Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tài liệu Ôn Thi Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.71 KB, 24 trang )

Câu 0: Hãy phân tích khái niệm tư tưởng HCM?
-

Khái niệm: Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của CM VN, từ CM dân tộc dân chủ nhân dân đến CM XHCN; là kết quả
của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

-

Nội dung: vấn đề cơ bản của CMVN từ cách mạng dân tộc đến cách mạng XHCN

-

Mang tính hệ thống >< tản mạn
Toàn diện >< rời rạc
Sâu sắc >< chắp vá

-

Những điểm sáng tạo so với chủ nghĩa MLN

-

Nguồn gốc:
 Cơ sở khách quan:
Bối cảnh lịch sử hình thành TTHCM: trang 7 sách tím
Những tiền đề tư tưởng – lý luận: trang 8 sách tím
 Nhân tố chủ quan: trang 9 sách tím


Câu 1: 1927, HCM viết trong tác phẩm “Đường cách mêṇh” : “ Cách mêṇh trước
hết phải có gì?”-> “ Trước hết phải có đảng cách mêṇh để trong thì vâṇ đôṇg va
tổ chức dân chúng ngoai thì liên lacc̣ với dân tôcc̣ bi c̣áp bức va vô sản giai cấp ở moi
nơi, đảng có vững cách mêṇh mới thanh công cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chaỵ ” Phân tích & liên hê c̣với thưcc̣ tiêñ cách mêṇh VN.
Phân tích:
 HCM khẳng định “Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh”.Cách mệnh
trước phải làm cho dân giác ngộ ,phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân
hiểu,phải hiểu phong triều thế giới,phải bày sách lược cho dân…Vậy nên sức cách


mệnh phải tập trung phải có Đảng cách mệnh. HCM khẳng định vai trò quan
trọng của Đảng:
- Đảng ra đời đảm nhận sứ mệnh lịch sử chèo lái con thuyền cách mạng. Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng . Có
Đảng lãnh đạo đất nước mới vững mạnh, cách mạng mới thành công.
- Đảng ra đời chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối và tổ chức lãnh đạo,
đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn cách mạng
 Người cũng cho rằng CM là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất
mạnh. Muốn thắng lợi quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ… Vì vậy, phải có
Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành đội quân thật mạnh để đánh đổ kẻ
địch tranh lấy chính quyền
Liên hệ thực tiễn:
 Khẳng định vai trò: Thực tiễn hơn 85 năm qua đã khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã trở thành lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội một cách chính đáng, hợp lòng
dân, được lịch sử chấp nhận, Hiến pháp quy định và giao phó sứ mệnh mà không một lực
lượng nào có thể thay thế được
 Mặt tốt: Gần 86 năm đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
được vai trò sứ mệnh lịch sử đối với cách mạng Việt Nam. Càng trong những hoàn cảnh

khó khăn, bước ngoặt lịch sử thì bản lĩnh, trí tuệ, ý chí của Đảng càng tỏa sáng; đường
lối, chủ trương của Đảng càng thể hiện sự đúng đắn, khoa học, bám sát thực tiễn đất nước
và đòi hỏi bức thiết của nhân dân. Mỗi khi tình hình cách mạng có sự biến động, phát
triển, Đảng đều chủ động điều chỉnh, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, phương thức lãnh
đạo, đề ra chủ trương, giải pháp, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên, huy động sức
mạnh toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức để lãnh đạo hoàn thành mục tiêu cách
mạng đề ra. Điều đó đã thể hiện bản lĩnh của một Đảng được tôi luyện trong các phong
trào đấu tranh cách mạng, đủ khả năng giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước
trong bất kỳ hoàn cảnh nào


 Mặt hạn chế: Thực tiễn cũng cho thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng gặp
không ít khó khăn, trở ngại, có lúc do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, hành động chưa
đúng quy luật khách quan dẫn đến sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là ở chỗ, mỗi
khi phạm phải sai lầm, khuyết điểm, Đảng không bảo thủ, bàng quan, trái lại đều kiên
quyết sửa chữa, thể hiện tinh thần cầu thị, trách nhiệm chính trị trước nhân dân, dân tộc
 Kết luận cho thực tiễn: Để giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và xã hội, Đảng phải thường xuyên đổi mới, thống nhất về nhận thức và hành động, làm
tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, nhất là thủ đoạn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo đảm
giữ vững trong sạch nội bộ Đảng. Trước mắt, phải phát huy trí tuệ tập thể, sự đoàn kết,
thống nhất, đồng thuận trong Đảng và trong xã hội, tiến hành thành công Đại hội lần thứ
XII của Đảng, đề ra đường lối đúng đắn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, hội nhập quốc tế trong tình hình mới

Câu 2: Căn cứ vao đâu HCM khẳng điṇh ĐCSVN la đảng của giai cấp công nhân
mang bản chất giai cấp công nhân nhưng đồng thời la đảng của nhân dân lao
đôṇg va của toan dân tôcc̣. Để tăng cường bản chất giai cấp công nhân của đảng
nha nước ta phải lam gì?
Phần cứng: trang 79 sách tím

Phần mềm:
 Nêu cao tinh thần trách nhiệm lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc,
luôn tự phê bình và phê bình, dũng cảm đấu tranh với những sai lầm, khuyết điểm, lãnh
đạo cách mạng nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi đến thắng lợi. Thường
xuyên quan tâm giáo dục, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
theo lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của GCCN. Thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết để đảm bảo Đảng
ta luôn là một khối thống nhất về ý chí và hành động. Đảng ta luôn gắn bó máu thịt với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân; kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của


GCCN. Đề xướng và lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước,
tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm tạo bước ngoặt đưa đất nước bước vào thời kỳ
phát triển toàn diện, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội phù hợp với lợi ích chính
đáng và nguyện vọng của GCCN, nhân dân lao động.
 Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta cần :
 Phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH
 Trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
 Thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đẩy mạnh tư phê bình và phê bình, giữ gìn
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
 Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống,
nâng cao tính tiền phong, gương mẫu, phẩm chất, năng lực của đội ngũ
cán bộ, đảng viên
 Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó "máu thịt" giữa Đảng với
nhân dân, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả của GCCN

Câu 3: Vì sao phải tăng cường công tác xây dưṇg đảng? Trong các nôi dung của

công tác xây dưṇg đảng thì xây dưṇg đảng về liñh vưcc̣ nao la quan troṇg nhất
vìsao?
Phần đầu: Vì
Xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên
phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Xây dựng Đảng được HCM đặt ra như một nhiệm vụ
vừa cấp bách vừa lâu dài. Khi CM gặp khó khăn, xây dựng Đảng để cán bộ, đảng viên cũng cố
lập trường quan điểm bình tĩnh sáng suốt không tỏ ra bị động lúng túng bi quan. Ngay cả khi CM
trên đà thắng lợi cũng cần đến xây dựng Đảng để xây dựng những quan điểm tư tưởng cách
mạng khoa học ngăn ngừa chủ quan tự mãn lạc quan và rơi vào căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản” –
theo cách nói của Lenin.


Ngoài ra, xây dựng Đảng còn là tính tất yếu khách quan dựa trên các căn cứ sau đây:
 Mỗi thời kì gian đoạn có những mục tiêu nhiệm vụ cụ thê và những yêu cầu riêng
nên bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách
trước giai cấp và dân tộc
 Mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường XH, có cả
cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và tiêu cực, lạc hậu. Do đó mỗi cán bộ,
đnagr viên phải thường xuyên rèn luyện
 Cơ hội để mỗi cán bộ đảng viên tự rèn luyện giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn
thành các nhiệm vụ được giao, giữ được các phẩm chất đạo đức CM tiêu biểu.
 Càng cần phải tiến hành thường xuyên hơn => hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy
trừ mọi tệ nạn
 Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Phần sau:
Xây dựng Đảng về chính trị quan trọng nhất Vì:
-

Khái niệm: Xây dựng Đảng về chính trị là quá trình xác lập, củng cố hệ tư tưởng trong
Đảng, trên cơ sở đó xuất phát từ thực tiễn để xây dựng được đường lối chinh trị dung

đắn, lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối đó củng cố nâng cao vai trò lãnh đạo uy tín
chính trị của Đảng.

Xây dựng Đảng về chính trị là nâng cao bản lĩnh chính trị về trình độ trí tuệ của Đảng, bồi
dưỡng giáo dục và nâng cao trình độ cho đội ngũ Đảng viên. Đảng ra đời kiên định chũ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng chủ động sáng tạo vào cách mạng dân tộc; qua cá
thời kỳ, đại hội mà Đảng ta từng bước phát triển, trưởng thành hơn về mọi mặt. Nhân dân tin
tưởng vào sự nghiệp lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Vì vây, nâng cao bản lĩnh chính trị về trình độ
trí tuệ của Đảng là vấn đề quan trọng trong việc khẳng định vị thế to lớn của một chính Đảng duy
nhất vẫn hoạt động vì nước vì dân: nâng cao khả năng nhận thức, vận dụng đúng các quy luật
khách quan; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chũ nghĩa xã hội; kiên quyết đấu tranh bảo vệ
đường lối, quan điểm của Đảng…
Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, khi các thế lực thù địch bên ngoài, những phần tử cơ hội
đang lăm le chống phá Đảng và nhà nước ta thì đây là vấn đề hết sức quan trọng. Sự bành trướng
của một bộ phận phản động, chống đối qua các trang mạng xã hội như: Việt Tân, thanh niên công
giáo, nhật ký yêu nước…hay sự lêch hướng về chính trị của một số phần tử bị lợi dụng như
Nguyên Kha, Phương Uyên, Lê Hiếu Đằng…. trong thời gian qua một lần nữa cho thấy việc
nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng là vấn đề cấp thiết. Đảng cần hành động để đập tan moị âm
mưu chống phá của các thế lực thù địch, củng cố lòng tin nơi nhân dân.


Xây dựng đường lối chính trị đúng đắn nhằm đảm bảo thống nhất giữa tính Đảng và tính
khoa học thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ nhân dân và vì lợi ích của
nhân dân; phát huy truyền thống của dân tộc, tinh thần cách mạng của toàn Đảng toàn dân.

Câu 4: Phân tích những điểm sáng taọ của HCM về đảng côṇ g sản VN?

Nội dung so sánh
Quy luật


Chủ nghĩa MLN

HCM

CN Mác + Phong trào công CN MLN + phong trào công
nhân

nhân + phong trào yêu nước

Giai cấp mới đến dân tộc

Dân tộc mới đên giai cấp

Giải phóng

Chính quốc mới đến thuộc địa

Thuộc địa mới đến chính quốc

Bản chất

Giai cấp công nhân

GCCN, NDLD, toàn dân tộc

ĐCS đại biểu cho

Trí tuệ danh dự lương tâm của Đạo đức, văn minh
cả dân tộc và thời đại


Nội dung

Chưa đề cập lối đạo đức trong Đề cập xây dựng Đảng về đạo
xây dựng Đảng

đức

Chưa đề cập

Đề cập về Đảng cầm quyền

Câu 5: Phân tích nguyên tắc tâpc̣ chung dân chủ. Trong điều kiêṇ hiêṇ nay nếu
không thưcc̣ hiêṇ tốt nguyên tắc nay có tác đôṇg như thế nao đối với viêcc̣ xây dưṇg
chỉnh đốn đảng côṇg sản VN?
Phần cứng: sách tím trang 85
Phần mềm:


Ảnh hưởng: Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nguyên tắc (tập trung dân chủ) TTDC, ở nhiều
tổ chức đảng cũng còn bộc lộ không ít bất cập, có biểu hiện hình thức; chưa gắn việc thực hiện
dân chủ với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và chức trách của từng cá
nhân. Các quy chế, quy định về phát huy dân chủ ở cơ sở tuy đã ban hành, nhưng một số cấp ủy,
TCĐ thực hiện thiếu nghiêm túc, không triệt để dẫn đến vi phạm quyền dân chủ trong Đảng.
Tình trạng “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, nói và làm tùy
tiện, chấp hành nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước không nghiêm, giảm sút tinh
thần đấu tranh bảo vệ nguyên tắc Đảng, bảo vệ chân lý,... của một số cán bộ, đảng viên (CB,ĐV)
chưa được khắc phục. Những biểu hiện trên bị các thế lực thù địch, cơ hội về chính trị triệt để lợi
dụng để nói xấu Đảng ta và cổ súy cho cái gọi là “dân chủ vô giới hạn”, “dân chủ tuyệt đối”, “đa
nguyên, đa đảng”. Ý đồ xấu xa, thâm độc của chúng nhằm chia rẽ nội bộ, làm tan rã tổ chức và
phá vỡ sự thống nhất trong Đảng; phá vỡ tính thống nhất, kỷ luật, kỷ cương của Nhà nước ta,

làm mất ổn định về chính trị - xã hội, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo quỹ đạo của
chúng.
Cách khắc phục:
 Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi CB,ĐV, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì,
cấp ủy viên các cấp có nhận thức đúng, đầy đủ về bản chất, nội dung, mối quan hệ biện
chứng của nguyên tắc TTDC
 Tâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách,
mở rộng sinh hoạt dân chủ
 Phát huy vai trò của bí thư, cấp uỷ trong việc duy trì các nền nếp, chế độ, thủ tục, nguyên
tắc của Đảng; thực hiện tốt

 Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc TTDC; tăng
cường kỷ cương, kỷ luật trong cấp ủy, TCĐ các cấp

Câu 6: Phân tích nguyên tắc tự phê bình va phê bình. Trong điều kiêṇ hiêṇ nay
thưcc̣ hiêṇ tốt nguyên tắc nay có tác đôṇg như thế nao đối với viêcc̣ xây dưṇg đảng
trong sacc̣h vững maṇh về chính tri c̣tư tưởng va tổ chức.


Phần cứng: sách tím trang 86
Thêm: Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được HCM nêu rõ ở những điểm sau: phải
được tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hằng ngày; phải thẳng thắn, chân thành, trung
thực, không nể nang không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm./
Phần mềm:
Trong bất kỳ một tổ chức đảng nào, cho dù là tổ chức đảng cấp trên hay tổ chức đảng cấp dưới,
bất kỳ một cá nhân đảng viên ở cương vị nào nếu không thấm nhuần tư tưởng tự phê bình và phê
bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cũng sẽ phạm phải những sai lầm lớn. Thực tế hiện nay, một
số tổ chức đảng và đảng viên đã làm tốt công tác tự phê bình và phê bình, trong các cuộc họp đã
dám nói thẳng, nói thật ưu, khuyết điểm giúp tổ chức đảng và đồng chí mình phát huy, sửa chữa.
Mặt hạn chế: Song bên cạnh đó, vẫn còn một số tổ chức đảng chưa phát huy tốt tinh thần phê và

tự phê. Trong các cuộc hội nghị, cán bộ, đảng viên không dám góp ý kiến, đặc biệt là góp ý cho
cấp trên, cho lãnh đạo vì sợ bị trù dập, không được thăng chức, nâng lương...Một số tổ chức đảng
và đảng viên không góp ý cho tổ chức, cho đồng chí mình ngay trong cuộc họp mà lại đi nói sau
lưng có tính chất " kích động", làm mất uy tín người khác. Bên cạnh đó vẫn còn một số cán bộ,
đảng viên lợi dụng tinh thần phê và tự phê để chỉ trích, phê phán người khác với thái độ không
thiện cảm, vì mục đích cá nhân" vạch lá tìm sâu", " chuyện bé xé ra to", làm cho người bị phê
bình không nhận ra được sai lầm để sửa hoặc có nhận ra họ cũng khó lòng mà sửa được. Bởi vậy,
chúng ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phải bằng hành động thực tế,
không

nên



hào,

chỉ

nói



không

làm

hoặc

nói


nhiều

làm

ít.

Mặt tích cực: Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và
giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng, là quy luật sinh tồn và phát triển của Đảng. Tự phê bình
và phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng và tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng, tăng cường được mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng. Chủ
tich Hồ Chí Minh đã tiếp thu, nghiên cứu, vận dụng và bổ sung sáng tạo quan điểm của Mác,
Ăngghen, Lênin về vấn đề tự phê bình và phê bình một cách hết sức cụ thể và độc đáo. Chính vì
vậy, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thành công, xứng đáng và làm tròn vai trò
lãnh tụ chính trị của giai cấp và của dân tộc. Ngày nay, khi toàn Đảng đang quán triệt và triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng, chúng


ta càng thấm nhuần hơn tư tưởng tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này
sẽ giúp chúng ta thực hiện thành công Nghị quyết của Đảng, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng
của đất nước, của dân tộc tới thắng lợi vẻ vang.

Câu 7: Vì sao HCM khẳng đinh Cách mạng VN la một bộ phận của CM Thế giới.
Liên hệ với thực tiễn CMVN.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong điều kiện thời đại có những biến đổi to
lớn, đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.
Thời đại chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, gắn liền với hệ thống thuộc địa do
chủ nghĩa đế quốc tạo dựng nên.. Quán triệt tinh thần đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: "Thời đại
của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm
đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc, bởi vậy công cuộc giải phóng các nước và

các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản" [5]. Từ thực tiễn yếu tố
thời đại đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc tin tưởng thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia dân tộc
bị xoá bỏ, thay vào đó là sự mở rộng quan hệ giữa các nước, vận mệnh của mỗi dân tộc gắn liền
với vận mệnh chung của cả loài người. Do đó, sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một
bộ phận khăng khít của sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Trước Hồ Chí Minh, ở Việt Nam đã có nhiều nhà yêu nước nhiệt thành dám đứng lên tập
hợp nhân dân phất cao ngọn cờ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Nhưng các phong trào
đó đều mang nặng tính tự phát, cô lập, không gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,
không nắm bắt được xu thế chung của thời đại, kết cục đều đi đến thất bại. Nguyễn Ái Quốc
không đi theo, không lặp lại những thất bại của cha anh mình mặc dù rất khâm phục tinh thần
yêu nước của họ. Người ra đi tìm đường cứu nước, “xem họ làm thế nào”, đi tìm sự mách bảo
của thời đại để cứu nước cứu dân. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin tìm thấy con
đường cứu nước đúng cho cách mạng Việt Nam. Từ đây khẳng định, cách mạng giải phóng dân


tộc Việt Nam phải hoà nhập chung vào phong trào cách mạng vô sản thế giới, là một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
Trên mặt trận lý luận tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc kiên quyết chống lại chủ nghĩa cơ hội, bảo
vệ phát triển quan điểm về mối quan hệ khăng khít cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản
thế giới của Lênin. Người nói: "Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt
chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô
dịch”[6]. Vai trò của cách mạng thuộc địa rất to lớn, không có họ thì cách mạng vô sản không thể
giành thắng lợi. Người khái quát: Lịch sử tất cả cuộc xâm chiếm thuộc địa nào thì từ đầu đến
cuối đều được viết bằng máu của người bản xứ. Sự bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa tư bản nói trên,
đã đẩy các nước thuộc địa đến bước đường cùng phải đoàn kết chống lại chủ nghĩa tư bản,
lựa chọn đi theo con đường cách mạng vô sản. Sự phân tích trên của Hồ Chí Minh là một
thực tế về vai trò của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng vô sản thế giới và sự cần thiết
phải gắn bó chặt chẽ cách mạng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới. Mặt khác, giai cấp vô
sản thế giới chưa thể giúp giai cấp vô sản thuộc địa giải phóng được, để làm được điều đó
cần phải có thời gian tích luỹ lực lượng.

Hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc tìm mọi
cách gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người khẳng định: “Cách mệnh An
Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới" [9]. Cách mạng ở phương Đông chậm
phát triển và suy yếu vì có một nguyên nhân là “sự biệt lập”. Họ hoàn toàn không biết đến
những việc xảy ra ở các nước láng riềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn
nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau. Biết được nguyên nhân suy yếu của cách
mạng thì phải tìm cách khắc phục, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy phải tuyên truyền giáo dục để:
làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu nhau hơn và đoàn
kết lại để cùng nhau chống kẻ thù chung. Người đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất của
chủ nghĩa tư bản và sự cần thiết phải hợp lực các dân tộc bị áp bức chống lại kẻ thù của
mình. "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc


và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa... Nếu người ta muốn giết
con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái
vòi kia vẫn tiếp tục hút máu giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại
sẽ mọc ra"[10]. Như vậy, chủ nghĩa thực dân không chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị áp bức, mà
còn là kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc. Do đó, cách mạng
Việt Nam phải liên hệ với cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng
chí của dân An Nam để cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới,
quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chiều hướng đi lên tất yếu của dân tộc Việt Nam, chủ
động đưa nước ta hoà nhập xu thế chung của thời đại để đạt đến mục đích. Đây là công lao đầu
tiên của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức khác. Tư tưởng
đó làm cơ sở cho Đảng ta xác định đường lối lãnh đạo gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Câu 8: Thế nao la sức mạnh dân tộc (SMDT), sức mạnh thời đại (SMTĐ). Tại sao
phải kết hợp SMDT với SMTĐ. Liên hệ thực tiễn CMVN.
 Nhận thức của HCM về sức mạnh dân tộc:

Theo HCM sức mạnh dân tộc chính là sức mạnh của chủ nghĩ yêu nước; tinh thần đoàn kết, ý chí
đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập tự do, ý thức tự lực tự cường. Cụ thể
-

Sức mạnh của dân tộc trước hết thể hiện ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, nó làm cho
dân tộc VN không bị đồng hóa trong 1000 năm Bắc thuộc, không bị diệt vong dưới ách thống trị
của thực dân phương tây

-

Truyền thống yêu nước là hạt nhân của truyền thống dân tộc, nó không phải chỉ là một tình cảm
tự nhiên bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước.


Tinh thần ý chí độc lập tự chủ tự cường và lòng yêu nước sỡ dĩ phát huy được sức mạnh to lớn
của nó và đã liên kết nhân thành một khối vững chắc không lay chuyển nỗi, đó là sự đoàn kết
dân tộc, đoàn kết toàn dân.
 Nhận thức của HCM về sức mạnh thời đại:
Sức mạnh thời đại được thể hiện ở những yếu tố sau:
-

Sức mạnh của nhân dân các nước thuộc địa trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

-

Sức mạnh của giai cấp vô sản và CMVS, sức mạnh kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức mạnh đoàn kết quốc tế.

-


Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng KHKT- một động lực phát triển của XH,
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một nhân tố
mới trong sức mạnh của thời đại.

-

sự hình thành và phát triển và sức mạnh đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới;
 tính tất yếu của sự kết hợp sức mạnh DT và SMTĐ
Kết hợp SMDT và SMTD là sự kết hợp của chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Nội dung kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
- Đặt cm gpdt VN trong sự gắn bó với cách mạng vô sản TG
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
- Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN,
sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đông thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả
- Có quan hệ hữu nghị, hợp tác sẵn sang “ làm bạn với mọi nước dân chủ”.
 Liên hệ thực tiễn CMVN
Hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều thuận lợi, nhưng cũng chứa đựng nhiều
thách thức đối với việc phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Ở trong nước,
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc
tế của đất nước được nâng cao. Nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển; chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh


thổ được bảo vệ vững chắc. Các quan hệ quốc tế được đa dạng hóa, đa phương hóa. Nước ta đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với 180/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; trong đó, có quan
hệ đối tác chiến lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, gồm tất cả 5 nước thường trực
Hội đồng bảo an; có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên
tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế,… Đó là những tiền đề thuận lợi cho việc huy
động hai nguồn lực to lớn - sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại - để kết hợp chặt chẽ hơn nữa
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Tuy nhiên, nhiều hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược thời gian
qua cũng làm xuất hiện những vấn đề phức tạp mới: tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch định hướng
XHCN; tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng
viên; diễn biến hòa bình. Còn trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là
đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Đó chính là xu thế thời đại mà chúng ta cần và có thể
tranh thủ để kết hợp với sức mạnh dân tộc trong tình hình mới. Song, xu thế đó lại đồng hành
cùng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó
lường, đe dọa an ninh quốc gia và an ninh toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải luôn nêu cao cảnh
giác, chủ động phòng ngừa trong quá trình hội nhập để có thể vượt qua những thách thức, tranh
thủ tối đa những thuận lợi từ bối cảnh quốc tế đem lại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam. Điều đó đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam thẩm định và trở
thành một bài học kinh nghiệm lớn. Ngày nay, kế thừa và vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm
đó tiếp tục là một phương thức tạo nên “sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn
hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để bảo vệ Tổ quốc” 7. Đó là trách nhiệm của toàn dân, của cả
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Câu 9: Vì sao HCM khẳng đinh kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
nhưng phải dựa vao sức mình la chính. Liên hệ CMVN.
Khẳng định kết hợp SMDT với SMTD:

- Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh xác định sức
mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định, còn sức mạnh thời đại cũng có vai trò quan trọng nhưng nó
chỉ phát huy tác dụng thông qua sức mạnh dân tộc.


- Khẳng định sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định nhưng Hồ Chí Minh không hề xem nhẹ
việc tranh thủ sức mạnh thời đại, đặc biệt là tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa anh em, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự đồng tình, ủng hộ của

nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, Người yêu cầu Đảng ta phải có đường lối độc lập, tự
chủ đúng đắn. Trong đường lối đó, phải kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, tự do
của dân tộc mình với các mục tiêu cơ bản của loài người tiến bộ là hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, Người cũng yêu cầu Đảng ta phải động viên nhân dân ta
tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
- Phương châm đối ngoại mà Hồ Chí Minh đề ra cho Việt Nam sau khi nước ta giành được độc
lập là "sẵn sàng làm bạn với mọi nước dân chủ không gây thù oán với một ai"; "Chính sách
ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên
thế giới để giữ gìn hoà bình".
- Trong quan hệ với tất cả các nước, Hồ Chí Minh đã giành ưu tiên cho quan hệ với các nước xã
hội chủ nghĩa anh em và các nước láng giềng gần gũi với Việt Nam.
- Hồ Chí Minh là người đã đặt cơ sở đầu tiên cho tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân nhiều nước trên thế giới. Sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước đã
được Người tạo dựng ngay từ những năm tháng Người bôn ba ở nước ngoài. Từ khi nước ta
giành được độc lập, Những hoạt động ngoại giao không mệt mỏi của Người đã nâng cao địa vị
của Việt Nam trên trường quốc tế, tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước, các dân tộc
Nhưng phải dựa trên sức mình:

 Kế thừa truyền thống tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Hồ
Chí Minh chủ trương trong công cuộc giải phóng dân tộc, phải dựa vào sức mình là
chính, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Phải đánh giặc bằng sức của chính mình,
không chờ đợi, ỷ lại. Trong vòng vây của đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, nhân
dân ta đã đứng lên chiến đấu và chiến thắng trong những năm đầu đánh thực dân Pháp.
Trước sức mạnh quân sự của đế quốc Mỹ, nhân dân ta vẫn kiên cường chiến đấu, vững
tin ở thắng lợi, mặc dù đã có những lời khuyên nên để công cuộc giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước cho các thế hệ mai sau


 Kháng chiến dựa vào sức mình là chính :
- Ta rất coi trọng những thuận lợi và sự giúp đỡ của bên ngoài, nhưng bao giờ cũng theo

đúng phương châm kháng chiến của ta là tự lực cánh sinh, vì bất cứ cuộc chiến tranh nào
cũng phải do sự nghiệp của bản thân quần chúng, sự giúp đỡ từ bên ngoài chỉ là điều kiện
hỗ trợ thêm.
- Ta có nỗ lực chủ quan mới sử dụng và phát huy được hết sức mạnh của mình. Nếu
không dựa vào sức mạnh là chính thì không thể đánh lâu dài được.
- Đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện một cách sinh động và phong phú trong
thực tiễn kháng chiến của quân và dân
 Người khẳng định: Trong đấu tranh cách mạng ta phải "Tự lực cánh sinh, dựa vào sức
mình là chính". Người còn viết: "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy
mình đã"; "Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập".
Liên hệ:
Vào giữa thế kỷ XIX thực dân Pháp bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đến Việt
Nam, đế quốc Pháp có trong tay một đội quân nhà nghề, trang bị vũ khí và phương tiện chiến
tranh hiện đại, tiềm lực kinh tế mạnh, nhưng cũng phải mất gần một phần ba thế kỷ mới đặt
được ách thống trị lên toàn đất nước ta. Các phong trào chống thực dân Pháp xâm lược của
nhân dân Việt Nam diễn ra sôi nổi mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm thà chết không chịu làm nô
lệ. Kết quả cuối cùng, tất cả các phong trào kháng pháp của nhân dân Việt Nam đều bị thất
bại, “những đám đen lại bao phủ đất nước Việt Nam”. Từ thực tiễn trên cho thấy Việt Nam
một dân tộc nhỏ, nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển, chống lại đế quốc thực dân có tiềm lực
kinh tế, quân sự ban đầu mạnh hơn mình, không thể không phát huy sức mạnh bên trong và
bên ngoài để giành thắng lợi. Mặt khác, do đòi hỏi khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc lúc này phải có một giai cấp tiến tiến, nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, lãnh
đạo định ra đường lối gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Thực tiễn đó là
nguyên nhân đầu tiên thôi thúc Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước và tìm thấy con
đường cứu nước đúng, đáp ứng được yêu cầu khách quan mà xã hội Việt Nam đòi hỏi là kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giải phóng đất nước.


Để tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên, nhân dân

ta làm sao tuyên truyền cho sâu, cho rộng cuộc chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam trước nhân
dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình, tự do công lý trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân
Mỹ, thực hiện tư tưởng ngoại giao nhân dân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của nhân dân
ta diễn ra trong hoàn cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa có sự bất đồng, nhất là giữa Liên xô
và Trung Quốc. Đảng ta định ra đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp cuộc đấu tranh chung của nhân
loại vì những mục tiêu của thời đại là hoà bình, độc lập, dân chủ với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam. Đường lối đó chẳng những đã góp phần tăng cường sự đoàn kết giữa
các đảng, mà còn huy động được sức mạnh bên ngoài, tranh thủ được phong trào đấu tranh của
nhân dân thế giới, ủng hộ Việt Nam giành độc lập, tạo ra được một mặt trận rộng lớn, mạnh mẽ
chưa từng có đoàn kết với Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế với
Việt Nam, Hồ Chí Minh đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của Việt Nam với phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Khi có sự mất đoàn kết giữa các dân tộc phải cùng nhau khôi phục, củng cố,
phát triển tình đoàn kết có lý, có tình trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin về tinh thần quốc tế vô sản.
Nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập tự do cho dân tộc mình mà còn vì độc lập tự do
của

các

nước

khác.

Thực tiễn cách mạng nước ta hơn 75 năm qua, đã khẳng định: chính sự nỗ lực, cố gắng của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tạo nên nguồn sức mạnh nội lực to lớn, nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Câu 10: Trong tư tưởng HCM, nha nước VN được coi la nha nước của dân-do
dân-vì dân. Vậy có thể coi nha nước đó la nha nước toan dân hiểu theo nghĩa nha
nước phi giai cấp hay không? Vì sao?
Phần cứng: sách tím trang 30 + phần kết luận trang 33

Phần mềm:


Quán triệt học thuyết Mác - Lênin về nhà nước, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh tới tính chất
dân chủ của Nhà nước ta. Nhưng Hồ Chí Minh cũng xác định dứt khoát, rõ ràng bản chất giai
cấp công nhân của nhà nước đó. Chúng ta gọi Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, không có nghĩa là “nhà nước toàn dân”, nhà nước phi giai cấp. Từ
nhận thức chung: “ Tính chất của một nhà nước là: trong nhà nước ấy giai cấp nào thống trị, giai
cấp nào bị thống trị. Nhà nước đó bảo vệ lợi ích của giai cấp nào, đàn áp giai cấp nào”, Hồ Chí
Minh cho rằng: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai
cấp của chính quyền”. Người khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Quan điểm này được Hồ
Chí Minh nhắc lại nhiều lần, cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật và là phương châm chỉ đạo tổ
chức, xây dựng chính quyền từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay. Sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân quy định bản chất và nội dung giai cấp, đặt ra mục đích, định hướng hoạt động của
Nhà nước ta. Điều này chứng tỏ bản lĩnh và tinh thần mácxít triệt để của tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước của dân, do dân, vì dân

Câu 11: Dựa trên cơ sở nao ma HCM khẳng đinh nha nước ta mang bản chất
GCCN. Trong các cơ sở đó, cơ sở nao có ý nghĩa quan trọng nhất? Tại sao?
Phần cứng:

Nhà nước bao giờ và ở đâu cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam
mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:
_ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân.
_ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch

+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ
máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự
phát triển đất nước. Điều này đã được thể hiện trong quan điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi đất
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động
cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân


chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả
mọi quyền lực vào tay nhân dân.
Phần mềm:
Nhà nước ta được tổ chức, hoạt động và vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở
quan trọng nhất vì: nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc tổ chức đặc thù của GCCN:
Tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung; dân chủ càng mở rộng,
tập trung càng cao độ.
Xem thêm sách tím trang 85

Câu 12: Phân tích quan điểm của HCM về nha nước pháp quyền va nêu ý nghĩa
của quan điểm đó đối với việc xây dựng, hoan thiện nha nước pháp quyền XHCN ở
VN hiện nay.
NN pháp quyền: sách tím trang 105
Ý nghĩa:

- Nha nước bảo đảm quyền lam chủ thật sự của nhân dân
Nhà nước phải đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cướng pháp chế xã hội chủ nghĩa có
ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá bằng Hiến

pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống.
- Kiện toan bộ máy hanh chính nha nước
Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực cho nhân dân và công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, tham
nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực. Chú trọng và tiến hành thường xuyên công tác đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn và đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức.
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nha nước:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà nước thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng; đảm bảo sự lãnh đạo cảu Đảng và phát huy vai trò quản lý
của Nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng cách Đảng lãnh đạo bằng
đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác thanh tra, kiểm tra,
Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước.


 Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ
để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát
quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền
tảng đạo đức xã hội”. Đây cũng chính là biện pháp nhằm khắc phục khâu yếu nhất, thiếu
nhất trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
 Bên cạnh đó, nhiệm vụ, giải pháp mới của Đảng chỉ ra cũng xác định cần phải quản lý đất
nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. Quan điểm
này thể hiện rõ tính nhân văn trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
ở nước ta. Để bảo đảm tính bền vững của pháp luật, kỷ cương xã hội, đồng thời vẫn bảo
đảm tính nhân văn, nhân đạo, thì con người không chỉ cần được điều chỉnh, kiểm soát
hành vi bằng luật, mà còn bằng cả lương tâm và trách nhiệm. Đây cũng chính là giải pháp
nhằm khắc phục tình trạng xuống cấp đạo đức đang trở thành một vấn nạn khá nhức nhối

ở nước ta hiện nay.

Câu 13: Phân tích quan điểm HCM về mối quan hệ đạo đức va pháp luật trong
quản lý xã hội. Nêu ý nghĩa của việc vận dụng mối quan hệ nay trong điều kiện
nước ta hiện nay.
Theo phong cách riêng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa trực tiếp về
đạo đức mà sử dụng cách đối lập giữa các sự việc, hiện tượng để nêu khái niệm đạo đức: “Đạo
đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng
phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”
Trong việc thực thi Hiến pháp và pháp luật, HCM bao giờ cũng chú ý cả hai mặt, vừa có lý, vừa
có tình, vừa nghiêm khắc, vừa tăng cường các biện pháp giáo dục pháp luật, bảo đảm cho luật
pháp trở thành cán cân công lý đối với tất cả mọi người, ai vi phạm đều bị trừng trị nghiêm khắc
đúng người, đúng tội.

Câu 14: Trình bay quan điểm của HCM về việc xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức trong bộ máy nha nước. Liên hệ quan điễm trên với thực tiễn để lam rõ
những mặt tích cực va hạn chế trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ở
nước ta hiện nay.

-

Phần cứng: Sách tím câu 36 trang 106
Phần mềm: Tích cực tiêu cực
Tích cực
Xây dựng đội ngũ công chức là cơ sở đầu tiên và cơ bản cho sự phát triển chung của đất nước.
Hiện nay, đội ngũ công chức đang được xây dựng cho ngang tầm nhiệm vụ mới. Đội ngũ công
chức có thể coi là trung tâm của toàn bộ hệ thống chính trị, của bộ máy nhà nước, của nền hành


chính và là của toàn bộ quá trình phát triển. Đội ngũ công chức là nhân tố đề ra các cuộc cải cách

hành chính và đồng thời cũng thực hiện cải cách hành chính. Xây dựng đội ngũ công chức là huy
động nỗ lực của đội ngũ này theo phương hướng dự kiến. Có thể nói, xây dựng đội ngũ công
chức là chiến lược cơ bản, ưu tiên số một. xây dựng một đội ngũ công chức có phẩm chất chính
trị, đạo đức cao, có trình độ kiến thức chuyên môn nghề nghiệp có vai trò quyết định trong thành
công của công cuộc cải cách hành chính. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, đồng thời phải xây
dựng những chuẩn mực về mặt pháp luật, tạo ra một không gian và định hướng cho hoạt động
xây dựng con người mới, những công chức nhà nước có chất lượng phục vụ công cuộc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
-

Tiêu cực
Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý công chức là hết sức cần thiết. Tuy
nhiên, trong quá trình xây dựng, hệ thống các văn bản thuộc lĩnh vực này chưa được hoàn thiện
và kiện toàn. Hệ thống văn bản pháp luật đó không những chưa ràng buộc người công chức trong
việc phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân mà còn thiếu tính cụ thể.
Qua các quy chế pháp lý, người công chức chưa xác định, ý thức được hoạt động của
mình, dẫn đến chưa nhìn nhận rõ trách nhiệm của mình là phục vụ Nhà nước và nhân dân để giữ
gìn phẩm chất, tận tụy với nhân dân, hết mình với công vụ. Ngược lại, hệ thống văn bản pháp
luật về quản lý công chức chưa phản ánh lòng tin của Nhà nước, của nhân dân gửi gắm vào đội
ngũ công chức.
Dưới góc độ pháp lý, hành vi của công chức chưa hoàn toàn được kiểm soát và điều
chỉnh, hiện tượng lạm dụng thẩm quyền sách nhiễu nhân dân, thoái hoá biến chất vẫn còn tồn tại
do thiếu căn cứ cụ thể để xử lý công chức vi phạm.
Không những thế, phương thức hoạt động, trách nhiệm của công chức khi thi hành công
vụ chưa được cụ thể hoá, chưa phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước nói chung và công chức nói riêng, Quy chế làm việc thiếu tính chặt chẽ, chuyên nghiệp.
Mặt khác, trong quá trình xây dựng quy chế pháp lý cho công tác quản lý công chức còn
thiếu những đảm bảo cho những nội dung này đi vào đời sống xã hội nói chung cũng như hoạt
động của công chức nói riêng, trong đó có nguyên tắc pháp chếxã hội chủ nghĩa.
Trách nhiệm và đạo đức công chức chưa được cụ thể hoá, chỉ định tính mà không định

lượng. Phạm trù đạo đức chưa mang tính đặc thù với đối tượng là công chức, trách nhiệm và đạo
đức công chức có thể được coi là yếu tố hàng đầu, có tính quyết định chất lượng nền hành chính.
Thực tế phần lớn công chức chưa biết lắng nghe, thiếu kiến thức và kỹ năng giải quyết công việc,
thiếu nhẫn nại và kiềm chế, thái độ chưa thân thiện, xử lý công việc chậm và thiếu linh hoạt...
Không những thế công chức hiện nay còn trở lên thờ ơ, lãnh đạm, máy móc, thiếu tế nhị, thiếu
tôn trọng nhân dân.

Câu 15:Trình bay quan điểm của HCM về tính chất của nền văn hóa mới? Vận
dụng quan điểm nay vao việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đa bản sắc
dân tộc ở nước ta hiện nay.
Phần phân tích trong sách cam trang 112


Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay là một yêu cầu
cấp thiết, một vấn đề có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Xây dựng văn hoá phải bắt đầu từ
mỗi con người với tư cách là chủ thể của văn hoá. Đó là những con người được bồi dưỡng, giáo
dục về nhiều mặt và phải được rèn luyện, trưởng thành trong hoạt động thực tiễn, trong sinh hoạt
cùng với những cộng đồng nhất định. Con người trước hết phải gắn với gia đình và tập thể mà
mình hoạt động, sinh hoạt. Vì vậy việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, những tập
thể văn hoá - đơn vị, làng bản, xã ấp, phố phường văn hoá - là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.
Đối với mỗi nhà, mỗi gia đình phải xây dựng co được gia phong nghiêm chỉnh, làm cho gia đình
không phải chỉ là một tổ ấm của tình cảm ruột thịt, mà còn là nơi hun đúc nhân cách, nhân phẩm
của mỗi thành viên trong suốt cuộc đời. Giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong quá
trình giao lưu, hội nhập quốc tế. Trước xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá của thế giới hiện nay,
không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới. Hội nhập về kinh tế,
giao lưu về văn hoá giữa các nước đang diễn ra hết sức sôi động. Tình hình đó đang mở ra thời
cơ lớn để thâu hoá những tinh hoa văn hoá, văn minh nhân loại, làm phong phú thêm cho văn
hoá dân tộc mình, rút ngắn khoảng cách của chúng ta với thế giới.

Làm thế nào để mở rộng
giao lưu văn hoá, hội nhập mà không đánh mất cái bản sắc của mình? Phải lấy bản sắc văn hoá
dân tộc làm nền tảng, làm bảng lĩnh. Nền tảng có chắc, bản lĩnh có vững vàng thì mới tiếp thu
tinh hoá văn hoá nhân loại được đúng đắn; mới chắc lọc được những gì thực sự là tinh hoa, vức
bỏ những gì là phế thải của bất cứ loại phản văn hoá nào từ bên ngoài. Bảo vệ bản sắc văn hoá
dân tộc phải gắn liền với việc nâng cao nhận thức, tư tưởng, nâng cao những hiểu biết về văn
hoá, khoa học hiện đại, để phân biệt được những gì thực sự là chân, thiện, mỹ với những cái giả,
cái ác, cấi xấu; nhận cái hay, bỏ cái dở. Khôi phục lễ hội, tôn tạo đình chùa, miếu mạo, những di
tích văn hoá lịch sử và cách mạng, suy tôn các anh hùng liệt sĩ, đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp
nghĩa, đề cao văn hoá làng xã, văn hoá dòng họ... cũng là những hình thức để tạo ra rào chắn
nhằm chống lại sự xâm nhập ồ ạt của văn hoá ngoại lai.
Tuy nhiên, ngay trong việc này cũng
phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cũ mà xấu thì
phải bỏ, cũ mà phiền phức thì phải sửa; mới mà hay thì phải làm; mới mà dở, hoặc không phù
hợp với con người Việt Nam thì không tiếp nhận.
Cảnh giác ngăn chặn âm mưu lợi dụng giao
lưu văn hoá để thực hiện “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Chúng ta đang sống
trong kỷ nguyên thông tin, khả năng chuyển tải tức thời mọi thông tin tới bất kỳ điểm nào ở trên
trái đất. Lợi dụng thành tựu này, các “đế quốc văn hoá” đang nhân danh quyền con người để áp
đặt cho các dân tộc những thị hiếu và lối sống theo quan điểm của họ. Các thế lực thù địch của
CNXH cũng đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ hoá về chính trị”, “tự do hoá về kinh tế” để thổi
lên những luồng gió độc, phủ nhận quá khứ, hạ bệ thần tượng, gieo rắc hoài nghi về sự lãnh đạo
của Đảng gây mất niềm tin vào tương lai của CNXH...
Phương pháp mà Hồ Chí Minh nêu ra
để xây dựng nền văn hoá mới là phải xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tích cực về văn
hoá, phải thường xuyên biểu dương, cổ vũ những tấm gương đó, phải tạo những phong trào quần
chúng ngày càng sâu rộng, làm cho văn hoá mới ngày càng thấm sâu vào đời sống của nhân dân,
làm cho đời sóng ngày càng trở thành đời sống có văn hoá.
Vì vậy, phải ra sức đẩy mạnh các

phong trào “người tốt, việc tốt”, “dạy tốt học tốt”, “xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hoá”, “xây dựng thuần phong mỹ tục”... làm cho các phong trào thi đua ấy thực sự trở thành
động lực thúc đẩy việc xây dựng đời sống văn hoá của xã hội ta. Đối với bất cứ phong trào quần


chúng nào cũng phải khắc phục tình trạng có phát mà không có động, động lúc đầu nhưng càng
về sau càng im ắng, càng hình thức chủ nghĩa, khi nào nhớ đến mới “đẩy mạng” một cách qua
loa, đại khái; không sơ kết, tổng từng bước để nâng cao cuộc vận động.
Tóm lại, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã hội tụ đủ các yếu tố truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, kế thừa và đỏi
mới. Từ Hồ Chí Minh đã toả ra một thứ văn hoá không phải chỉ ở quá khứ và hiện đại, mà còn là
một nền văn hoá của tương lai, và là di sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta. Đó là
những giá trị mà Hồ Chí Minh, đại diện cho dân tộc Việt Nam đóng góp làm phong phú thêm
kho tàng văn hoá của nhân loại. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi
mãi soi sáng chúng ta trên con đường xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.

Câu 17:Trình bay chức năng của văn hóa theo quan niệm của HCM. Anh/chi hãy
phân tích tác động tích cực đến mỗi con người, đến xã hội khi văn hóa thực hiện
tốt chức năng nay.
Trang 113,114/sbt
Khi văn hóa thực hiện tốt các chức năng trên thì nó sẽ tác động tích cực đến:
- Xã hội: Với những chức năng trên, chủ tịch HCM chỉ rõ: phải làm thế nào để văn hóa thấm sâu
vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ,
văn hóa soi đường cho quốc dân đi.Soi đường ở đây là định hướng chính trị, hướng cho con
người vươn tới cái tốt đẹp, cái lành mạnh, cái tiến bộ.
- Mỗi con người: Những phẩm chất và nhân cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người. VH giúp
con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh thông qua
phân biệt cái đẹp với cái cái xấu xa, cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ. Từ đó giúp con người
phấn đấu làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái lạc hậu, bảo thủ ngày càng giảm, để

vươn tới chân, thiện, mỹ nhằm hoàn thiện bản thân.
Câu 18:Trình bày quan điểm của HCM về “văn hóa đời sống”. Theo anh(chị) khi thực hiện tốt quan
điểm trên sẽ có tác động tích cực như thế nào đến mỗi người, đến xã hội trong giai đoạn mở cửa hội
nhập hiện nay.

Trang 115/sbt
Tác động tích cực:
- VHĐS trong giai đoạn hội nhập hiện nay: Bước vào thời kỳ hội nhập, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn hóa đời sống của con người Việt Nam tất yếu phải có
sự thay đổi. Bước chuyển về mặt sản xuất vật chất xã hội đã phức tạp, bước chuyển về mặt văn
hóa đời sống càng phức tạp hơn. Một quan niệm mới về đạo đức và một lối sống mới hình thành,
đó là đạo đức hướng tới hành động, hướng vào hiệu quả công việc, hướng vào sự hình thành và
phát triển cá nhân, như một chủ thể mang nhân cách khẳng định cá nhân, cá tính, ý thức về vai
trò chủ thể, con người làm quen với lối sống thiết thực, khẩn trương, sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm, có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Có thể nói, ngoài mặt tích cực thì mặt trái của kinh
tế thị trường có tác động tiêu cực làm phai nhạt lối sống tình nghĩa, làm rạn vỡ tinh thần tập thể,
sự ổn định gia đình, đồng thời làm nảy sinh lối sống cá nhân chủ nghĩa, lối sống gấp,… Trên


thực tế, đạo đức xã hội nước ta hiện nay vừa có mặt tích cực vẫn có mặt tiêu cực, đang cản trở sự
phát triển. Từ góc nhìn văn hóa, yếu tố tiêu cực đang có xu hương biểu hiện ngày càng tăng. Mặc
dù, nó không hiện hữu nhưng đang có tính phổ biến, có thể phá hủy, bào mòn những nền tảng
tinh thần đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
- Tác động tích cực đến xh: Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, thực hiện tốt quan điểm trên của
CT HCM sẽ làm cho văn hoá Việt Nam trở thành một nền văn hoá ngang tầm thời đại, phục vụ
tích cực cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, đồng thời đóng góp làm phong phú thêm kho tàng văn hoá của nhân loai.
- Tác động tích cực mỗi cá nhân: Thực hiện tốt quan điểm trên sẽ giúp mỗi cá nhân có nền tảng
vững chắc, có bản lĩnh vững vàng và chỉ khi có được những điều đó thì mỗi cá nhân mới tiếp thu
tinh hoá văn hoá nhân loại được đúng đắn; mới chắt lọc được những gì thực sự là tinh hoa, vứt

bỏ những gì là phế thải của bất cứ loại phản văn hoá nào từ bên ngoài, mở rộng giao lưu văn hoá,
hội nhập mà không đánh mất cái bản sắc của dân tộc mình.
Câu 19: Trình bày quan điểm của HCM về vai trò của con người. Vận dụng quan điểm này để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở VN như thế nào?

Quan điểm của HCM về vai trò của con người : trang 126 sách hồng tím\
Xây dựng con người mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo tư
tưởng Hồ Chí Minh Việc bồi dưỡng và xây dựng con người mới chính là góp phần nhân sức
mạnh và hiệu quả của con người trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội cống bằng, dân chủ, văn minh. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã khẳng định
nhiệm vụ xây dựng con người về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt
đẹp, có bản lĩnh vững vàng. Đó là những con người theo truyền thống Nhân, Trí, Dũng của dân
tộc. Đây là phẩm chất toàn vẹn mà Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo giáo dục cán bộ, đảng
viên và nhân dân ta. Người chính là bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, biểu tượng tập trung của
truyền thống đó. Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII nêu
nhiệm vụ hàng đầu xây dựng và phát triển văn hoá là xây dựng con người Việt Nam với những
đức tính sau: - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế
giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. - Có ý thức
tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. - Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần
kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. - Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ
thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. - Thường xuyên
học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. Trung thành với
tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định xây dựng và
phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về
mối quan hệ giữa văn hoá với xây dựng con người mới, Văn kiện Đại hội IX chỉ rõ: Nhiệm vụ
trung tâm của sự nghiệp văn hoá là bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức,
tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan xã hội
chủ nghĩa, hướng con người tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Chính sách văn hoá hướng vào

việc xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự


cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công
nghiệp.

Câu 20:“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Anh/chị hãy phân tích câu nói trên của HCM? Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
nay, luận điểm trên có ý nghĩa như thế nào đối với sinh viên?
Trang 128/sbt



×