Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

skkn một số biện pháp nhằm nâng cao tỉ lệ chuyên cần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.94 KB, 14 trang )

1. Tên đề tài : Một số biện pháp nhằm nâng cao tỉ lệ chuyên cần.
2. Phần mở đầu
2.1. Lý do chọn đề tài
2.1.1. Cơ sở lý luận
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi
tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học
cao hơn. Nhà trường Tiểu học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành nhân cách cho trẻ em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá
trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng
học tập, rèn luyện của học sinh. Mục tiêu, nhiệm vụ của trường tiểu học là đem
đến cho trẻ em hạnh phúc được học tập, là làm cho trẻ em được hưởng thụ một
nền giáo dục tốt đẹp.
Việc duy trì sĩ số, nâng cao tỉ lệ chuyên cần trong các trường học, là một
chủ trương lớn của ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các
cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và
bồi dưỡng những tài năng của đất nước.
Vì chỉ trên cơ sở của sự phát triển phong phú, hài hoà có tính toàn diện
của nhân cách thì tài năng con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển một
cách cơ bản và bền vững. Ở những trường tiểu học việc duy trì tốt sĩ số học sinh,
học sinh được giáo dục toàn diện, được học đủ các môn học theo quy định, được
thực hiện các hoạt động khác; đặc biệt các em được học các thầy cô giáo có tâm
huyết, có tay nghề và tinh thần trách nhiệm cao, các em có đầy đủ các điều kiện
và phương tiện học tập, các em được phát triển trong môi trường giáo dục đầy
đủ, lành mạnh. Trong điều kiện đó, mỗi học sinh sẽ được phát triển theo khả
năng của mình để đạt chất lượng cao, để trở thành học sinh giỏi và là tiền đề cơ
bản để trẻ em tiếp tục phát triển và xuất hiện những tài năng sau này, các em sẽ
là chủ nhân tương lai của đất nước.

1



Việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần của học sinh đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập của các em. Nó là nền tảng
giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, mang lại kết quả tốt trong học
tâp. Tuy nhiên, việc nghỉ học, bỏ học vẫn thường xuyên xãy ra nhất là các em
học sinh ở vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn … Xác
định lí do học sinh không muốn đi học và bỏ học giữa chừng có rất nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân do học lực yếu, kém dẫn đến chán nản, bỏ
học là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp thuộc trách nhiệm của ngành Giáo dục
và Đào tạo.
Để duy trì, nâng cao hiệu quả công tác phổ cập giáo dục Tiểu học và đạt
chỉ tiêu phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi, đòi hỏi một trong những điều
kiện không thể thiếu được đó là việc duy trì sĩ số cho học sinh nói chung và học
sinh người dân tộc thiểu số nói riêng. Đây là vấn đề mà các cấp uỷ Đảng và
chính quyền địa phương quan tâm, chỉ đạo bằng các Nghị quyết của Đảng bộ
các cấp và chi bộ nhà trường.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Với trách nhiệm của một giáo viên Tiểu học, bất cứ người giáo viên chủ
nhiệm nào cũng mong muốn lớp mình phụ trách suốt từ đầu năm đến cuối năm
phải đảm bảo về duy trì số lượng và tỉ lệ chuyên cần, cũng như phải đạt yêu cầu
về mặt chất lượng học tập. Nhưng thực tế vô cùng phức tạp vì đối tượng học
sinh rất đa dạng, mỗi em có hoàn cảnh và điều kiện sống khác nhau, nếu giáo
viên không khéo léo thì khó mà duy trì số lượng và tỉ lệ chuyên cần của lớp
mình đạt như mong muốn.
Hướng Phùng là một xã vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số lại
đông, kinh tế còn nghèo, tri thức còn rất hạn chế. Các em thì chưa xác định được
việc học là quan trọng, có nhiều học sinh thích thì đi học, không thích thì ở nhà
đi chơi, cũng có những em phải ở nhà để giúp bố mẹ trông nhà, giữ em … Với
bản thân là một giáo viên đứng trên bục giảng, tôi luôn trăn trở về vấn đề này.

2



Đáp ứng yêu cầu thực tiễn đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Một số biện
pháp nhằm nâng cao tỉ lệ chuyên cần. Qua đó có thể trao đổi sáng kiến cùng
đồng nghiệp để dìu dắt cho thế hệ trẻ của chúng ta học tập tốt hơn.
2.2. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho học sinh lớp 5B.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng về tỉ lệ chuyên cần của học sinh lớp 5B.
2.4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
Học sinh lớp 5B, trường Tiểu học Hướng Phùng
2.5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp nêu gương.
Phương pháp điều tra.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp vấn đáp.
2.6. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng về tỉ lệ chuyên cần của học sinh lớp 5B qua đó đề ra
một số sáng kiến nhằm góp phần nâng cao tỉ lệ chuyên cần cho học sinh lớp 5B
nói riêng và học sinh ở các lớp trong toàn trường nói chung. Thời gian bắt đầu
từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015.
3. Nội dung
3.1. Thực trạng về tỉ lệ chuyên cần của học sinh ở trường Tiểu học Hướng
Phùng
Trường Tiểu học Hướng Phùng là trường vùng sâu, vùng xa có 5 điểm
trường cách xa nhau, học sinh chủ yếu là người Kinh và người Vân Kiều cùng
học tập với nhau. Địa bàn dân cư rộng nên việc xây dựng nề nếp, quản lý học
3



sinh còn gặp nhiều khó khăn. Học sinh người Vân Kiều chiếm khoảng 65 %, đa
số các em chưa xác định được việc học là quan trọng, có lúc thích thì đi học,
không thich thì ở nhà đi chơi. Nhà cách xa trường, đường sá đi lại khó khăn.
Điều kiện kinh tế gia đình học sinh còn thiếu thốn, họ chưa chú trọng đến việc
học của con em. Nhiều em vừa đi học vừa làm việc phụ giúp gia đình như trông
nhà, giữ em, hái cà phê … Bên cạnh đó cũng có một số em lực học yếu, tiếp thu
bài chậm nên không thích đi học …
Trẻ em thuộc gia đình nghèo , đông con , các em không có áo quần lành
lặn để đến lớp như bao bạn khác. Những học sinh này thường mặc cảm , tự ti về
hoàn cảnh, tự cho thân phận của mình không bằng bạn bè , tự tách biệt khỏi tập
thể, các em luôn cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương và chán nản dẫn đến bỏ
học .
Phần đa học sinh dân tộc, bố mẹ các em không biết chữ, nên khi đi học
về không có ai kèm, dẫn đến học yếu, nhác học.
Có một số em ngôn ngữ Tiếng Việt còn hạn chế , các em phát âm rất khó,
tiếp thu bài cũng chậm đâm ra chán nản , và không thích đi học
Trẻ em thuộc gia đình thiếu bố ( mẹ) hoặc thiếu cả bố lẫn mẹ ; Tức là bố
mẹ ly hôn hoặc mất. Số trẻ em này thường có tính khí bất thường , hay quậy
phá, hờn giận , đánh nhau, tự ti, lúc nào cũng mặc cảm, tự cho mình thua kém và
tự xa lánh bạn bè …
Trẻ em thuộc gia đình có mức kinh tế trung bình, không đông con, nhưng
bố mẹ ít quam tâm đến con cái, lo kiếm sống, suốt ngày để các em lêu lổng ,
không quản lý giờ giấc. Số trẻ này rất tự do, bừa bãi, hay quậy phá, học ít chơi
nhiều, hay trốn học, thường nói dối cha mẹ, thầy cô, hay cãi lại người lớn,
không biết nghe lời, có khi các em đi học nhưng lại không đến lớp mà lang
thang ở dọc đường, quán xá …
Từ những khó khăn trên dẫn đến nhiều năm liền tại Trường Tiểu học
Hướng Phùng có tỉ lệ chuyên cần chưa cao. Đặc biệt là ở các lớp có đông các
em người dân tộc Vân Kiều.

4


Vào thời điểm đầu năm (tháng 9, tháng 10) học sinh lớp 5B của tôi có số
học sinh vắng học không phép rất nhiều, cụ thể :
Số buổi vắng
TT

Học và tên học sinh
Tháng 9

Tháng 10

1

Hồ Đây Ra

14

9

2

Hồ Thị Trai

8

5

3


Hồ Văn Hưng

5

6

4

Hồ Văn Hời

7

5

5

Hồ Văn Mạnh

6

7

6

Hồ Văn Liệu

4

5


7

Hồ Văn Vinh

5

3

8

Hồ Thị Khởi

4

3

9

Hồ Văn Chuân

4

2

3.2. Giải pháp
3.2.1. Phương pháp điều tra
Khảo sát hoàn cảnh học sinh
Với tôi, đây là một việc quan trọng, biết được hoàn cảnh của từng em từ
đó tìm ra cách phù hợp để vận động các em đi học đều một cách hiệu quả.

Sau ngày tập trung học sinh, tôi đã có danh sách trích ngang ghi rõ họ tên,
nghề nghiệp cha mẹ; Hoàn cảnh sinh sống của gia đình: Nắm xem bao nhiêu em
thuộc diện hộ nghèo, bao nhiêu em hộ cận nghèo, bao nhiêu em có điều kiện
thuận lợi ? Công việc thường ngày của học sinh ở nhà và là đứa con thứ mấy?
5


Ngoài ra, tôi còn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp năm trước để nắm rõ
hơn về hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Sau đó tôi tập hợp thành một
quyển sổ theo dõi, phân loại đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh
khó khăn có nguy cơ bỏ học.
Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện pháp
giáo dục thích hợp. Sau đó tôi theo dõi sĩ số học sinh hằng ngày, đặc biệt là
những em hay vắng học rồi tìm hiểu hoàn cảnh của những học sinh hay nghỉ học
và những học sinh có nguy cơ bỏ học. Một trong những yếu tố quan trọng là tìm
hiểu môi trường và hoàn cảnh sống của các em, bởi vì đó chính là cái nôi nuôi
dưỡng và hình thành nhân cách của các em ngay từ thuở ban đầu. Để các em
hình thành cho mình một hướng đi tốt nhất.
Tôi đã khảo sát tình hình trong lớp, cụ thể như sau:
HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH

SỐ LƯỢNG

Tổng số học sinh trong lớp

30

Hộ nghèo

18


Cận nghèo

6

Bình thường

5

Khá giả

1

Với hoàn cảnh gia đình các em trong lớp chủ nhiệm của tôi học sinh thuộc
gia đình hộ nghèo và cận nghèo chiếm tỉ lệ hầu hết như thế đã đặt ra cho bản
thân tôi một thử thách lớn, tôi đã xác định được mình phải làm gì để có thể đưa
phong trào học tập chuyên cần của lớp mình ngày càng đi lên.
Ở tuần học đầu tiên, tôi sinh hoạt với học sinh trong lớp rất kĩ về nội quy
nhà trường, trong đó có phần quy định: Học sinh phải đi học đều và đúng giờ,
nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép. Tổ chức họp phụ huynh học

6


sinh đầu năm, tôi cũng thông báo cho phụ huynh biết về quy định này và nhờ
phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở.
Đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học ( vì cha mẹ đi làm không
có ở nhà) , hết giờ dạy, tôi lập tức đến ngay nhà những em này gặp phụ huynh
tìm hiểu nguyên nhân và trao đổi cách khắc phục.
3.2.2. Phương pháp nêu gương

Xây dựng những tấm gương đi học chuyên cần
Muốn khơi dậy một phong trào học tập chuyên cần trong tập thể lớp học,
trước hết, tôi tìm hiểu tình hình học tập của học sinh trong lớp của mình ở năm
học trước xem những em nào thường xuyên đi học chuyên cần và những em nào
hay nghỉ học – chưa chuyên cần trong học tập.
Khơi dậy niềm đam mê trong học tập.
Theo tôi, mọi việc làm thành công đều bắt đầu bằng đam mê, học sinh
đam mê học tập sẽ đi học đều hơn, chuyên cần hơn. người giáo viên phải có
nhiều biện pháp để thu hút sự chú ý của các em trong việc học tập. Đồng thời
tôi đưa ra biện pháp giáo dục trực tiếp, gần gũi, an ủi động viên và khích lệ kịp
thời những kết quả đạt được, dù những ưu điểm nhỏ nhất để các em có hứng thú
và thích đi học... Từ đó, vào các buổi học, tiết sinh hoạt tôi nêu gương những em
tích cực học tập và đi học chuyên cần để cho học sinh cả lớp noi theo.
Trong tiết sinh hoạt cuối tuần, sau khi nghe các tổ trưởng báo cáo, tôi cho
lớp tuyên dương những tổ đạt duy trì sĩ số suốt cả tuần để làm gương cho lớp và
khen những em có tiến bộ về mặt học tập để các em thấy nhiệm vụ học tập của
mình và mỗi ngày đến trường thật sự là một ngày vui.
Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, tôi nhắc nhở nhẹ nhàng kèm
theo hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn.
Ngoài ra tôi còn nêu gương các anh, chị học sinh những năm trước dù đầu
năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm cũng đã đạt loại

7


Khá, Giỏi để củng cố lòng tin nơi các em giúp các em tự tin hơn trong học tập.
Từ đó, các em các em học tập tích cực hơn, đi học chuyên cần hơn.
3.2.3. Phương pháp thống kê
Hằng ngày, tôi theo dõi ngày nghỉ của học sinh và thống kê vào bảng để
nhắc nhỡ các em. Bên cạnh đó, bảng thống kê ngày nghỉ học sinh cũng giúp tôi

biết được em nào nghỉ bao nhiêu buổi để về tận gia đình tìm hiểu và động viên
các em đến lớp và thống kê ngày nghỉ vào sổ theo dõi chất lượng học sinh. Bảng
thống kê được thể hiện qua mẫu sau :
BẢNG THEO DÕI CHUYÊN CẦN THÁNG 9
NGÀY NGHỈ TRONG THÁNG
TT

TỔNG HỢP

HỌ VÀ TÊN

Có phép

1

Hồ Văn Chánh

2

Hồ Văn Chuân

3

Hồ Anh Đức

Không phép

Có phép

Không

phép

3.2.4. Phương pháp vấn đáp
Trao đổi trực tiếp với học sinh để biết được những khó khăn vướng mắc
của các em. Nhằm giúp các em tháo gỡ khó khăn để đi học đều, chuyên cần hơn.
Với vấn đề này, hằng ngày tôi tìm hiểu lý do nghỉ học ngay từ ở các em. Vào
những buổi đầu năm, có em với lý do áo quần bị ướt, giặt chưa khô, có em lý do
không có dép. Có em phải ở nhà để trông em. Vào những ngày trời mưa, đa số
các em đều có lý do là không có áo mưa để đi học … Từ các lý do mà các em
nêu ra, tôi đã nói chuyện trực tiếp với cha mẹ các em để khắc phục các vấn đề
mà các em mắc phải. Phân tích để phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc
đi học chuyên cần và đề nghị phụ huynh phối hợp để tạo điều kiện cho các em
họ tập tốt hơn.
8


3.3. Kết quả thực hiện
Với các phương pháp nêu trên, trong thời gian qua, số học sinh hay nghỉ
học không có lý do của lớp 5B đã có sự giảm xuống đáng kể. Kết quả cụ thể như
sau :
Số buổi vắng
Học và tên học sinh

TT

Tháng 2

Tháng 3

1


Hồ Đây Ra

3

2

2

Hồ Thị Trai

2

0

3

Hồ Văn Hưng

2

0

4

Hồ Văn Hời

0

0


5

Hồ Văn Mạnh

0

0

6

Hồ Văn Liệu

1

0

7

Hồ Văn Vinh

2

2

8

Hồ Thị Khởi

3


2

9

Hồ Văn Chuân

2

1

4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận
Để việc học sinh đi học được chuyên cần hơn, mỗi giáo viên chủ nhiệm
cần lưu ý thực hiện tốt một số điểm sau :
Quan tâm đặc biệt đên việc đi học chuyên cần :

9


Việc nhắc nhỡ thường xuyên trong các buổi học giúp học sinh sớm nhận
ra được những thiệt thòi của bản thân trong việc vắng học, nghỉ học, tạo cho học
sinh luôn ý thức rằng: phải đi học đều để nắm bắt kịp kiến thức và học tốt các
môn học để phục vụ cho bản thân sau này.
Phát động phong trào thi đua trong học tập :
Đưa phong trào học tập chuyên cần thành cuộc thi đua lành mạnh và hiệu
quả bằng cách tạo ra các đợt tổng kết và đánh giá cụ thể các tuần, tháng. Những
em có cố gắng sẽ được khen thưởng kịp thời, tạo hứng khởi cho học sinh khi
được sự ghi nhận cuả giáo viên về sự cố gắng đó. Bên cạnh đó, giáo viên quan
tâm nhiều hơn với những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, động viên và

khích lệ, tạo cho các em một tâm lý tốt để học tập và tiếp thu tốt các giờ học
cũng như trong việc chuyên cần trên lớp.
Phối hợp với Đội TNTP Hồ Chí Minh, Ban đại diện CMHS và các tổ
chức khác :
Thường xuyên phối hợp với giáo viên Tổng phụ trách đội để tích cực vận
động học sinh. Có sự khích lệ, động viên các em kịp thời để giúp các em có
thêm động lực học tập. Bên cạnh đó, thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với phụ
huynh để tạo điều kiện cho các em học tập tốt hơn.
4.2. Kiến nghị
Nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến đối tượng học sinh khó khăn để
động viên các em, giúp các em học tập tốt hơn, yêu trường yêu lớp và đi học
chuyên cần.
Hướng Phùng, ngày 10 tháng 4 năm 2015

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
ĐƠN VỊ
người khác.
Người viết

Hồ Thị Hoa Tỵ
10


MỤC LỤC

TT

NỘI DUNG


TRANG

1

1

2

1. Tên đề tài : Một số biện pháp nhằm nâng cao tỉ lệ chuyên
cần.
2. Phần mở đầu

3

2.1. Lý do chọn đề tài

1

4

2.1.1. Cơ sở lý luận

1

5

2.1.2. Cơ sở thực tiễn

2


6

2.2. Mục đích nghiên cứu

3

7

2.3. Đối tượng nghiên cứu

3

8

2.4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm

3

9

2.5. Phương pháp nghiên cứu

3

10

2.6. Phạm vi nghiên cứu

3


11

3

13

3. Nội dung
3.1. Thực trạng về tỉ lệ chuyên cần của học sinh ở trường
Tiểu học Hướng Phùng
3.2. Giải pháp

14

3.2.1. Phương pháp điều tra

5

15

3.2.2. Phương pháp nêu gương

7

16

3.2.3. Phương pháp thống kê

8

17


3.2.4. Phương pháp vấn đáp

8

18

3.3. Kết quả thực hiện

9

19

4. Kết luận và kiến nghị

9

20

4.1. Kết luận

9

21

4.2. Kiến nghị

10

12


1

3
5

11


Đánh giá của Trường Tiểu học Hướng Phùng
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….

Đánh giá của Phòng Giáo dục và Đào tạo Hướng Hóa

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….

12


Kết quả khảo sát trong bài viết chính tả tháng 3 như sau:
ĐIỂM


SỐ HỌC SINH / 29 EM

10

6

9

4

8

7

7

5

6

3

5

4

Dưới 5

0


Đây là kêt quả khảo sát cho thấy sáng kiến mà tôi đã áp dụng đã thự sự
hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn còn một số học sinh vẫn chưa có sự tiến bộ nhiều.
13


Với niềm đam mê rèn chữ viết của bản thân tôi, với lòng nhiệt huyết yêu
nghề và tận tâm rèn chữ viết cho học sinh bên cạnh chuẩn kiến thức theo yêu
cầu các môn học,tôi đã đúc được một vài kinh nghiệm trên. Tôi chỉ mong sao,
những bàn tay xinh xinh và bé nhỏ của học trò sẽ viết nên một tương lai tươi
sáng, các em lớn lên trong vòng tay chúng ta như những đứa con bé bỏng, sẽ
trưởng thành và mang theo bên mình một hành trang vào đời với những dòng
chữ tròn trịa, xinh xắn là một con người đầy đủ vẹn đức, trọn tài.
Với sáng kiến trên, tôi đã thực hiện thành công đến thời điểm hiện tại, tuy
nhiên với một vài kinh nghiệm bé nhỏ kia chỉ với khuôn khổ lớp học của tôi,
chưa mang tính phổ biến rộng rãi nên chắc còn nhiều sai sót, rất mong sự đóng
góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp, và mong được trải nghiệm
rộng rãi hơn để sáng kiến được đánh giá khách quan hơn, hoàn chỉnh hơn.
Hướng Phùng, ngày 25 tháng 3 năm 2013
Người viết:

Hồ Thị Hoa Tỵ

14



×