). Như vậy, với Khổng Tử có tính do trời
mệnh mà cứ buông lơi, thả lỏng trong cuộc sống thì tính sẽ biến chất theo
muôn vàn cái “tập”. Điều này dẫn đến con người trở nên vô đạo, khi con
người vô đạo dễ dẫn đến cả nước vô đạo, rồi làm cho thiên hạ vô đạo. Khổng


24

Tử mong muốn làm cho mọi người hữu đạo, mọi nước hữu đạo, thiên hạ hữu
đạo. Chính vì vậy ông chủ trương đề ra con đường để dưỡng đạo - giáo hóa
(giáo dục). Ý nghĩa của giáo hóa là cải tạo nhân tính, hay giáo hóa chính là
con đường để tu dưỡng nhân tính. Muốn nhân loại trở về chỗ tính gần nhau,
tính trời sinh – thiện bản nhiên thì phải thông qua giáo dục, giáo dục có thể
hóa ác thành thiện. Trung dung viết: Giáo dục là tu sửa cái đạo làm người.
Khổng Tử quan niệm giáo dục mở mang cả tri, tình và ý; hay là trí, nhân,
dũng để con người ta đạt tới con người đạo lý. Nếu con người có thể học tập
tư tưởng nhân, quan niệm lễ, hơn nữa hành động thực tiễn thi hành một loạt
quy phạm đạo đức nhân lễ như yêu người, trung tín, hiếu đễ, cung kính, trí
dũng…thì có thể trở thành người có đạo đức cao thượng. Chính vì vậy, Khổng
Tử cực kì nhấn mạnh học tập, giáo dục. Ông cho rằng có ba hạng người: “có
người sinh ra đã biết”; “có người học mà biết”, “có người khó khăn khốn khổ
mà biết”; “có người cứ yên vậy mà làm”, “có người do lợi mà làm”( Trung
dung, XX). Theo ông, hạng thứ nhất rất ít, chủ yếu trong xã hội hạng hai và
hạng ba là phần nhiều, muốn cho hai hạng này hữu đạo phải có “giáo”. Khổng
Tử cũng đưa ra mục đích của học tập: Trước hết là học để ứng dụng cho có
ích với đời và xã hội chứ không phải để làm quan sang, bổng hậu. Đối với

ông, học để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là đường đi của quân tử. Hai
là học để có nhân cách “Những vị vua, những vị thánh thưở xưa muốn cho
đức của mình được tỏa sang, trước hết phải sửa trị nhà mình. Muốn sửa trị
nhà mình, trước hết phải tu tập lấy mình, thấu suốt đạo của trời đất, để giữ
lòng ngay thẳng” [13,159] rồi “ kẻ đi học xưa kia lo vì mình, ngày nay kẻ đi
học là vì người” ( Luận ngữ, Hiến văn). Thứ ba, mục đích của học tập còn là
để tìm tòi đạo lý, ông định nghĩa “giáo dục là tu sửa cái đạo làm người”. Như
vậy với những quan điểm nêu trên Khổng Tử cho rằng con người không chỉ
học văn mà còn phải học lễ, học đạo, làm cho được “ tin tưởng sâu sắc, hiếu


×