Tải bản đầy đủ (.docx) (288 trang)

Giao trinh nhap mon nganh ô tô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.62 MB, 288 trang )

Chương 2: KIẾN THỨC TỔNG QUÁT VỀ ÔTÔ
2.1 Phân loại ô tô theo nguồn động lực:
2.1.1. Ô tô dùng động cơ xăng:
Động cơ dùng tia lửa để đốt cháy hỗn hợp hơi xăng và không khí. Hơi xăng được hòa
trộn với không khí trước khi đi vào xi lanh động cơ. Điều này tạo ra hỗn hợp khí-xăng có khả
năng cháy cao. Sau đó hỗn hợp không khí – hơi xăng được nén lại và bốc cháy nhờ tia lửa điện ở
bougie, tạo ra sự giãn nở nhiệt trong xi lanh sinh lực đẩy piston đi xuống. Chuyển động tịnh tiến
của piston được biến đổi thành chuyển động quay của trục khuỷu nhờ vào cơ cấu trục khuỷu –
thanh truyền.

Hình 2.1: Động cơ xăng
2.1.2 Ô tô dùng động cơ diesel:
Khác với động cơ xăng, động cơ diesel nén không khí với tỉ số nén vào khoảng 22:1. Không
khí được nén tới áp suất rất lớn nên nhiệt độ tăng cao (khoảng 538 oC), lúc này, dầu Diesel được
phun vào xi lanh dưới áp suất cao sẽ tự bốc cháy, sinh công và đẩy piston đi xuống.


Hình 2.2: Động cơ diesel
2.1.3. Ô tô dùng động cơ điện:
Loại xe này sử dụng nguồn điện của accu để vận hành mô tơ điện. Thay vì dùng nhiên liệu, chỉ
cần nạp điện cho accu mà thôi. Loại xe này mang lại nhiều lợi ích như: không gây ô nhiễm,
không tiếng ồn khi hoat động…

Hình 2.3: Ô tô dùng động cơ điện 1:Bộ điều khiển công suất 2:Mô tơ điện 3:Accu
2.1.4 Ô tô dùng động cơ lai (Hybrid):
Loại xe này được trang bị đồng thời hai nguồn động lực khác nhau là động cơ đốt trong
và mô tơ điện. Do động cơ đốt trong dẫn động máy phát tạo điện năng nên không cần nguồn bên
ngoài nạp điện cho accu. Hệ thống dẫn động bánh xe dùng nguồn điện 270V – 550V, ngoài ra
các thiết bị khác dùng nguồn 12V.
Khi xuất phát hoặc chạy trong thnh phố, xe dùng động cơ điện cho ra moment xoắn cao
mặc dù tốc độ thấp (đây chính là ưu điểm của động cơ điện). Khi tăng tốc hoặc chạy trên xa lộ,


xe sẽ dùng động cơ đốt trong vì động cơ loại này có hiệu suất cao hơn khi vận hành ở tốc độ lớn.
Bằng cách phân bố tối ưu hai nguồn động lực nêu trên sẽ giúp giảm ô nhiễm do khí thải và nâng
cao tính kinh tế nhiên liệu.


Hình 2.4: Ô tô hybrid 1:Động cơ 2:Bộ đổi điện 3:Hộp số 4:Bộ chuyển đổi 5:Accu
2.2 Phân loại ô tô theo loại kiểu dáng:
2.2.1. Sedan (Anh) - Saloon (Mỹ):
Là loại xe mui kín 4 chỗ ngồi, chú trọng tiện nghi của hành khách và lái xe.

Hình 2.5: Mẫu xe sedan
2.2.2. Coupe:
Đây là loại xe hai cửa nhưng thường được gán cho các xe hai cửa có mui liền. Các mác xe
thường gặp: Alfa Romeo GTV, Aston Martin DB7 Vantage, BMW M Coupé, Mitsubishi
Eclipse…


Hình 2.6: Mẫu xe coupé
2.2.3 Convertible:
Là các xe có mui tháo hoặc gấp lại được. Mui có thể là loại hardroof (mui cứng), nhưng cũng
có thể là loại phủ bạt hoặc da với gọng kim loại. Hiện nay, người ta có xu thế ít coi convertible là
một dòng xe riêng, nó được liệt vào dòng cabriolet.

Hình 2.7: Mẫu xe
Convertible
2.2.4 Cabriolet:
Là xe mui trần, nội thất sang trọng. Loại xe này thường gặp ở các nước có khí hậu ôn đới vì khí
hậu ở đây không làm cho nội thất xe bị hư. Các xe thường gặp: Alfa Romeo, Spider, Aston
Martin DB7 Volante, Opel Astra Cabriolet, Volkswagen Polo Cabrio…



Hình 2.8: Mẫu xe Cabriolet
2.2.5.Hardtop:
Đây là loại xe sedan không có khung cửa sổ cũng như trụ đỡ giữa.

Hình 2.9: Mẫu xe Hardtop
2.2.6 Lift back (Hatch back):
Về cơ bản loại nay gần giống như loại coupé nhưng khu vực danh cho người và hàng hoá được
gắn liền nhau, cửa hậu và cửa sổ hậu mở ra cùng với nhau.


Hình 2.10: Hatchback
2.2.7 Van và Wagon:
Loại này có không gian dành cho hành khách và hàng hoá liền nhau. Nó chở được nhiều người
hay hàng hoá. Van chủ yếu chở hàng hoá còn Wagon chủ yếu chở người.

Hình 2.11: Van và wagon
2.2.8 Pick up:
Đây là loại xe tải nhẹ có khoang động cơ kéo dài về phía trước của ghế lái xe và có khoang sau
không mui để chứa hàng. Toyota Pickup, Ford Ranger,…

Hình 2.12: Xe Pick up
2.2.9 SUV (Sport utility vehicle):


Hình 2.13: Loại xe SUV
Lịch sử dòng xe thể thao đa dụng SUV
Ra đời từ 1953, xe thể thao đa dụng SUV đạt cực thịnh vào những năm 1990 nhờ khả năng
vượt địa hình hoàn hảo nhưng đang là gánh nặng của các hãng xe Mỹ.
Nếu câu hỏi ai là người sáng tạo nên xe "cơ bắp" hay xe đa dụng (minivan) không bao giờ có câu

trả lời chính xác thì với xe thể thao đa dụng SUV, mọi chuyện dễ dàng hơn nhiều. Theo New
York Times, danh hiệu thuộc về International Harvester.
Năm 1953, International Harvester, khi đó là nhà sản xuất máy cày và xe tải thương mại nổi
tiếng, đã trình làng một mẫu mang tên Travelall có thiết kế dựa trên hai dòng wagon và bán tải.
Trước đó hơn 20 năm, Chevrolet đã trình làng Suburban có vóc dáng tương tự nhưng đáng tiếc
nó không có hệ dẫn động 4 bánh, một trong những đặc trưng cơ bản của dòng SUV. Mãi đến
1960, Suburban mới trang bị hệ dẫn động này trong khi Travelall đã có từ 1956. Một ứng cử viên
khác cho danh hiệu "xe SUV đầu tiên trên thế giới" là Town Wagon của Dodge nhưng bản dẫn
động 4 bánh lại xuất hiện một năm sau Travelall. Thế nhưng, không may cho International là
hãng này có quá ít hậu thuẫn về kỹ thuật và thương mại. Vào lúc phải trang bị thêm để có thể bán
cho các gia đình ngoại thành, International đã quyết định tập trung vào dòng xe thương mại mà
bỏ quên Travelall. Trong lúc đó, những ông lớn như Chevrolet, Dodge và Jeep vẫn tiếp tục với
SUV và dĩ nhiên, đã thu lợi lớn khi nước Mỹ bùng nổ làn sóng đi xe to.

Travelall thế hệ đầu tiên.
Lịch sử của Travelall đến nay ít được nhắc tới bởi ngay cả quyết định khai sinh ra nó cũng rất mơ
hồ. Theo Dee Kapur, Tổng giám đốc International Truck Group tại Navistar, không ai biết
nguyên nhân tại sao và làm thế nào dự án Travelall được phê chuẩn. Bởi vào thời điểm đó, không
một cuộc nghiên cứu thị trường nào được thực hiện dù Travelall khác xa những gì hãng này đang
sản xuất. Tất cả chỉ dựa vào linh cảm.


Hummer H2, một trong những mẫu xe địa hình mẫu mực nhất
Kapur lý giải khi đó, các quan chức International Harvester đơn giản cho rằng Travelall sẽ thắng
lớn khi là sản phẩm đầu tiên kết hợp được lợi thế của cả xe tải và xe con. Và thực sự, nó đã thành
công và bán tốt trong suốt 22 năm kể từ 1953 đến 1975. Travelall chỉ được thiết kế lại một lần
đáng kể vào 1969. Ban đầu, Travelall có 2 cửa. Đến giai đoạn 1957-1961, nó được tăng thêm
một cửa nữa và sau đó ít lâu hoàn chỉnh thành mẫu xe 4 cửa. Một trong những dấu ấn đậm nhất
về Travelall là nhiếp ảnh gia nổi tiếng Ansel Adams sử dụng một chiếc để đi khắp nước Mỹ.
Những bức ảnh phong cảnh nổi tiếng được chụp từ nóc Travelall mà ông đề nghị độ thêm.

Cuộc đời đoản mệnh của Travelall và do xuất xứ từ một hãng ít tên tuổi nên nó ít xuất hiện trong
các tài liệu xe hơi. Thậm chí các nhà sưu tập xe cổ gần như không còn giữ lại một chiếc Travelall
nào. Từ rất lâu, mỗi khi nói về SUV là khách hàng liên tưởng ngay tới những sản phẩm của Jeep,
Chevrolet hay Land Rover.

Land Rover Range Rover Supercharged.
Tuy nhiên, một chi tiết thú vị là cái tên SUV, viết tắt từ "Sport Utility Vehicle", lại do Toyota phát
minh chứ không phải những hãng có truyền thống như Chevrolet hay Jeep. Ở Mỹ, khách hàng
thích gọi là "dẫn động 4 bánh" hoặc "4x4".


Sau hơn 10 năm im ắng, SUV bắt đầu thời cực thịnh của mình vào những năm 1990. Nó nhanh
chóng trở nên phổ biến ở những nước rộng lớn và địa hình hiểm trở như Mỹ, Canada hay
Australia. Lợi thế của SUV là gầm cao, khả năng vượt địa hình tốt và an toàn cho hành khách.
Để thỏa mãn khách hàng, các hãng xe Mỹ đã liên tiếp cho ra đời các thế hệ SUV với động cơ to
và khỏe hơn. Và đây là điểm yếu căn bản khiến General Motors, Ford hay Chrysler thất bại trước
các hãng xe Nhật khi mà giá xăng ngày càng lên cao vào đầu những năm 2000.

Xe địa hình nổi tiếng của Mỹ, Jeep Commander..
Vào thời hoàng kim, các hãng tung ra hàng loạt sản phẩm và những biến tấu của SUV cũng thay
nhau xuất hiện. Quan niệm truyền thống về SUV biến đổi và giờ đây, xe một cầu, gầm thấp và
thậm chí chẳng bao giờ vượt địa hình cũng được xếp vào phân khúc này.
Nguyên nhân đơn giản là yêu cầu đa dạng hóa sản phẩm khiến các nhà sản xuất có hai phiên bản
một cầu hoặc hai cầu trên cùng một mẫu xe vẫn được gọi là SUV.
Vì thế, thể thao đa dụng giờ chỉ còn giữ lại phần cơ bản là những chiếc có khung gầm dựa trên
xe tải hạng nhẹ, khoảng sáng gầm xe lớn và vào thời điểm này, chỉ còn Hummer, Land Rover và
Jeep là những đại diện tiêu biểu nhất. Toyota Landcruiser, Toyota Fortuner, Ford Everest, Ford
Escape,…
2.2.10 Crossover
Mới xuất hiện trong 10 năm trở lại đây nhưng crossover đã nhanh chóng chiếm được tình

cảm của thị trường nhờ cấy ghép sức mạnh dòng xe thể thao đa dụng (SUV) với vẻ đẹp
sedan. Ở Việt Nam, Porsche Cayenne, Nissan Murano, Lexus RX, BMW X5 là những ví dụ
điển hình nhất.


Murano - mẫu crossover của Nissan rất được
chuộng tại Việt Nam.
Đa số những người lần đầu tiên gặp gỡ, và kể cả nhiều lần sau nữa vẫn giữ cảm giác mới lạ và
hấp dẫn trước sự xuất hiện của Nissan Murano, Lexus RX, Infiniti FX hay BMW X5 trên đường
phố Việt Nam. Uyển chuyển, mạnh mẽ và đầm chắc là nhận xét chung nhất mà mọi người dành
cho dòng xe non trẻ này. Nhưng đối với giới hâm mộ xe thể thao đa dụng truyền thống (còn gọi
là xe địa hình) thì crossover ra đời giống như sự lai tạp không đáng có. Họ tôn thờ nét cứng cáp,
góc cạnh, phong trần của Jeep hay Land Rover hơn là vẻ "nữ tính" của những chiếc xe lai.
Tuy nhiên, trước trào lưu thiết kế "cong hóa" trong những năm gần đây, crossover nhận được sự
đồng tình của khách hàng và đặc biệt là người Mỹ. Trong 5 năm, số mẫu crossover tại đây tăng
từ 14 lên 41, gấp gần 3 lần và doanh số tăng từ 541.000 lên 2,24 triệu. Trong khi đó, SUV giảm
từ 2,98 triệu xuống 2,45 triệu xe. Những ưu điểm nổi bật của crossover là an toàn, dễ lái và tiết
kiệm nhiên liệu. Bên cạnh đó, giá cả cũng là lợi thế của dòng xe này do nó chủ yếu dựa trên
khung sườn của các dòng xe du lịch hạng nhỏ.
Cho đến nay, không phải ai cũng đồng ý với khái niệm “crossover”. Theo họ, crossover là từ “vô
định hình” và nó liên quan tới mọi thứ, từ những chiếc wagon của Audi tới Porsche Cayenne. Sự
ra đời của nó cũng không làm hài lòng các nhà sản xuất Hoa Kỳ. Do không thể cạnh tranh với
nhóm 3 ông lớn (Big Three) của Mỹ trong phân khúc xe SUV nên các hãng xe Nhật Bản đã
mượn thiết kế của dòng xe du lịch, ghép với SUV để sáng tạo nên “crossover”.
Lần đầu tiên thuật ngữ “crossover” được đặt cho chiếc RAV4 của Toyota năm 1995. Nhưng sau
đó, Honda mới là hãng có cú “huých” vào thị trường Nhật Bản với mẫu CR-V có khung sườn lấy
từ Honda Civic. Tại Mỹ, phản ứng của thị trường trước sự xuất hiện của crossover làm sửng sốt
hầu hết các nhà sản xuất, đặc biệt là 3 ông lớn ngự tại Detroit gồm Ford, Chrysler và General
Motors. Thủ phủ ngành công nghiệp Mỹ đã miễn cưỡng phải thay đổi tư duy về SUV và bắt đầu
“mặn mà” với crossover.

Hiện tại, Honda là hãng dẫn đầu phân khúc crossover ở Mỹ với doanh số 365.000 chiếc. Tuy
bước chân vào thị trường chậm hơn nhưng GM cũng đạt được thành tựu đáng kể với vị trí thứ 2,
Ford thứ 3 còn Toyota xếp thứ 4. Doanh số của 3 công ty Mỹ tăng 30% trong năm nay. Với
những bước tiến quan trọng trong thời gian gầy đây, các chuyên gia cho rằng crossover sẽ dần
tiếm ngôi SUV, cho dù nó không tạo nên "cơn sốt" trên thị trường như SUV đã từng có.
2.2.10. MPV (Multi purpose vehicle): Xe đa dụng, có thể vừa chở hàng vừa chở người.


Hình 2.14: Loại xe MPV
2.3 Phân loại theo kiểu truyền động:
2.3.1.Loại cầu trước chủ động (Hình A):
Ở xe loại này động cơ được đặt ở phía trước và cầu trước là cầu dẫn động.

Hình 2.15: Loại cầu trước và cầu sau chủ động
2.3.1 Loại cầu sau chủ động (Hình B):
Ở loại này động cơ đặt ở phía trước và xe được dẫn động bằng cầu sau.
2.3.2 Loại truyền động 4 bánh - 4WD:
Loại này xe được dẫn động thường xuyên bằng cả 2 cầu, do vậy, xe loại này có công suất kéo
tốt
hơn loại xe thường
vì tận
dụng được khả năng
bám
tốt hơn.


Hình 2.16: Loại 4WD
Ưu nhược điểm của các hệ dẫn động
Mỗi hệ dẫn động cầu trước, cầu sau, 4 bánh và toàn bộ các bánh có ưu và nhược điểm
riêng. Tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng và tùy vào từng loại xe mà các hãng có cách áp dụng

thích hợp. Chẳng hạn xe địa hình thường là dẫn động 4 bánh còn sedan đa số sử dụng hệ
dẫn động cầu trước.
Động cơ sinh ra công suất và mô-men xoắn. Để truyền năng lượng tới các bánh khiến chúng
quay, chiếc xe của bạn cần phải có cơ cấu dẫn động. Tuy nhiên, không phải tất cả các bánh đều
trực tiếp nhận công suất và mô-men xoắn từ động cơ. Tùy thuộc yêu cầu kỹ thuật giữa các loại
xe và tại từng thời điềm mà người ta có những phương pháp truyền động khác nhau.

Sơ đồ hệ dẫn động 4 bánh của Hummer.
Một cách tổng quát nhất, hiện có 4 cơ cấu dẫn động gồm AWD (all-wheel drive) tức là hệ dẫn
động tất cả các bánh; 4WD (four-wheel drive) để chỉ xe dẫn động 4 bánh; RWD (rear-wheel
drive) là hệ dẫn động cầu sau và cuối cùng là FWD (front-wheel drive) - dẫn động cầu trước.
Bánh nào trực tiếp nhận công suất và mô-men xoắn được gọi là bánh dẫn động.
Dẫn động cầu trước FWD
Gần như tất cả các xe ngày nay đều sử dụng hệ dẫn động cầu trước. Những năm đầu thế kỷ 20,
kiểu FWD thuộc loại "hiếm có khó tìm" nhưng giờ đây, nó được trang bị trên khoảng 70% số xe
mới xuất xưởng. Như vậy, rõ ràng đã có một cuộc dịch chuyển ngoạn mục trong ngành công
nghiệp ôtô khi từ hệ dẫn động cầu sau chuyển hết sang dẫn động cầu trước.
Nguyên nhân chính nằm ở chỗ các xe hiện đại đều có động cơ đặt trước thay vì đặt sau như trước
kia. Vì vậy, để loại bỏ cơ cấu truyền động từ trước ra sau vốn "lằng nhằng" và tiêu hao nhiều


năng lượng, truyền công suất tới ngay bánh trước là giải pháp khả thi nhất. Ngoài ra, áp dụng
FWD đồng nghĩa với việc các nhà sản xuất có thể giảm bớt các chi tiết, hạ thấp chi phí. Đồng
thời, khối lượng xe giảm đi cũng khiến nó "ăn" ít xăng hơn.
Ưu điểm quan trọng nữa của hệ dẫn động FWD là do động cơ đặt phía trên trục trước nên trọng
lượng của nó được truyền thẳng xuống bánh dẫn động khiến độ bám đường tăng lên, giúp xe
hoạt động tốt ở các mặt đường trơn trượt.
Ngoài những ưu điểm trên, FWD còn có nhược điểm liên quan tới tính năng của xe. Đầu tiên,
trong trường hợp phân bố trọng lượng tập trung xuống phía sau, hệ dẫn động cầu trước rất khó
tăng tốc và luôn thất thế trên các đoạn đường thẳng. Điều khiển các xe sử dụng FWD rất dễ bị

hiện tượng "oversteer", tức bánh sau bị trượt và không còn ma sát. Nhược điểm cuối cùng là dù
FWD hết sức thực tế nhưng thiết kế của chúng lại mâu thuẫn với tính năng vận hành của xe. Tại
sao xe của bạn đi bằng 4 bánh nhưng lại đặt tất cả nhiệm vụ định hướng, phanh và tăng tốc lên
hai bánh trước?
Hệ dẫn động cầu sau RWD
Rõ ràng hai kiểu FWD và RWD có những ưu nhược điểm trái ngược nhau. Với RWD, xe tăng
tốc tốt hơn. Hai bánh trước được giải thoát khỏi nhiệm vụ dẫn động và chỉ tập trung vào việc dẫn
hướng (bánh lái). Tuy nhiên, ưu điểm này không làm RWD trội hơn so với FWD. Thời kỳ đầu,
sử dụng RWD xe phải có trục truyền động và một bộ vi sai để truyền công suất từ động cơ xuống
trục sau. Thiết bị này làm tăng giá thành sản xuất và cùng với đó, trọng lượng xe tăng lên. Vì
vậy, RWD thực tế là không hiệu quả hơn FWD. Ngoài ra, khi đi xe dẫn động cầu sau mà không
có hệ thống kiểm soát độ bám đường, tài xế rất dễ mất lái ở các đoạn đường trơn trượt hay mắc
kẹt xuống rãnh, mương, ổ gà.
Dẫn động 4 bánh (4WD) và toàn bộ các bánh (AWD)
Hai hệ dẫn động giới thiệu ở trên chỉ sử dụng một nửa số bánh để dẫn động. Và tất nhiên, sẽ có
người đặt ra câu hỏi tại sao không sử dụng cả 4 bánh. Đáp lại, ngành công nghiệp ôtô có câu trả
lời rất sớm khi mà hãng xe nước Đức Spyker trình làng hệ thống dẫn động 4 bánh toàn thời gian
(full-time) từ năm 1903 tại triển lãm xe hơi Paris.
Trước hết, cần phải nói rõ rằng tại sao lại có sự khác biệt giữa dẫn động bánh 4WD và dẫn động
tất cả các bánh AWD. Thuật ngữ 4WD hình thành trên cơ sở dùng để chỉ kiểu dẫn động 4 bánh
thời kỳ đầu của hãng xe địa hình Jeep và xe tải. Nó ám chỉ các xe có chế độ chọn dẫn động 2
bánh hoặc 4 bánh bằng công tắc gắn trong xe.
Trên các mẫu xe sử dụng 4WD thường có chế độ "low - thấp" và "high - cao". Khi chọn "low",
hệ truyền động cấp nhiều mô-men xoắn hơn để đi trên các đoạn đường gồ ghề hay trèo đèo. Còn
chế độ "high" sử dụng trên các đoạn đường trơn trượt. 4WD còn sử dụng bộ khoá vi sai trung
tâm nhằm tránh những chênh lệch không cần thiết giữa bánh bên trái và bên phải khi đi trên địa
hình không bằng phẳng.
AWD dùng để chỉ các xe dẫn động 4 bánh tại mọi thời điểm và không có chế độ "low" hay
"high". Trong khi khái niệm 4WD chủ yếu dùng cho xe thể thao đa dụng SUV, liên quan tới khả
năng vượt địa hình thì AWD lại quen thuộc với các xe sedan, wagon, đa dụng minivan. AWD có

ý nghĩa giúp cải thiện độ bám đường trong điều kiện thời tiết xấu. Một vài mẫu xe như Lexus
RX330 là ví dụ điển hình, mặc dù chúng là xe SUV nhưng lại sử dụng AWD thay vì 4WD. Vì
thế, người ta gọi kiểu xe là "crossover".
Chữ "all - tất cả" trong từ All Wheel Drive có một chút mâu thuẫn và dễ gây hiểu lầm khi mà
hiện nay hầu hết các xe AWD có khả năng phân bổ toàn bộ công suất xuống bánh sau khi phát
hiện bánh trước bị trượt. Những chiếc Subaru hay Chrysler có thể đi trên đường trơn trượt một


cách thoải mái vì chúng có thể chuyển công suất từ bánh trượt (mất độ bám đường) sang bánh
không bị trượt.
Với những khả năng như vậy 4WD hay AWD dường như là hệ dẫn động tốt nhất. Nhưng thực tế
lại không hoàn toàn chính xác. Cả hai đều có trọng lượng tăng lên đáng kể, thiết kế phức tạp và
giá thành cao. Chúng còn làm tăng mức tiêu hao nhiên liệu bởi tăng sức cản gió do cồng kềnh.
Đến một lúc nào đó, khi bộ kiểm soát độ bám đường trở nên phổ biến hơn trên các xe RWD hay
FWD, 4WD và AWD sẽ trở thành dĩ vãng.
Với tất cả các ưu nhược điểm trên, không thể có hệ dẫn động tốt nhất trong tất cả các hệ quy
chiếu. Vì vậy, bạn hãy chọn cho mình một chiếc xe có chế độ hợp lý, tuỳ thuộc vào điều kiện,
công việc và sở thích của mình.
2.4 Các thông số chính của ôtô:

Hình 2.17 Các thông số hình học của ô tô
A: Chiều dài tổng thể (Overall length, total length).
B: Chiều rộng xe (Vehicle width).
C: Chiều cao xe (Vehicle height).
D: Phần nhô phía trước tính từ tâm bánh xe trước (Front overhang).
E: Chiều dài cơ sở, khoảng cách giữa hai cầu xe (Wheel Base)
F: Phần nhô ra phía sau tính từ tâm bánh xe sau (Rear overhang).
G: Khoảng cách từ mặt đất đến sàn xe (Ground clearance).
H , I: Chiều rộng cơ sở, khoảng cách giữa hai bánh xe chung cầu xe (Track, tread, track width,
tread width, wheel track, wheel tread).

H: Chiều rộng cơ sở hai bánh phía trước (Front track, Track front).
I: Chiều rộng cơ sở hai bánh phía sau( Rear track, Track rear).
J: Góc tiến (Approach angle, Angle of incidence).
K: Góc phần nhô ra ở phía sau (Departure angle, Rear overhang angle).
L: Chiều cao có tải (Loading height).
M: Chiều dài của thùng xe (Chassis frame length).
N: Chiều cao của thùng chở hàng hoá (Cargo body height).
O: Chiều rộng bên trong thùng chở hàng hoá (Interior cargo body width).
P: Chiều rộng thùng chở hàng hoá (Cargo body width).
R: Chiều dài bên trong thùng chở hàng hoá (Interior cargo body length).
2.5 Các công ty ôtô nổi tiếng và biểu tượng:
2.5.1. FORD MOTOR COMPANY


a.Vài nét về Ford Motor Company
-Vào ngày 16/6/1903, với ý tưởng vĩ đại là sản xuất xe hơi cho mọi người, Henry Ford đã cùng
với các cộng sự đã lặng lẽ khai trương Công ty ô tô Ford ở Mỹ. Từ đó đến nay, Ford không
ngừng lớn mạnh và trở thành tập đoàn sản xuất ô tô lớn tren thế giới. 1922, Ford Motor
Company đã mua lại công ty Lincoln với giá 8 triệu USD. Lincoln là hãng xe được đặt theo tên
của tổng thống Mỹ Lincoln, chỉ sản xuất vài dòng xe rất sang trọng, được cải tiến mỗi năm.
-Công ty ôtô Ford tiếp tục mở rộng phát triển trên toàn thế giới. Năm 1925, công ty mở nhà
máy lắp ráp Koyasu tại thành phố Yokohama, Nhật Bản. 1990 Ford Motor Company mua lại
công ty Jaguar (Anh). 1993 Aston Martin trở thành công ty thuộc quyền sở hữu của hãng. Aston
Martin là biểu tượng của dòng xe trang nhã, những xe thể thao có công suất lớn, được sản xuất
bởi các thợ lành nghề. Trong hơn 85 năm tồn tại, chỉ có khoảng 16.000 chiếc được sản xuất và ¾
vẫn còn được sử dụng.1999 Volvo trở thành thành viên của tập đoàn Ford Motor Company. Năm
2000, Ford Motor Company mua lại tập đoàn Land Rover từ tay BMW. 2001 Ford Motor
Company sở hữu 33,4% cổ phiếu của hãng Mazda và giữ quyền kiểm soát công ty này.
-Ford không chỉ là động lực thúc đẩy ngành công nghiệp sản xuất ô tô trên thế giới phát triển
mà còn góp phần rất lớn cho sự phát triển của xã hội nhờ các ý tưởng đột phá như sản xuất ô tô

hàng loạt hoặc qui định mức lương tối thiểu vào thời bấy giờ. Đi lên vững mạnh từ suốt hơn 100
năm qua, Ford Motor Company trở thành huyền thoại của nước Mỹ.
Hiện nay Ford là tập đoàn đứng thứ ba trên thế giới về san xuất ô tô, có mặt trên hơn 200 thị
trường ở khắp các châu lục. Sở hữu nguồn tài chính vững mạnh, nguồn nhân lực xuất chúng và
chuyên cung cấp các sản phẩm và dịch vụ xuất sắc. Tập đoàn Ford Motor là một trong những
công ty được kính trọng nhất, ngưỡng mộ và tin cậy nhất thế giới.
b.Biểu tượng:
Năm 2003, Ford Motor kỷ niệm 100 năm thành lập nhưng logo của hãng hiện nay mới chỉ có
hơn 30 năm tuổi. Trong lịch sử phát triển, Ford đã không ít lần thay đổi logo. Năm 1903, thương
hiệu “Ford Motor Company” được dùng trong các giao dịch thương mại đầu tiên, nhưng khi bắt
đầu sản xuất hàng loạt những chiếc xe Model A, trợ lý của Henry Ford đã có những cải tiến đặc
biệt để biến tên công ty trở thành biểu tượng của hãng bằng cách bao quanh nó một đường viền
hết sức độc đáo và cực kỳ thời trang vào lúc đó.

Logo của Ford năm 1903
Trải qua những bước phát triển ban đầu, Henry Ford nhận thấy cần phải có những thay đổi trong
thiết kế logo sao cho đơn giản, ưa nhìn và ấn tượng. Cũng rất tâm linh, logo đó phải thể hiện
bước tiến vượt bậc của Ford Motor trong tương lai. Năm 1906, logo với tên Ford viết nghiêng
45o được cách điệu ở chữ F và chữ D sao cho mềm mại, bay bổng, thể hiện sự tinh tế và ước
muốn vươn cao, vươn xa hơn nữa của Henry Ford được trình làng và đăng ký bản quyền tại văn
phòng phát minh sáng chế Mỹ năm 1909.


Bên cạnh logo đã được đăng ký tại Mỹ, biểu tượng Ford hình oval lần đầu tiên được giới thiệu
tại Anh vào năm 1907 do các đại lý Perry, Thornton và Schreiber - người đưa Ford đặt chân vào
nước Anh - thiết kế với mục đích quảng cáo cho các sản phẩm của Ford như là “dấu chứng nhận
cho lòng tin và sự tiết kiệm ”.

Logo Ford 1912
Năm 1911, Ford đưa ra logo hình oval quyết định và sử dụng nó để thống nhất các nhà buôn tại

Anh. Tuy nhiên trên các sản phẩm và trong các giao dịch thương mại, Ford vẫn dùng logo đầu
tiên cho đến những năm 1920. Năm 1912, chỉ trong một thời gian ngắn, Ford đã loại bỏ toàn bộ
những logo hình oval và thay vào đó là logo cánh chim hình tam giác trên các sản phẩm của
mình. Logo này được thiết kế để thể hiện cho tốc độ, sự nhẹ nhàng, vẻ duyên dáng và sự ổn định.
Logo có hai màu, vàng và xanh đen, trên đó mang dòng chữ “Universal Car”. Henry Ford không
thích biểu tượng này, và cũng chỉ trong một thời gian ngắn, người ta không còn thấy nó trên các
sản phẩm của Ford.

Logo Ford 1928
Năm 1927, người ta thấy một logo hình oval mang tên Ford xuất hiện trên lưới tản nhiệt của mẫu
Model A mới với nền màu xanh hoàng gia thẫm tương tự với logo ngày nay của Ford. Logo này
được sử dụng trong hầu hết các mẫu xe cho đến cuối những năm 1950. Được sử dụng một cách
thống nhất trong toàn bộ các giao dịch thương mại, đến giữa những năm 1970 ý tưởng về logo
hình oval này mới được thiết kế lại.
Năm 1976, logo Ford hình oval với hai gam màu xanh và bạc được sử dụng như là dấu hiệu để
chứng nhận thương hiệu của Ford Motor Company. Nó dễ dàng trở nên phổ biến và thích nghi
với tất cả các nhà máy sản xuất của Ford trên toàn thế giới.


Logo hiện nay của Ford
Logo mới gồm hai hình elip đồng tâm có tỷ lệ trục dài trên rộng là 2,55 phù hợp với kích cỡ của
chữ Ford với tỷ lệ 2,4. Toàn bộ logo được in nổi tượng trưng cho sự mạnh mẽ và thịnh vượng.
Hình oval ngoài cùng còn được đánh bóng màu bạc ánh kim, tượng trưng cho công nghệ vượt
bậc của những sản phẩm mang thương hiệu Ford. Và dĩ nhiên chúng ta không thể bỏ qua gam
màu xanh xuyên suốt 100 năm tồn tại, phát triển, đó là màu tượng trưng cho sự thân thiện,
trường tồn và luôn quan tâm đến người tiêu dùng của Ford Motor Company.
c.Các sản phẩm tiêu biểu:
Escape

Loại động cơ

Điện động cơ
Dung tích xi lanh
Công suất cực đại
Tỉ số nén
Phân phối nhiên liệu
Kinh tế nhiên liệu
Hộp số
Hệ thống thải

Duratec 23-2,3 L V6
EEV
2,3 lít
153 mã lực tại 4250v/p
9,7:1
Phun đa điểm
Thành phố: 22l/100km
Xa lộ: 25l/100km
Số tay 5 tốc độ
Số tự động 4 tốc độ
Đơn, sử dụng catalyst

Duratec 30-3,0L V6
EEV
3 lít
193 mã lực tại 4850v/p
10:1
Phun đa điểm liên tục
Thành phố: 20l/100km
Xa lộ: 25l/100km
Số tự động 4 tốc độ

Đơn, sử dụng catalyst


Ford GT

Động cơ
Điện động cơ
Công suất cực đại
Tỉ số nén
Hệ thống nhiên liệu
Hộp số

5,4 L V8 32 van DOHC
EEV-V
550 mã lực tại số vòng quay 6500vòng/phút
8,4:1
EFI
Số tay 6 tốc độ

Mondeo

Động cơ
Số van

Mondeo 2.0
16 van

Mondeo 2.5 Ghia
24 van



Bố trí xi lanh
Công suất cực đại
Moment xoắn cực đại
Hộp số

4 xi lanh thẳng hàng
105 kW tại 6000 v/p
185 Nm tại 4500 v/p
4 số tự động

V6
127 kW tại 6100 v/p
226 Nm tại 4100 v/p
5 số tự động kết hợp với sang số tay

Focus

Động cơ
Điện động

Dung tích xi
lanh
Công suất
cực đại
Tỉ số nén
Phân phối
nhiênliệu
Kinh tế
nhiên liệu

Hộp số
Hệ thống
thải

Duratec 20-2,0 l, 4 xi
lanh thẳng hàng
EEV
2,0 lít
136 mã lực tại 6000v/p
10:1
Phun đa điểm liên tục
Thành phố: 26l/100km Xa
lộ: 35l/100km
Số tay 5 tốc độ
Đơn, thép không rỉ, sử
dụng bộ catalytic

TRANSIT


Động cơ
Dung tích xi lanh

Xăng
2.3 L thẳng hàng

Diesel
2.4 L thẳng hàng

Công suất cực đại

107 kW tại 5500 v/p
88 kW tại 4000 v/p
Moment xoắn cực đại
200 Nm tại 2500 v/p
240 Nm tại 1800 v/p
Hộp số
5 số tay
2.5.2.VOLKSWAGEN
a. Lịch sử:
-Volkswagen được thành lập theo mong muốn của Hitler. Được biết rằng, trong toàn bộ thời
gian bị giam (1924), Hitler đã đọc những cuốn sách viết về Henry Ford và ông đã có những ấn
tượng rất sâu đậm. Khi Hitler lên nắm quyền lực, ông ta đã làm 2 việc:
1. Xây dựng siêu xa lộ mang tên Autobahn nối liền ccác thành phố quan trọng trong nước.
2. Chỉ thị cho một người Áo tên là Ferdinand Porsche phát triển ô tô cho quốc gia, Hitler mong
là mỗi gia đình sẽ có một ô tô để trong nhà. Hitler đặt tên cho nó là Volkswagen nghĩa là ô tô của
công chúng.
-Đáp ứng theo yêu cầu của Hitler, Porsche thiết kế một chiếc xe cầu sau chủ động có động cơ
4 xi lanh được làm mát bằng không khí. Sở dĩ làm mát động cơ bằng không khí vì nhà độc tài
này nghĩ là vương quốc của mình sẽ sớm mở rộng sang đến tận sa mạc Châu Phi. Chiếc xe
không chỉ có những đặc trưng riêng biệt mà nó được thiết kế với độ tin cậy, tính kinh tế và sự
thoải mái cao. Ngày nay đó chính là chiếc Beetle hay như cách người Mĩ hay gọi là Bug.
-1941 một nha máy rất lớn được xây dựng. Khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, các xe của
Volkswagen được dùng cho mục đích quân sự tại chiến trường sa mạc Bắc Phi.
-Sau chiến tranh, khu vực mà nhà máy tọa lạc nằm dưới sự kiểm soat của Anh quốc. Người
Anh không thích sản xuất ô tô tại nước họ n6n đã giúp đỡ Volkswagen xây dựng lại nhà máy và
đổi tên là Wolfsburg. Ngày nay, Wolfsburg vẫn là đại bản doanh của Volkswagen đồng thời là
nhà máy sản xuat ô tô lớn nhất thế giới.
-Doanh số bán ra của Volkswagen trong suốt thập niên 90 đạt mức 21.000.000 chiếc phá vỡ kỉ
lục 15.000.000 chiếc do chiếc Fod GT lập nên.
Từ khi xuất hiện lần đầu tiên cách đây 25 năm, Golf (hoặc là Rabit) là mẫu xe bán chạy nhất

Châu Âu với 4 thế hệ được giới thiệu.
-Xuyên suốt lịch sử của công ty, Volkswagen vẫn là công ty sản xuất ô tô lớn nhất nước Đức
với thành viên chỉ có Audi. Từ những năm 80, Volkswagen bắt đầu quốc tế hoá khi mua Seat
(80), Skoda(đầu những năm 90). Năm 1998, Volkswagen có thêm 3 thành viên mới đó là
Lamborghini, Bugatti và Bentley.
-Các công ty trực thuộc VW: Audi, Seat, Skoda, Bentley, Lamborghini, Bugatti.
b. Logo:

c. Sản phẩm:


Loại động cơ
Tỉ số nén
Công suất cực đại
Moment xoắn cực đại
Tăng tốc 0-60mph
Tốc độ cực đại

2.0l 4 xi lanh thẳng hàng
10:1
115 hp tại 5200 v/p
122 Nm tại 2600 v/p
10,1 giây
118mph

2.5.3.AUDI
a. Vài nét về Audi:
-Audi là thành viên lớn nhất của Volkswagen. Không có những trang sử huy hoàng như các
công ty khác, đơn giản chỉ vì Audi được sáng lập 1932 do 4 nhà sản xuất ô tô nhỏ là Audi,
Horch, Wanderer và DKW.

-Mặc dù là nhà sản xuất ô tô lớn nhì nước Đức, nhưng Audi không sản xuất xe với số lượng
lớn mà chú trọng tới sản xuất ô tô sang trọng với số lượng có hạn mà thôi. Mục tiêu hiện nay
của Audi chính là Mercedes, dù vẫn chưa vượt qua được Mercedes ở dòng xe gia đình nhưng
Audi lại rất thành công trong thiết kế kiểu dáng và tính năng thể thao. Điều này tạo ra lợi thế cho
Audi trong cạnh tranh với BMW và Jaguar.
-Thế mạnh của Audi chính là chất lượng, ở điểm này Audi hơn hẳn BMW và Mercedes. Còn kĩ
thuật thì không hẳn là Audi thua kém BMW và Mercedes như người ta thường nói.
b. Biểu tượng:
Có thể ít nổi tiếng hơn, nhưng bên cạnh biểu tượng của BMW và Mercedes-Benz, logo Audi
với 4 vòng tròn đan vào nhau cũng là dấu hiệu chứng tỏ sự sang trọng và chất lượng hàng
đầu mà bất cứ chủ xe nào cũng muốn có.
Nước Đức cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, dân gian truyền tụng về một người thợ làm
bánh vô danh, ngụ tại thành phố Munich, bỗng trở thành “nhà thiết kế” chính biểu tượng của hầu
hết các hãng xe hơi. Thoạt đầu, anh ta lấy một chiếc bánh, chia thành 3 phần đều nhau và gửi cho
Mercedes làm logo. Một chiếc bánh khác được chia đều thành 4 phần dành cho BMW. Đến lượt
Volkswagen, bí quá, người thợ “chém bừa” lên đó mấy nét, thành hình hai chữ V ngoắc vào
nhau. Không hài lòng lắm nhưng Volkswagen cũng mang nó về.


Khi tới lượt 4 ông chủ của Audi đến và yêu cầu người thợ bánh thiết kế logo cho họ, anh ta thực
sự bối rối. Chẳng còn ý tưởng gì để thực hiện trên chiếc bánh bé tí teo nữa. Nhưng trong lúc bày
bánh ra đĩa mời khách, đến chiếc thứ tư, anh ta liền nảy ra ý: lấy 4 chiếc bánh tượng trưng cho 4
công ty thành lập nên Audi. Và bởi không muốn làm mếch lòng bất cứ ai trong số những vị
khách sang trọng ngoài kia, một cách bình đẳng, anh ta đặt chúng thành hàng ngang, tuy hơi tốn
diện tích. Lúc đĩa bánh cùng ý tưởng về logo của hãng được đặt lên bàn, 4 ông chủ nhìn nhau
và... cười.
Đây chỉ là câu chuyện mà dân mê xe hơi nghĩ ra để lý giải về sự gặp gỡ tình cờ trong thiết kế
logo của các hãng xe hơi Đức mà Audi là một trong số đó. Tuy còn ít được biết đến ở Việt Nam,
nhưng sau gần 100 năm lịch sử, chất lượng và uy tín của các sản phẩm Audi thực sự là nhãn hiệu
mang tên “Made in Germany”. Bằng chứng là Audi trở thành mác xe được ưa thích nhất năm

2004 tại Trung Hoa láng giềng và rất có thể không bao lâu nữa, những chiếc xe hơi Audi sẽ tung
hoành trên đường phố Việt Nam.

Phiên bản mui trần của A4
Audi “ngày nay” có tiền thân từ hãng xe và đội đua nổi tiếng mang tên Auto Union AG. Auto
Union AG thành lập năm 1932 sau sự sáp nhập của bốn công ty có trụ sở tại quận Saxony bao
gồm: Audi “ngày xưa” (thành lập năm 1909), Horch (thành lập năm 1899) tại Zwickau,
Wanderer ở Chemnitz-Siegmar (thành lập năm 1885) và DKW trong khu Zschopau (1904). Thời
điểm đó Auto Union AG là công ty có quy mô lớn thứ hai trên thế giới. Cũng trong năm 1932,
Auto Union thông qua biểu tượng 4 hình tròn xếp lồng vào nhau, tượng trưng cho 4 công ty.
Tất cả các hình tròn có kích thước hoàn toàn bằng nhau, nằm bình đẳng trên một đường ngang,
lồng vào nhau, thể hiện sự đoàn kết và tôn trọng lẫn nhau.
Sau Đại chiến thế giới thứ hai, các nhà máy của Auto Union nằm trên lãnh thổ thuộc Đông Đức.
Hầu hết những người lãnh đạo của hãng chuyển đến Bavaria, nơi đóng đô của BMW. Tại đây, họ


thành lập nên Auto Union GmbH (công ty TNHH Auto Union) vào năm 1949. Auto Union
GmbH sản xuất ôtô như truyền thống và 4 vòng tròn đan xen vẫn là biểu tượng chính thức của
công ty. Năm 1969, Auto Union GmbH liên kết với hãng NSU để hình thành nên Audi NSU
Auto Union AG (công ty cổ phần Audi NSU Auto Union). Do cái tên này quá dài, không thuận
tiện cho việc kinh doanh và quảng bá thương hiệu, năm 1985, công ty đổi tên thành Audi AG
(công ty cổ phần Audi). Mặc dù xuất hiện thêm công ty thứ 5 cùng tạo nên Audi “ngày nay”,
nhưng trên quan điểm về giá trị thương hiệu, hãng vẫn dùng logo 4 vòng tròn, vốn đã quen thuộc
với người tiêu dùng trong suốt 53 năm tới lúc đó.

44 chiếc Audi xếp thành hình logo, kỷ niệm con số 15 triệu xe bán ra trong 40 năm, 1975-2004.
Không ít người lần đầu tiên nhìn thấy logo Audi đã liên tưởng đến biểu tượng của thế vận hội
Olympic. 5 vòng tròn trên lá cờ Olympic được bá tước Pierre de Coubertin, vị chủ tịch đầu tiên
của Uỷ ban Olympic quốc tế, giới thiệu năm 1914 và trở thành biểu tượng của Thế vận hội 1920
tại Antwerp, Bỉ, tượng trưng cho 5 châu lục cùng sát cánh bên nhau trong phong trào Olympic.

Tới nay, 4 vòng tròn liên hoàn của Audi đã có 73 năm tuổi và thương hiệu này cũng trải qua gần
100 năm tồn tại. Rất có thể, người thiết kế logo cho Audi đã chịu ảnh hưởng về ý nghĩa và nghệ
thuật tạo hình từ biểu tượng Olympic. Xuyên suốt 73 năm tồn tại, trải bao thăng trầm, Audi vẫn
là một trong những hiệu xe sang trọng hàng đầu nhờ những sản phẩm chất lượng không bị lẫn
với bất cứ đối thủ nào.
c. Sản phẩm:


2.5.4 BMW MOTOR COMPANY
a.Vài nét về BMW:
-Tên tiếng Đức: Bayerische Motor Werke (BMW), nhà sản xuất của Đức về ô tô, xe máy và
động cơ máy bay. BMW có trụ sở đặt tại Munich, nước Đức, là công ty hàng đầu về xuất khẩu ô
tô tại Châu Âu. BMW có tên tiếng Anh là Bavarian Motor Works.
-Công ty được thành lập vào năm 1913 với tên là Rapp Motor Werke do một người Bavaria
tên là Karl Rapp. Năm 1917 công ty đổi tên thành Bayerische Motor Werke dưới sư lãnh đạo
của một kỹ sư người Áo Fran-Josef Popp. Vào năm đó kỹ sư chính Max Friz đã thiết kế thành
công động cơ máy bay với 6 xi lanh đầu tiên cho công ty đáp ứng được nhu cầu cấp bách của
công ty. Nam 1919, thoả hiệp Versailles đã cấm các công ty của Đức sản xuất máy bay và động
cơ máy bay do vậy BMW chuyển sang sản xuất thắng hơi cho xe lửa.1923 Friz sản xuất ra chiếc
xe máy đầu tiên của công ty, R32, mẫu xe đã nắm giư kỷ lục về tốc độ trong suốt những năm của
thập niên 30 của thế kỷ 20.
-1928 công ty đã đi vào kinh doanh ô tô. 1930 BMW bắt đầu sản xuất dòng xe du lịch lớn, và
các mẫu xe thể thao.
-Sau chiến tranh thế giới thứ 2, liên minh quyền lực đã tháo dỡ các nhà máy chính của công ty
và công ty phải sản xuất dụng cụ nhà bếp và dụng cụ làm vườn.Vào những năm 50 công ty quay
lại sản xuất xe hơi nhưng sản lượng bán ra lại quá thấp. Những nam 60 công ty tập trung vào sản
xuất các loại xe nhỏ và xe du lịch để cạnh tranh với Mercedes Benz ở thị trường xe hạng sang
tại Châu Âu và Mỹ. 1986 doanh thu công ty tụt dốc thảm hại do sự cạnh tranh khốc liệt đến từ
chiếc Infiniti của Nissan và Lexus của Toyota. Khi bức tường Berlin sụp đổ làm cho xe bán rất
chạy ở Châu Âu và năm 1992 lần đầu tiên doanh số bán của BMW vượt qua Mercedes ở thị

trường Châu Âu.
-1990 BMW hợp tác với Roll-Royce đe sản xuất động cơ cho máy bay thương mại. Năm 1992
xây dựng nhà máy ở Spartanburg, Nam Carolina.
-Công ty thành viên: Rolls-Royce.
b.Biểu tượng:

Dù lúc thịnh lúc suy, thậm chí có khi lâm vào tình trạng gần như phá sản, hãng xe hơi Đức BMW
vẫn luôn gắn bó với biểu tượng hình cánh quạt trắng xanh nổi tiếng trong suốt lịch sử phát triển.
Điều đó tượng trưng cho sự kiên định với những lựa chọn của người Đức. Luôn duy trì sự tập
trung cao độ trong một thời gian dài với cùng một mục đích, đức tính đó giúp BMW vượt qua
những thời điểm khó khăn nhất trong lịch sử. Ra đời năm 1916, công ty BMW, viết tắt của
Bayerische Motoren Werke (tiếng Anh có nghĩa là Bavarian Motor Works), được thành lập với
mục đích sản xuất ôtô xe máy. Tiền thân của BMW lại là hai công ty Raap Motor Works và
BMW GmbH, chuyên sản xuất động cơ máy bay. Đó chính là nguồn cảm hứng để thiết kế nên
logo BMW nổi tiếng thế giới. Nó tượng trưng cho hình ảnh chuyển động của hai cánh quạt mà


các phi công quan sát được trên những chiếc máy bay sản xuất vào thập kỷ 20. Khi chạy với tốc
độ nhất định, hai cánh quạt này sẽ chia quỹ đạo của chúng thành bốn phần bằng nhau, hai phần
mang màu trắng đậm, hai phần còn lại in màu xanh bầu trời xứ Bavaria.

Nguồn gốc xuất phát logo của BMW.
Như người ta thường nói, thiết kế logo là một trong những lĩnh vực khó nhất của ngành thiết kế
tạo hình, bởi nó không chỉ là một hình ảnh đơn thuần, mà còn là bộ mặt của công ty, là lời giới
thiệu ý nghĩa và hiệu quả nhất với khách hàng. Không phải là thời trang, đó là sự cô đọng của
nghệ thuật. BMW hiểu rất rõ như vậy và họ cũng biết rằng không có gì biểu tượng cho sức sống,
lòng trung thành và sự trường tồn hơn là màu cờ tổ quốc, không có gì dễ nhớ hơn là sự kết hợp
giữa một hình khối giản đơn và những màu sắc quen thuộc. Vì thế, việc đưa hai màu xanh trắng
trên lá cờ xứ Bavaria vào logo hàm nghĩa rằng BMW là công ty của người xứ Bavaria, BMW sẽ
sống cùng, phát triển cùng với sự phát triển dân tộc.


Chiếc Dixi 1927 (trên) chưa có logo và Dixi
năm 1929 (dưới) mang logo của BMW.


×