Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luan van tư tưởng và tấm gương hồ chí minh về đào tạo, sử dụng người hiền tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.7 KB, 115 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ ngàn xưa dân tộc ta đã khẳng định: "Hiền tài là nguyên khí quốc
gia", "dựng nước lấy việc học làm đầu, trị nước lấy nhân tài làm gốc" và lịch
sử dân tộc ta cũng đã để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu về đào tạo, sử
dụng người hiền tài. Truyền thống này được Hồ Chí Minh nâng lên thành tư
tưởng chiến lược và chính Người đã thực hiện xuyên suốt một cách thành
công trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ngay sau khi tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định con đường
giải phóng cho toàn thể dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy khâu đột
phá quan trọng nhất và sự chuẩn bị chiến lược tốt nhất cho cách mạng chính
là vấn đề đào tạo cán bộ, đào tạo người tài đức phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng. Ngay từ năm 1925, Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu
nước, có tri thức vào Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, Người đã trực tiếp
vun trồng đạo đức, lý tưởng cách mạng và phát triển tài năng của họ để phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng. Người nêu chân lý: "Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng Người" [48, tr. 222], do đó, bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vừa "hồng", vừa "chuyên" là một việc
làm rất quan trọng và cần thiết.
Hồ Chí Minh không những chủ trương phát triển giáo dục, đào tạo
người có đức, có tài cho cách mạng mà chính Người còn phát hiện, thu hút,
bồi dưỡng và trọng dụng hiền tài. Trong những ngày đầu sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công, đất nước ta đứng trước nhiều nhiệm vụ cấp bách: kiến
thiết và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi: Nhân tài và kiến quốc,
trong đó Người khẳng định: "Nhân tài nước ta dù chưa nhiều lắm, nhưng chúng
ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển
càng thêm nhiều" [43, tr. 99], trong chỉ thị Tìm người tài đức, Người nhấn



2

mạnh: "Nước nhà cần kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20
triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức" [43, tr. 451]. Với tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc, tin ở con người, tin ở nhân dân, tin ở lòng yêu
nước, khả năng tiềm ẩn ở mỗi con người và với tình cảm chân thành, sức cảm
hóa của mình, Hồ Chí Minh đã cuốn hút được rất nhiều người tài đức, nhất là
các nhân sĩ, trí thức cũ và mới rất nổi tiếng, thậm chí cả những người phục vụ
trong chế độ cũ, các nhà khoa học đã thành danh ở nước ngoài trở về với dân
tộc, cống hiến tài năng của mình cho công cuộc kiến thiết và bảo vệ nền độc
lập của dân tộc.
Hơn 80 năm qua, dưới ánh sáng tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh
về đào tạo, sử dụng người hiền tài, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm phát
triển giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng được nhiều cán bộ thực sự có đức,
có tài, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn trong công cuộc đổi mới. Tuy
nhiên, công tác đào tạo và sử dụng người có đức, có tài vẫn còn không ít hạn
chế, khuyết điểm: "Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người có đức, có tài" [18, tr. 110]. Tình
trạng "chảy máu chất xám", thiếu hụt người có đức, có tài lãnh đạo, quản lý
trên mọi lĩnh vực, đang trở thành nguy cơ làm giảm khả năng cạnh tranh và
kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, sự suy thoái
đạo đức, lối sống của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhất là tệ tham
nhũng, cửa quyền, mất dân chủ, những biểu hiện cơ hội, luồn lách để chạy
chức, chạy quyền, chạy bằng cấp… đang làm cho xã hội bất an, Đảng ta lo
lắng, lòng dân không yên.
Thế kỷ XXI, là thế kỷ của nền văn minh trí tuệ với kinh tế tri thức và
xã hội thông tin, trong đó đội ngũ trí thức đặc biệt là người hiền tài, càng
được coi là vấn đề cốt yếu đối với sự phát triển. Đất nước ta đang đứng trước
nhiều thời cơ và thách thức to lớn của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc

tế. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước tiến nhanh, bền vững, chúng ta cần khắc phục


3

những yếu kém nói trên và khẩn trương phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, nhất là phát triển giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng những người có
đức, có tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì
vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta cũng đã nhấn mạnh, trong
công tác cán bộ cần phải "Có cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài" [17, tr. 137]
và coi đây là giải pháp quan trọng trong việc thực hiện chiến lược cán bộ.
Điều này cho thấy, nghiên cứu, học tập tư tưởng và tấm gương Hồ Chí
Minh về đào tạo, sử dụng người hiền tài trong thời kỳ hiện nay là rất cần thiết,
vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, vẫn là nền tảng vững chắc,
là kim chỉ nam soi sáng cho Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện chiến
lược phát triển giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người có đức, có tài
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ nhận thức đó, tác giả chọn vấn đề "Tư tưởng và tấm gương Hồ
Chí Minh về đào tạo, sử dụng người hiền tài" làm đề tài luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhận thức được vai trò của người hiền tài đối với sự hưng thịnh của
mỗi quốc gia, các nhà hoạt động chính trị cũng như các nhà khoa học ở nhiều
lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn trong nước cũng như trên thế giới quan
tâm nghiên cứu từ những góc độ khác nhau. Có thể dẫn ra một số tác giả và
công trình nghiên cứu tiêu biểu:
Tác giả Trần Đương (Chủ biên), trong cuốn Bác Hồ với nhân sĩ, trí
thức, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, năm 2008. Tác giả đã chắt lọc nhiều

nguồn tư liệu, sách báo, nghi chép những lời kể của các nhân chứng, hệ thống
hóa thành những bài viết hết sức cảm động xung quanh mối quan hệ và ảnh
hưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với các nhân sĩ, trí
thức trong giai đoạn đầu đất nước mới giành được độc lập.


4

Trong cuốn Bác Hồ cầu hiền tài của các tác giả Sơn Tùng, Trần
Đương, Trần Đại Nghĩa, nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, năm 2006, đã tuyển
chọn những bài viết ghi lại những câu chuyện cảm động kể về Hồ Chí Minh
trọng dụng các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng thời kỳ đầu Cách mạng Tháng Tám
và hồi ức, ấn tượng của các vị đó về Hồ Chí Minh, và một số bài báo, thư từ
của Hồ Chí Minh về việc cầu hiền tài.
Tác giả Đức Vượng trong cuốn Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng
dụng nhân tài, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010. Tác giả đã
trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ; quá trình Hồ Chí Minh đào
tạo, rèn luyện và sử dụng cán bộ, sử dụng nhân tài qua các giai đoạn cách
mạng để giành độc lập, kháng chiến và kiến quốc.
Trong cuốn Hồ Chí Minh với nhân tài và kiến quốc do Phạm Như Hà
sưu tầm và tuyển chọn, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm 2007,
đã giúp cho người đọc hiểu thêm tấm gương Hồ Chí Minh về trọng dụng
người hiền tài và lòng cảm phục, sự kính trọng, niềm tin yêu sâu sắc của họ
đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tác giả Phạm Hồng Tung (Chủ biên) trong cuốn sách Lược khảo về
kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam,
nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008, đã đánh giá một cách tương
đối toàn diện và súc tích về những mặt tích cực, những mặt hạn chế về mặt
thực tiễn đào tạo và trọng dụng nhân tài, hiền tài của cha ông ta trong lịch sử.
Tác giả Nguyễn Hoàng Lương, Phạm Hồng Tung (chủ biên) trong cuốn

Tài năng và đắc dụng (Nghiên cứu về một số nhân tài tiêu biểu ở Việt Nam và
nước ngoài), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008, đã nghiên
cứu một số nhân tài tiêu biểu ở Việt Nam và nước ngoài, trong đó có đề cập
"Hồ Chí Minh và việc đào tạo thế hệ nhân tài dựng Đảng - cứu quốc".
Tác giả Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng trong cuốn Nhân tài
trong chiến lược phát triển quốc gia, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,


5

năm 2004. Tác giả đã giới thiệu khái quát về những phẩm chất cần có của
nhân tài; kinh nghiệm đào tạo và sử dụng nhân tài của cha ông ta và một số
quốc gia trên thế giới; thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho đất nước ta trong tiến trình hội nhập.
Tác giả Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (Chủ biên), trong cuốn Tôn
trọng trí thức, tôn trọng nhân tài - kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước
(Sách tham khảo), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008, đã
trình bày tư tưởng Đặng Tiểu Bình về nhân tài; về đường lối tổ chức và việc
xây dựng đội ngũ cán bộ; những tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng và giáo
dục nhân tài; về tuyển chọn nhân tài ưu tú; về sử dụng và bố trí nhân tài; về
tạo môi trường cho nhân tài phát triển, về cải cách chế độ nhân sự trong việc
sử dụng nhân tài… Đây là cuốn sách có giá trị lớn, giúp người đọc hiểu thêm
tư tưởng Đặng Tiểu Bình về nhân tài, từ đó rút ra những bài học, kinh nghiệm
cho công tác phát triển nhân tài ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
Các công trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu kinh nghiệm đào tạo,
sử dụng nhân tài, hiền tài trong lịch sử; phân tích làm rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh về đào tạo cán bộ và sử dụng nhân tài; các mẩu chuyện thể hiện tư
tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng người hiền tài trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Liên quan đến đề tài còn có một số bài báo khoa học đăng tải trên các

Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Lịch sử Đảng, tạp chí
Giáo dục… của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý trong nước như:
"Nhân tài tiềm ẩn đang chờ con mắt tinh đời của người lãnh đạo" của Nguyễn
Văn Chiến, năm 2004; "Một đội ngũ chuyên gia chất xám và hiền tài đang bị "bỏ
quên"" của Phạm Côn, năm 2004; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển giáo
dục, đào tạo nhân tài" của Chu Thái Thành, năm 2005; "Phát triển nhân lực, đào
tạo và trọng dụng nhân tài" của Trịnh Gia Ban, năm 2005; "Để hiền tài thực sự
là nguyên khí quốc gia" của Thanh Hà, năm 2005; "Lựa chọn, bồi dưỡng hiền


6

tài - Truyền thống và yêu cầu bức thiết của cuộc sống" của Nguyễn Lân Dũng,
năm 2006; "Phát hiện người có đức, có tài để huy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
bổ nhiệm làm cán bộ lãnh đạo, quản lý" của Lê Thành Can, năm 2009; "Phát
hiện, đào tạo, sử dụng nhân tài" của Vũ Khoan, năm 2009; "Chăm lo, phát hiện,
đào tạo, bồi dưỡng nhân tài" của Nguyễn Văn Vinh, năm 2010; "Hồ chí Minh
với vấn đề nhân tài" của Nguyễn Văn Khánh, Phan Duy Anh, năm 2010.
Các công trình khoa học nói trên đã nghiên cứu kinh nghiệm đào tạo,
sử dụng hiền tài trong lịch sử; làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển giáo
dục, đào tạo nhân tài; thực trạng sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay và đã
hướng vào việc nghiên cứu phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người có
đức, có tài trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về đào tạo, sử
dụng người hiền tài. Song, những kết quả nghiên cứu đó đã tạo tiền đề và gợi
mở nhiều điều bổ ích cho tác giả trong việc nghiên cứu, đặc biệt là cung cấp
nguồn tài liệu, những luận cứ, luận chứng và phương pháp tiếp cận để tác giả
kế thừa khi thực hiện đề tài của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

Hệ thống hóa, luận giải và làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản cũng như
tấm gương Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng người hiền tài trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ đó, làm rõ sự cần thiết của việc học tập và
làm theo tư tưởng, tấm gương đó của Người trong việc phát triển giáo dục, đào
tạo và sử dụng người có đức, có tài trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản sau:
Một là, khái niệm "người hiền tài" và cơ sở hình thành quan điểm của
Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng người hiền tài.


7

Hai là, những nội dung cơ bản của quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo
và sử dụng người hiền tài.
Ba là, tấm gương Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng người hiền tài
trong cách mạng giải phóng dân tộc và việc học tập, làm theo tư tưởng, tấm
gương đó của Người trong thời kỳ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là cơ sở hình thành và những quan điểm cơ bản
cũng như tấm gương Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng người hiền tài được
thể hiện trong các tác phẩm chủ yếu cũng như trong hoạt động thực tiễn của
Người qua các thời kỳ hoạt động cách mạng.
Những vấn đề cơ bản trong học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
Hồ Chí Minh về đào tạo, sử dụng người hiền tài trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí

Minh và quan điểm của Đảng ta về đào tạo, sử dụng người hiền tài; về trí
thức; về cán bộ và công tác cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quán triệt cơ sở lý luận và phương pháp luận nêu trên, luận văn còn
sử dụng các phương pháp phân tích, lịch sử, lôgic, tổng hợp, thống kê, so
sánh và một số phương pháp cụ thể khác.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Góp phần làm rõ tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về đào tạo, sử
dụng người hiền tài trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nêu bật


8

được thực trạng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm sử dụng người có
đức, có tài ở nước ta hiện nay.
7. Giá trị lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ lý luận Hồ Chí
Minh về đào tạo và sử dụng người hiền tài trong cách mạng Việt Nam.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, tuyên
truyền và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, về cán bộ và công tác
cán bộ của Đảng ở các trường chính trị, các trường đại học và cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


9
Chương 1
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC ĐÀO TẠO
VÀ SỬ DỤNG NGƯỜI HIỀN TÀI CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM "NGƯỜI HIỀN TÀI" VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO, SỬ DỤNG NGƯỜI HIỀN TÀI

1.1.1. Khái niệm "người hiền tài" và các khái niệm có liên quan
1.1.1.1. Về "người hiền tài"
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, hiền tài là "người có
đủ đức tài" [98, tr. 421]. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, hiền tài là "người có
đức hạnh, tài năng" [112, tr. 802]. Như vậy, hiền tài được thể hiện ở hai mặt
cơ bản. Đức hạnh, tức là người có đạo đức và hạnh kiểm tốt, nó thể hiện ở
những phẩm chất như: công minh, chính trực, đúng mực, nghiêm túc, trách
nhiệm và tận tụy trong công việc, nhân ái, nghĩa tình trong quan hệ ứng xử
với mọi người… Tài năng, tức là người học cao, hiểu rộng, thông minh, tài trí
hơn người, có khả năng vận dụng những điều đã học, đã biết vào cuộc sống.
Khái niệm hiền tài đã được sử dụng rất sớm trong lịch sử và ngôn ngữ
dân tộc Việt Nam. Thời vua Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung (1418-1499)
đã viết: "Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh mà vươn cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp" [80, tr. 86].
Vì vậy, "Đất nước thịnh vượng tất ở việc cử hiền. Người làm vua thiên hạ
phải lo công việc đó trước tiên" [59, tr. 114]. Hay trong văn bia khoa thi năm
1715 cũng có ghi "Vận hội nước nhà được thịnh vượng, cơ đồ được vững
vàng vì có hiền tài đông đúc như cây trong rừng" [59, tr. 115].
Khái niệm hiền tài theo quan điểm của ông cha ta là những người tài
đức vẹn toàn. Tài năng của họ được biểu hiện ở việc học rộng, hiểu nhiều, có
đủ tài giúp vua trị nước, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân; có đức


10
hạnh, là người gương mẫu về đạo đức, suốt đời chăm lo tu dưỡng phẩm hạnh
cho bản thân, đem hết tài năng và đức hạnh phục vụ cho đất nước. Đó là
người lấy trung nghĩa mà rèn cho danh thực hợp nhau, thực hành điều sở học,

làm nên sự nghiệp vĩ đại sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng
thành danh, mến mộ khí tiết như ông cha ta đã từng nhắc đến.
Người hiền tài có quan hệ chặt chẽ đến sự thịnh suy của một triều đại,
đóng vai trò định đoạt vận mệnh của một quốc gia, dân tộc. Vì vậy, bất cứ
thời đại nào, chế độ xã hội nào cũng cần coi trọng hiền tài, nhưng khác nhau
về mục đích sử dụng. Trong chế độ có đối kháng giai cấp, giai cấp thống trị sử
dụng người hiền tài để duy trì, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp mình.
Theo Khổng giáo, nho sĩ là hình ảnh những người chính nhân quân tử bên
cạnh việc thuộc làu kinh sử, thông thạo sách thánh hiền, phải có đủ ba phẩm
chất: có trách nhiệm cao, có lòng tự trọng và dũng cảm, khi cần ra giúp nước,
thường giữ vai trò mưu sĩ cho vua. Có thể thấy quan niệm của Khổng Tử về
người quân tử, trí thức xưa là tiến bộ nhất trong xã hội phong kiến vốn phân
biệt giàu nghèo, đẳng cấp.
Sự cống hiến của người hiền tài thường có ý nghĩa lớn, rất sáng tạo.
Họ là những người có tư duy mang tính chiến lược, chiến thuật cao. Trong
hoạt động, hiệu quả công việc của họ có tầm cỡ quốc gia và có tác động lớn
đến xã hội. Đó là kết quả của quá trình công phu học tập, lao động, rèn luyện
mà thành. Lẽ dĩ nhiên, họ có tư chất và năng khiếu bẩm sinh nhưng để trở
thành một hiền tài, họ đã trải qua quá trình khổ công học tập và rèn luyện
không ngừng mới có được, đặc biệt là phải có cái tâm.
Những người hiền tài luôn góp phần to lớn vào sự phát triển tiến bộ
của xã hội. Trong lịch sử những người có đức, có tài, có công lớn được tôn
vinh là hiền nhân, hiền tài, bậc thánh hiền… Họ được ca ngợi là "phú quý bất
đăng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" (phú quý không làm


11
mê muội, nghèo khổ không làm lay chuyển, bạo lực không sợ hãi). Hiền tài
thời nào cũng có, thời nào cũng rất cần hiền tài, họ là những người tạo nên trụ
cột của quốc gia. Việc quan niệm về hiền tài ở mỗi thời đại có những điểm

khác nhau, nhưng đào tạo và sử dụng người có đức, có tài luôn luôn là một
vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với mỗi triều đại trong việc xây dựng quốc gia
hưng thịnh, lãnh thổ vững bền.
Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa về hiền tài. Nhưng nghiên cứu
các bài nói, bài viết về cán bộ, về trí thức cũng như việc sử dụng cán bộ, trí thức
trong hoạt động thực tiễn cách mạng của Người. Chúng ta thấy, Hồ Chí Minh
đã đề cập đến việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng kẻ hiền năng;
những người có tài, có đức; người có tài năng, có đức hạnh rất Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, người hiền tài là "những người có công tâm, trung
thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân
làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác…" [43, tr. 22];
là "người có tài năng, có đức hạnh, giúp đỡ cho dân, cho nước" [43, tr. 43]; là
"người làm những việc ích nước, lợi dân", là người "hăng hái nhất, thông
minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất" [44, tr. 262].
Qua các câu trích dẫn ở trên, ta thấy hiền tài theo Hồ Chí Minh là
người có phẩm chất toàn diện về mọi mặt, có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống tốt, có trình độ hiểu biết, chuyên môn nghiệp vụ cao, trước hết là người
vừa có đức, vừa có tài.
"Đức" theo Hồ Chí Minh bao hàm cả phẩm chất chính trị, tư tưởng, đó
là lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; là sự giác ngộ
mục tiêu, lý tưởng, chiến đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ở đây, Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống của phương Đông trong quan niệm
về "đức". Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã đưa vào đó những nội dung mới cho
phù hợp với thời đại mới. Nếu ông cha ta xưa, xem xét tiêu chuẩn về "đức"


12
của người hiền tài là người "trung quân, ái quốc", tuyệt đối trung thành với
vua, trung với vua là yêu nước, trung thành với vua thì phải "làm tôi tận
trung" và "quân sử thần tử, thần bất tử bất trung", ai làm trái lời thề, thần linh

giết chết (Hội thề đồng của các quan lại đời Lý - Trần). Trong thời đại mới,
theo Hồ Chí Minh, người hiền tài trước hết cũng phải là người tận trung, tận
hiếu, nhưng là trung với nước và hiếu với nhân dân.
Trung với nước là đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và cách mạng lên
trên hết, trước hết; quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng đó là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với tinh thần hy sinh chiến đấu,
lao động quên mình; thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; hăng hái thi đua yêu nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
trong mọi tình huống.
Hiếu với dân tức là hiếu với nhân dân, hiếu với dân tộc. Hiếu với dân
được thể hiện ở việc phát huy quyền làm chủ của dân, tin dân, học dân, lắng
nghe ý kiến của nhân dân, hòa mình với nhân dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân
làm gốc. Không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
"Đức" còn là đạo đức, lối sống cao đẹp, ở tính cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư; ở nếp sống giản dị, trong sạch, lành mạnh; tấm lòng nhân ái,
bao dung, yêu thương con người, chân tình với đồng chí, với bè bạn; tính
nghiêm khắc với bản thân để giữ cho mình luôn được chính tâm, "lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ", "giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không
chuyển lay, uy vũ không khuất phục", phải gương mẫu về mọi mặt.
"Tài" của hiền tài bao gồm trình độ học vấn, trình độ nhận thức lý
luận, trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ; là sự làm chủ các tri thức
khoa học, có hiểu biết và năng lực thực hành chuyên môn tốt, là sự khám phá,
chinh phục các đỉnh cao khoa học, kỹ thuật; là sự sáng tạo cải tiến nâng cao
năng suất và hiệu quả lao động. Tài năng của người hiền tài là biết nhìn xa,


13
trông rộng, thể hiện ở năng lực xử lý các tình huống đột xuất, khả năng phân
tích, dự đoán, nắm thời cơ, đưa ra được những quyết sách táo bạo, xoay
chuyển tình hình ở những thời điểm quyết định. Tài năng còn được thể hiện ở

việc dùng người, biết huy động trí tuệ và năng lực của mọi người, ở quá trình
vận động, tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân hăng hái thi đua chiến đấu,
lao động sản xuất, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng, của đơn
vị, của địa phương, nghĩa là phải có tài làm cho dân tin, dân phục, dân theo.
Rõ ràng, người hiền tài có năng lực vượt trội hơn hẳn người bình
thường trong một hay nhiều lĩnh vực hoạt động nào đó, biểu hiện ở hiệu quả
và hiệu suất tư duy và hành động. Người hiền tài có năng lực lớn, luôn luôn
hoàn thành xuất sắc công việc, dù có nhiều khó khăn, trở ngại.
Cần lưu ý rằng, Hồ Chí Minh xem "đức" và "tài" là hai mặt thống nhất
trong một con người, nó không thể tách rời nhau, nếu thiếu một trong hai thứ
đó thì không thể trở thành người hữu ích chứ đừng nói đến trở thành hiền tài.
Khi đánh giá một con người thì đạo đức luôn đặt ở vị trí đầu tiên, bởi vì đối
với những người càng tài giỏi, giữ các chức vụ càng quan trọng mà thiếu đức
thì sự phá hoại càng lớn. Vì thế, nhân dân ta cũng luôn luôn nói việc kén chọn
người hiền tài, hoặc người tài đức, thậm chí là nhân tài, ít nói kén chọn người
chỉ có tài. Hồ Chí Minh thấm nhuần lời dạy của cổ nhân:
Tài mà không có đức dễ làm gian
Dũng mà không có đức dễ thành bại
Biện mà không có đức dễ lừa dối
Trí mà không có đức dễ thành xảo quyệt.
Do đó, đức so với tài, đức luôn ở ngôi vị thứ nhất, là cội rễ, còn tài ở vị
trí thứ hai. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh nói đức là gốc của tài, không có nghĩa là
tuyệt đối hóa yếu tố đạo đức, xem nhẹ yếu tố tài năng, mà Người muốn nhấn
mạnh vị trí của đạo đức trong chỉnh thể thống nhất đức - tài. Người nói: "Có


14
tài mà không có đức là hỏng" [48, tr. 492]. Và Người cũng nói: "Có đức mà
không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho
loài người" [48, tr. 172].

Tóm lại, như đã phân tích ở trên, người hiền tài theo quan điểm Hồ
Chí Minh là người hội đủ cả đức và tài. Khi dùng người hay đánh giá cán bộ,
Hồ Chí Minh chú trọng cả đạo đức và tài năng. Tài năng của con người chỉ có
thể hình thành và phát triển trên cái nền tảng vững chắc là đạo đức cách mạng
và chỉ khi nào giữ vững được đạo đức cách mạng thì tài năng đó mới thật sự
có ý nghĩa, thật sự có giá trị đối với cách mạng. Đạo đức cách mạng không
chỉ định hướng đúng đắn cho việc rèn luyện, phát triển tài năng mà đạo đức
cách mạng còn là động lực tinh thần to lớn thúc đẩy tài năng phát triển ở mỗi
người cách mạng.
1.1.1.2. Về nhân tài và chuyên gia
Về nhân tài
Theo cách hiểu thông thường, trong bất kỳ lĩnh vực hay trong một công
việc nào đấy, khi có vấn đề nảy sinh chưa ai giải quyết được, mà có người giải
quyết được vấn đề đó, người đó được gọi là người tài. Theo Từ điển tiếng Việt
của Viện ngôn ngữ học thì nhân tài là "người có tài năng xuất sắc" [98, tr. 688].
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, nhân tài là "người có tài" [112, tr. 1239].
Theo đề tài cấp Nhà nước KX.04.16/06-10, thuộc chương trình
KX.04/06-10 về: Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có
đưa ra định nghĩa:
Nhân tài là bộ phận ưu tú của trí thức. Họ là những người tài
giỏi, có những cống hiến, những công trình về lý luận chính trị, kinh
tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, có khả năng lãnh đạo, quản lý... Đó
là những con người học rộng, học sâu, giàu óc sáng tạo, tư duy sắc
sảo, có khả năng phán đoán, dự báo tốt, làm việc độc lập, tự chủ.


15
Đó là các nhà khoa học, nhà lý luận, nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà
giáo dục, nhà ngoại giao, nhà toán học, nhà hóa học… thực sự có
tài năng và cống hiến cho đất nước và nhân loại [108, tr. 22].

Còn hiền tài là bộ phận ưu tú của nhân tài. Hiền tài là người có tài
năng vượt trội và có nhân cách thực sự; là người hội đủ yếu tố tài và đức ở
trình độ cao.
Như vậy, ta thấy nhân tài và hiền tài đều là người có tài năng vượt trội,
giàu tính sáng tạo, có tư duy hết sức độc đáo, sắc sảo mà người bình thường
không có. Hiền tài, nhân tài thời nào cũng có và ở mọi lĩnh vực. Nhưng khi
nói hiền tài thì dứt khoát họ phải là người có tài cao, đức trọng. Hiền tài luôn
ở dạng tiềm ẩn, nếu chúng ta không khổ công phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng,
thu hút và có những chính sách sử dụng, đãi ngộ tốt thì chúng ta không những
mất nhân tài mà còn có khi mất cả hiền tài nữa.
Về chuyên gia
Thông thường, chuyên gia dùng để chỉ người có chuyên môn, được
đào tạo để hành nghề một cách có chuyên môn. Theo Đại Từ điển tiếng Việt,
chuyên gia là "người đi sâu nghiên cứu một lĩnh vực chuyên môn nào đó và
đã có hiểu biết sâu sắc về chuyên môn đó" [111, tr. 406].
Theo đó, chuyên gia trước hết là người có chuyên môn dựa trên một
nền tảng cơ bản và vững chắc của chuyên ngành đào tạo, của tích lũy kinh
nghiệm nghề nghiệp và sự công phu tự đào tạo suốt đời. Được coi là chuyên
gia phải là những người có trình độ chuyên môn cao, vượt trội hẳn so với số
đông thông thường. Sự vượt trội này được xác nhận bởi sức sáng tạo lớn, có
những cống hiến quan trọng và xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động và nghề
nghiệp của mình. Nhờ có trình độ cao, thông thạo và có uy tín cao trong giới
chuyên môn, có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng nghề nghiệp và trong xã hội
mà chuyên gia, nhất là những chuyên gia đầu đàn, đầu ngành có vai trò đặc


16
biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã hội; vai trò đó được thể hiện nổi
bật trong đào tạo nhân lực chất lượng cao và trong nghiên cứu khoa học, ứng
dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trong tổng kết thực tiễn, trong

tư vấn và phản biện đối với lãnh đạo, quản lý, trong hình thành đường lối,
chiến lược và chính sách quốc gia. Nói một cách vắn tắt, nói tới chuyên gia là
nói tới người tài, những người có tài năng, là tinh hoa của quốc gia, dân tộc.
Chuyên gia và đội ngũ chuyên gia, đó là đại biểu của trình độ và tiềm lực của
giới trí thức nước nhà.
1.1.2. Cơ sở chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo
và sử dụng người hiền tài
1.1.2.1. Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển truyền thống đào tạo, sử
dụng người hiền tài trong văn hóa chính trị Việt Nam
Do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, nước ta nằm trong khu vực khí
hậu nóng ẩm, nên cuộc mưu sinh của nhân dân vốn nhọc nhằn, vất vả, lại
thường xuyên đối đầu với các thế lực ngoại xâm, hoàn cảnh lịch sử đặt ra nhu
cầu khách quan cần có người tài đức làm "rường cột nước nhà". Trong trường
kỳ lịch sử, dân tộc Việt Nam rất coi trọng người hiền tài, coi đó là sức mạnh
nội sinh để chấn hưng đất nước và chống giặc.
Các triều đại phong kiến, ở các giai đoạn tiến bộ đều coi "chiêu hiền,
đãi sĩ" là việc trọng đại của đất nước. Trong chiếu khuyến dụ hào kiệt năm 1427,
vua Lê Thái Tổ có viết:
… Ta tuy làm chủ tướng nhưng một thì già yếu bất tài, hai
thì học ít biết nông, ba thì nhiệm vụ nặng nề khó gánh vác nổi… vì
thế ta nhún mình tỏ lòng thành thực khuyên các bậc hào kiệt đều
nên cùng nhau gắng sức, cứu đỡ muôn dân, đừng có kín tiếng giấu
tài, khiến thiên hạ phải hãm trong lầm than mãi mãi [8, tr. 58].


17
Thời vua Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Chiếu cầu hiền, chiếu hạ lệnh cho
các quan từ tam phẩm trở lên điều phải tiến cử một người, ai tiến cử đúng hiền
tài thì được thưởng; người nào có tài mà bị khuất, mà không ai tiến cử thì được
tự tiến cử. Hiền tài được tiến cử và tự tiến cử đều được vua trọng dụng. Thời

Tây Sơn, trong Chiếu cầu hiền tài của vua Quang Trung đã viết: "Nhà nước
làm chính trị phải dùng người hiền tài, triều đình dùng người phải xét lời bàn
của nhiều người. Ta lưu tâm việc trị nước, độc ý việc cầu tài" [54, tr. 115].
Từ xưa, việc tuyển chọn hiền tài đã được các bậc vua chúa anh minh
rất quan tâm và tuyển chọn thông qua một số phương pháp tuyển chọn như:
cầu hiền, khoa cử, tiến cử, tự tiến cử và nhiều hình thức linh hoạt khác nhau.
Tuyển chọn các bậc hiền tài không chỉ được tiến hành trong các quan văn,
quan võ mà còn mở rộng đến các làng nghề, các nghệ nhân, nghệ sĩ, trong các
tầng lớp nhân dân. Chính những tâm đức tốt đẹp của các bậc vua chúa đã là
lực hút mạnh mẽ để quy tụ hiền tài. Việc thi cử được coi trọng và tổ chức rất
chu đáo, thường chọn những người tài cao, đức trọng làm chánh chủ khảo.
Việc lựa chọn trạng nguyên được chính nhà vua ra đề và chấm thi. Việc sử
dụng hiền tài không kể thành phần xuất thân, như trong văn bia năm 1544 có
ghi "Dùng người hiền tài chẳng nệ giống nòi là đạo thông suốt từ xưa đến nay
chưa hề thay đổi" [54, tr. 116].
Về phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng hiền tài
Công việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng hiền tài được các triều đại
phong kiến tiến hành ngày càng chính quy và khoa học, đó là việc đào tạo
hiền tài qua các trường từ thấp đến cao, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bởi tư
tưởng Nho giáo. Điểm cốt lõi của tư tưởng này là "cử hiền", tức là qua thi cử
để kén chọn hiền tài, trong giáo dục lấy đào tạo và bồi dưỡng hiền tài làm
mục tiêu. Việc tiến cử hiền tài "bên trong tiến cử không kể người thân, bên
ngoài tiến cử không kể người thù oán, khảo sát căn cứ vào công sức, năng lực,


18
cứ có tài năng đức độ thì tiến cử, không trông ngóng báo đáp của người được
tiến cử" [54, tr. 110]. Học giỏi tất sẽ được trọng dụng "Học nhi ưu tắc sĩ", tức
là đề cao việc học trước, tuyển dụng sau và trước tiên là coi trọng "Vi chính vĩ
đức" nghĩa là làm việc chính sự lấy đức để thi hành. Người cầm quyền dù ở

cấp nào, nếu không liêm chính thì không gây được uy tín trong nhân dân và
công việc, như vậy sự nghiệp của họ trước sau cũng bị thất bại. Trong tư
tưởng Nho giáo, phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân thông qua nhân cách của
con người, người quân tử lấy lợi ích của đất nước, của nhân dân là trên hết,
còn kẻ tiểu nhân chỉ lo vun vén cá nhân. Nhân cách tốt ắt sẽ làm được việc
lớn, nhân cách xấu chỉ làm điều có hại.
Phương pháp đào tạo người tài của ông cha ta là khơi gợi, dẫn dắt học
sinh nắm vững những tri thức, các quan niệm, đòi hỏi người học phải hoàn
toàn chủ động, tìm tòi trong quá trình dạy và học, tư tưởng này phù hợp với tư
tưởng giáo dục hiện đại ngày nay là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo. Vấn đề giáo dục và đào tạo được các triều đại phong kiến rất quan
tâm, sau khi rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, năm 1070 vua Lý Công Uẩn đã
cho xây dựng Văn Miếu và chính nơi này đã trở thành trường đại học đầu tiên
ở nước ta, nơi đào tạo và tuyển chọn hiền tài. Trong khu vực Văn Miếu, nhà
Thái học mở rộng để cho học sinh học tập, lập thư khố đầu tiên để chứa sách.
Năm 1484, cho khắc bia ghi danh những người đỗ tiến sĩ để lưu truyền đến
đời sau. Đến thời nhà Nguyễn, nhà vua cấp lương bổng cho các giám sinh để
họ theo học ở kinh đô. Đáng chú ý là việc tuyển chọn hiền tài, các triều đại về
sau càng được tiến hành thường xuyên hơn để chọn được nhiều hiền tài. Sau
khi tuyển chọn được hiền tài, các triều đại phong kiến đều có quy định về các
chức sắc, vị trí trong xã hội phù hợp với học vấn và tài năng của từng người.
Người có học vị cao và thi đỗ cao thì phân bổ ngay, được nhận chức cao hoặc
được làm việc ở triều đình; người thi đỗ với học vị thấp thì làm quan ở phủ, ở


19
huyện, ai thi đỗ cao hơn thì được bổ nhiệm trước. Chế độ đãi ngộ hiền tài
cũng hết sức chu đáo: Các thí sinh đỗ đạt từ bậc tiến sĩ trở lên đều được nhà
vua đãi yến tiệc tại cung đình, được ban mũ áo, tước hiệu kèm theo các bổng
lộc, được rước vinh quy về làng và được bổ nhiệm ngay vào những chức vụ

xứng đáng. Trong việc sử dụng hiền tài, các triều đại phong kiến thường
xuyên tổ chức các đợt "khảo hạch" để bồi dưỡng thêm kiến thức và có chế độ
đãi ngộ phù hợp; có chính sách ban phát bổng lộc tùy theo phẩm cấp và công
trạng; sử dụng chế độ thưởng phạt nghiêm minh để phát huy tài năng và ngăn
chặn những việc làm sai trái.
Về sử dụng người hiền tài
Khi đã chọn được hiền tài, việc sử dụng hiền tài lại vô cùng quan
trọng, người xưa dùng nguyên tắc tùy tài mà giao việc và để tránh kéo bè, kéo
cánh, địa phương chủ nghĩa, chế độ phong kiến đã áp dụng hình thức định kỳ
thuyên chuyển quan lại từ nơi này sang nơi khác, có khi di chuyển rất xa, quy
định ai sinh ra ở địa phương nào thì không được làm quan ở địa phương đó.
Các triều đại phong kiến đã thực hiện chính sách không giữ chức quan
suốt đời hoặc thăng quan theo niên hạn theo kiểu "đến hẹn lại lên" mà có sự
đánh giá theo năng lực và đạo đức để bổ nhiệm lại. Điều này được thực hiện
là sau một thời gian làm việc, triều đình sát hạch để đề bạt, bố trí, sử dụng:
người đạt loại ưu thì đề bạt ngay, người đạt khá thì nâng theo niên hạn, người
đạt loại trung bình thì giữ nguyên, người đạt loại yếu thì thuyên chuyển làm
việc thấp hơn nếu vi phạm thì có thể cho về hưu hoặc sa thải… Cùng với việc
sát hạch quan lại, triều đình phong kiến cũng áp dụng chế độ thưởng, phạt để
đảm bảo tính nghiêm minh của phép nước, làm cho các quan lại tuyệt đối
trung thành với vua, chăm chỉ làm việc, thanh liêm, chính trực. Trong việc sử
dụng hiền tài, ông cha ta không chỉ chú ý vào bằng cấp, mà quan trọng hơn là
chú trọng người thực tài. Vì thế, cũng có người tuy không đỗ đạt cao, nhưng


20
cũng đã được đề bạt những chức vụ cao. Bên cạnh việc sử dụng hiền tài, ông
cha ta chú trọng đến việc tôn vinh các bậc hiền tài, những người có đức, có
tài, có công lớn với quê hương đất nước. Những người này được đích thân
nhà vua trọng thưởng tùy theo công trạng và khi chết đều được nhân dân thờ

cúng, suy tôn, là thần, là thánh.
Các triều đại phong kiến cũng đã đề ra những tiêu chuẩn về đức khi
lựa chọn hiền tài. Đó phải là người tuyệt đối trung thành với vua, chính trực,
ngay thẳng, không xu nịnh... Vua Lê Thái Tổ có chiếu: "Truyền các quan
không được lễ nghi khánh hạ, cấm tham lam hay lười biếng, coi công việc của
quốc gia là công việc của mình, lấy điều lo của dân làm điều lo thiết kỷ, khiến
cho xã tắc yên như Thái Sơn, cơ đồ vững như bàn thạch" [53, tr.192].
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên việc tuyển chọn,
đào tạo và sử dụng người hiền tài của các triều đại phong kiến vẫn còn nhiều
hạn chế. Nội dung đào tạo nặng về khoa học xã hội - nhân văn, nhẹ về khoa
học tự nhiên và khoa học kỹ thuật; thi cử thì quá nặng nề về phạm trường quy,
khiến một số người thực tài không đỗ đạt, đối tượng đào tạo là con em nhà
quý tộc hoặc giàu có, chưa chú ý đào tạo con nhà nghèo… Hạn chế lớn nhất
của các triều đại phong kiến là vua tôi cùng chung hoạn nạn, nhưng không
cùng nhau hưởng phú quý… Điều đó xuất phát từ tư tưởng cha truyền con
nối, sợ người khác chiếm quyền, vì thế mà đố kỵ hiền tài. Điều này xảy ra ở
nhiều triều đại, điển hình là triều Hậu Lê, Nguyễn Trãi và một số trung thần
tài năng kiệt xuất bị chết oan do gian thần hãm hại…
Trong lịch sử nước ta có nhiều tấm gương của những vị vua chúa anh
minh biết trọng dụng hiền tài, nổi bật nhất là vua Quang Trung. Ông không
những là người biết quý trọng hiền tài, mà còn là người biết sử dụng hiền tài.
Nếu so sánh trong lịch sử Trung Quốc có Lưu bị nổi tiếng ba lần đến lều tranh
để mời Gia Cát Lượng - Khổng Minh, thì ở Việt Nam có vua Quang Trung


21
năm lần đến mời Nguyễn Thiếp. Nếu so sánh về hoàn cảnh, Lưu Bị cầu
Khổng Minh lúc thế cô thì Quang Trung đến cầu Nguyễn Thiếp lúc ở đỉnh
vinh quang tối thượng. So sánh như vậy, để thấy ông cha ta quý trọng hiền tài
đến nhường nào.

Tóm lại, cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã để lại
những bài học quý báu, những tấm gương, những đúc kết của "phép trị nước",
đó là đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người hiền tài. Trọng đãi hiền tài chẳng
những thể hiện một chủ trương, một chính sách sáng suốt trong đường lối chính
trị an dân trị quốc của ông cha ta mà còn tỏ rõ giá trị và ý nghĩa cao cả của
những tư tưởng và triết lý nhân văn sâu sắc trong phép dùng người của các bậc
minh quân, có tầm nhìn xa trông rộng, biết trọng người tài đức, biết "chiêu hiền,
đãi sĩ" vì sự hưng thịnh và bền vững của quốc gia. Lịch sử dân tộc ta cũng để
lại nhiều bài học đắt giá, khi vua không minh lại không biết trọng dụng hiền tài
thì đất nước dễ rơi vào giặc giã, bị các tai ương khác rình rập, đời sống chính trị
không ổn định, lòng người ly tán, dẫn đến đổ vỡ cơ đồ. Hồ Chí Minh đã tiếp
thu bài học lịch sử, những quan niệm truyền thống về đào tạo và sử dụng hiền
tài, coi đó là nhân tố có tính quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
1.1.2.2. Hồ Chí Minh quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về đào tạo và sử dụng đội ngũ chuyên gia
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng chỉ rõ vai trò to lớn của
con người trong lịch sử; chính yêu cầu nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử sẽ đào
luyện ra đội ngũ đảm nhận trọng trách mà lịch sử đặt ra. C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn" [76, tr. 181]. Kế thừa tư tưởng đó V.I.Lênin cho rằng trong
lịch sử "chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không
đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [65, tr. 473].


22
Những con người sử dụng lực lượng thực tiễn, những lãnh tụ chính trị,
đó là đội ngũ cán bộ có tài năng đức độ, đội ngũ chuyên gia tài giỏi lãnh đạo
và tổ chức phong trào. Để có đội ngũ đó cần phải tiến hành đào tạo, nếu
không, Đảng không thể thực hiện được những tư tưởng, không thể tổ chức và

lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng, không thể thực hiện được
nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Do đó, cách mạng muốn thành công, theo
Lênin vấn đề then chốt là cần có một đội ngũ "cán bộ chuyên nghiệp", phải có
"những người cán bộ bản lĩnh", nếu không tất cả các mệnh lệnh, các quyết
định đều trở nên vô nghĩa, đều trở thành mớ giấy lộn.
Sau khi Cách mạng tháng Mười thành công, Lênin đã nêu một cách
đúng đắn vấn đề tiêu chuẩn lựa chọn những người có đầu óc tỉnh táo và bản
lĩnh thực tế, giao cho họ đảm nhiệm những chức vụ lãnh đạo nhân dân tiến
hành lao động, quản lý công tác. Trong thực tế, "có đầu óc tỉnh táo và bản lĩnh
thực tế" mà Lênin nêu ra chính là người có hội đủ cả đức và tài.
Chủ nghĩa Mác - Lênin còn cho rằng, người lãnh đạo cách mạng phải
có đạo đức cao cả, có kiến thức sâu rộng về lý luận, thực tiễn trong đấu tranh
cách mạng. Lênin nhấn mạnh: "Làm sao các đồng chí có thể quản lý được nếu
như không có được uy tín chuyên môn, làm sao có thể quản lý được nếu không
có kiến thức đầy đủ, nếu không tinh thông khoa học quản lý" [68, tr. 257]. Vì
vậy, Đảng Cộng sản và chính quyền Xôviết phải làm thế nào để "giữ gìn được
như con ngươi của mắt mình, tất cả những chuyên gia nào có khả năng, có lòng
yêu nghề của họ và làm việc một cách chân thành..." [70, tr. 429]; "Cần phải
trân trọng mọi chuyên gia như là thứ tài sản duy nhất về kỹ thuật và văn hóa,
mà không có cái đó thì không thể có chủ nghĩa cộng sản nào cả" [68, tr. 250].
Nhấn mạnh vai trò quan trọng của những chuyên gia, những cán bộ
lãnh đạo giỏi, những người tài trong sự nghiệp cách mạng. Lênin yêu cầu:
"Nhiệm vụ của chúng ta là qua thí nghiệm mà thu hút nhiều chuyên gia, rồi


23
bồi dưỡng lớp cán bộ mới, lớp chuyên gia mới để học cho bằng được công tác
quản lý, một công tác mới, hết sức khó khăn, phức tạp, để thay thế chuyên gia
cũ" [67, tr. 489]. Theo Lênin, chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể trở thành hiện
thực trên cơ sở một nền học vấn cao và khoa học - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại.

Do đó, khi Đảng Cộng sản nắm chính quyền, Lênin tập trung chú ý đào tạo
những chuyên gia, những nhà lãnh đạo, quản lý có học vấn cao, có trình độ
khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đây chính là động lực cơ bản nhất cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người viết: "không có sự chỉ
đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh
nghiệm, thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội được" [66, tr. 317]. Lãnh
đạo công cuộc xây dựng nước Nga đi lên chủ nghĩa xã hội, Lênin chủ trương
ra sức lựa chọn những người có tài tổ chức, quản lý ngay trong "hàng ngũ của
chính giai cấp chúng ta", đồng thời đánh giá cao chuyên gia tư sản và rất
mạnh dạn sử dụng họ với các ưu đãi đặc biệt trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vì lợi ích lâu dài của chủ nghĩa xã hội. Lênin thường nhắc nhở
việc lựa chọn, sử dụng chuyên gia phải thật sự khoa học, đúng vị trí và xuất
phát từ nhiệm vụ cách mạng, phải xét xem có lợi cho sự nghiệp không, và
người được chọn có xứng đáng với chức vụ người ấy đảm nhiệm không.
Kết quả của việc sử dụng chuyên gia có hữu hiệu hay không, theo Lênin,
trước hết được đánh giá bởi cách tiến hành công việc tuyển chọn chuyên gia,
ở chỗ biết phát hiện họ, biết sử dụng họ, biết thực sự cộng tác giữa các chuyên
gia và người cộng sản. Người nói: "Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách
duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được
nhiều, càng ngày càng nhiều chuyên gia..., biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề
bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ" [69, tr. 429]. Còn
những người đảng viên cộng sản nào chỉ bàn luận suông về "lãnh đạo" mà
không biết sử dụng, đề bạt, sắp xếp các chuyên gia làm việc, không biết làm


24
cho các chuyên gia đạt được kết quả thực tế, thì người đảng viên cộng sản đó
thật là vô dụng, ông đã phải thốt lên rằng ông sẵn sàng đổi một tá cộng sản tồi
để lấy một chuyên gia giỏi.
Trong điều kiện nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, vấn đề có ý

nghĩa đặc biệt trong việc xây dựng, đào tạo đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa,
đó là đào tạo đội ngũ trí thức kỹ thuật và sản xuất. Bởi vì, xét đến cùng chủ
nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản là ở "năng suất lao động cao hơn
chủ nghĩa tư bản" và có thể đảm đương được việc thúc đẩy sản xuất phát triển
chính là đội ngũ các nhà khoa học kỹ thuật. Muốn xây dựng một xã hội mới,
muốn có năng suất lao động cao, con người phải có tri thức khoa học, Lênin
nói: "chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xôviết cộng với điện khí hóa toàn
quốc". Nhưng điện khí hóa không thể do người mù chữ thực hiện được và
một học vấn thô sơ không thể áp dụng được công việc đó. Không có một nền
học vấn hiện đại thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện vọng mà thôi. Như
C.Mác và Ph. Ăngghen đã cảnh báo: "Sự ngu dốt là sức mạnh của ma quỷ và
chúng ta lo rằng, nó sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch" [75, tr. 166].
Lênin yêu cầu phải phát triển giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức có trình độ
"văn hóa cao" và những kiến thức chuyên môn sâu sắc trở thành những
"chuyên gia Xôviết" có đầu óc tổ chức và quản lý giỏi, có phẩm chất chính trị,
đạo đức và nghiệp vụ cao cùng với Đảng Cộng sản tham gia lãnh đạo quần
chúng nhân dân lao động xây dựng nước Nga hùng mạnh hơn.
Trong quá trình đào tạo đội ngũ tri thức non trẻ, Lênin cho rằng điều
kiện quyết định để thực hiện việc cải tạo kỹ thuật đối với nền kinh tế nước Nga,
là Nhà nước phải đào tạo được đội ngũ đông đảo hàng trăm, hàng nghìn cán bộ
kỹ thuật cao cấp. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước tư bản
nghèo, thì "cán bộ kỹ thuật quyết định tất cả" là điều kiện để tăng năng suất lao
động. Do đó, Đảng và Đảng bộ dân ủy giáo dục phải đề ra hàng loạt biện


25
pháp nhằm thống nhất quy chế đào tạo cán bộ trẻ các trường học, nâng cao tỉ
trọng hàng ngũ các chuyên gia, đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ kỹ thuật ở các
cộng hòa liên bang, "trẻ hóa" thành phần học sinh. Đặc biệt, cần đẩy mạnh việc
đào tạo nghiên cứu sinh để tiến tới xây dựng một đội ngũ bác học xã hội chủ

nghĩa. Thực tế sau này chứng minh, ở Liên Xô có đội ngũ các nhà khoa học,
bác học giỏi vào bậc nhất thế giới, có số lượng nhiều hơn Mỹ. Đó là do chính
sách đào tạo đúng đắn mà Lênin và chính quyền Xô viết đã khởi xướng.
Tóm lại, những quan điểm đúng đắn của V.I. Lênin về đào tạo và sử
dụng đội ngũ chuyên gia trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
đã có tác dụng to lớn đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Nhà nước. Đây là
một trong những cơ sở cực kỳ quan trọng hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về đào tạo, sử dụng người hiền tài trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.
1.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO
VÀ SỬ DỤNG NGƯỜI HIỀN TÀI

1.2.1. Về đào tạo người hiền tài
1.2.1.1. Tầm quan trọng của việc phát triển giáo dục để đào tạo hiền tài
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, người hiền tài có vị trí, vai trò cực kỳ
quan trọng đối với thành công của cách mạng. Hiền tài là vốn quý của dân tộc
và thời nào cũng cần, nhất là đất nước ta sau 80 năm bị kìm hãm dưới ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân cái gì cũng kém cỏi, lạc hậu, thiếu thốn trăm
bề, cần phải kiến thiết về mọi mặt: ngoại giao, kinh tế, quân sự, giáo dục. Do
đó, cần phải có nhiều người tài đức đảm đương, nhưng để có người tài đức thì
phải phát triển giáo dục. Giáo dục là một trong những khâu quan trọng nhất
trong việc đào tạo nên những người có đức, có tài, một nguồn nhân lực chất
lượng cao góp phần trực tiếp vào tiến trình lịch sử của dân tộc và thời đại.
Ông cha ta cũng từng khẳng định:


×