Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật thanh tra về thuế từ thực tiễn cục thuế tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.46 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT THANH TRA VỀ THUẾ
TỪ THỰC TIỄN CỤC THUẾ TỈNH QUẢNG NINH

NGUYỄN THẾ NAM

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT THANH TRA VỀ THUẾ
TỪ THỰC TIỄN CỤC THUẾ TỈNH QUẢNG NINH
NGUYỄN THẾ NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRƯƠNG THỊ KIM DUNG

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Nhà trường.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thế Nam


LỜI CẢM ƠN

Được sự đồng ý của Viện Đại học Mở Hà Nội và của Tiến sĩ Trương Thị
Kim Dung, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật thanh tra về thuế từ thực tiễn Cục
Thuế tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ Luật học của
mình.
Để hoàn thành công trình này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng
viên hướng dẫn trực tiếp: Tiến sĩ Trương Thị Kim Dung đã tận tình, chu đáo
hướng dẫn tôi, kể từ khi hình thành ý tưởng đến khi hoàn thiện. Xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến thầy cô trong trường Viện Đại học Mở Hà Nội, đặc biệt là các
thầy cô Khoa Sau đại học đã luôn có những nhắc nhở kịp thời để tôi có thể hoàn
thiện luận văn đúng thời hạn, cảm ơn Nhà trường đã tạo mọi điều kiện tốt nhất.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Tuy nhiên, lần đầu tiên tôi thực hiện nghiên cứu một đề tài có tính chuyên sâu,
việc hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót mà bản thân còn chưa nhận thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý của các
thầy cô và các bạn để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thế Nam


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THANH TRA
VÀ PHÁP LUẬT THANH TRA VỀ THUẾ ......................................................... 6
1.1. Khái quát chung thanh tra về thuế ............................................................ 6
1.2. Khái quát chung pháp luật thanh tra về thuế ........................................... 16
1.3. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động thanh tra về thuế ...................................28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THANH TRA VỀ THUẾ VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI CỤC THUẾ TỈNH QUẢNG NINH...................32
2.1. Một số nội dung cơ bản pháp luật thanh tra về thuế .....................................32
2.1.1 Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra về thuế: .............. 32
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra về thuế: ............................ 36
2.1.3. Quy trình thanh tra thuế: ...................................................................... 36
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật thanh tra thuế .........................................46
2.2.1. Về ưu điểm .......................................................................................... 46
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ............................. 52
2.2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật thanh tra về thuế tại tỉnh Quảng Ninh ......58
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT THANH TRA VỀ THUẾ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA VỀ THUẾ TẠI CỤC THUẾ TỈNH QUẢNG NINH ...................74
3.1. Những định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật thanh tra về thuế .....74


3.1.1. Định hướng hoàn thiện cơ chế thanh tra thuế của Tổng Cục Thuế đối với
người nộp thuế .............................................................................................. 74
3.1.2. Định hướng công tác thanh tra Thuế đối với người nộp thuế tại Cục

Thuế tỉnh Quảng Ninh ................................................................................... 75
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thanh tra về thuế và nâng cao hiệu
quả thi hành ở Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh .................................................... 76
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thanh tra về thuế ................................. 76
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật thanh tra về thuế ở Cục
Thuế tỉnh Quảng Ninh ................................................................................... 79
KẾT LUẬN ..........................................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................91


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

NSNN

: Ngân sách nhà nước

CQT

: Cơ quan thuế

NNT

: Người nộp thuế

ĐTNT

: Đối tượng nộp thuế

DN


: Doanh nghiệp


DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT

Tên bảng

Trang

1

Bảng 2.1: Kết quả truy thu thuế

50

2

Bảng 2.2: Tình hình nợ thuế của NNT sau thanh tra

55

3

Bảng 2.3: Tỷ lệ xử lý DN vi phạm trên tổng số DN thanh tra từ

56

năm 2012-2016
4


Bảng 2.4: Số lượng cán bộ thanh tra ngành thuế

57

5

Bảng 2.5: Cơ cấu lực lượng thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh

59

Quảng Ninh
6

Bảng 2.6: Kết quả thực hiện thanh tra thuế tại Cục thuế tỉnh
Quảng Ninh

60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu, lâu dài là bộ phận quan trọng nhất của ngân
sách nhà nước (NSNN), góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Mục tiêu quan trọng của nước ta là xây dựng được một hệ thống thuế có
hiệu lực và hiệu quả cao. Do có vai trò rất quan trọng nên các quốc gia đều quan
tâm đến thuế và đưa ra nhiều biện pháp quản lý và thu thuế. Hoạt động thanh tra
thuế không những giúp cho hoạt động quản lý thuế đạt được các mục tiêu đã đề
ra mà còn giúp Nhà nước phát hiện những hạn chế của chính sách, điều chỉnh
kịp thời chính sách, chế độ về thuế, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế

của người nộp thuế (NNT) và góp phần phòng ngừa, ngăn chặn trình trạng trốn
thuế, chống thất thu thuế.
Từ khi luật quản lý thuế ra đời, cơ chế tự khai, tự nộp được áp dụng thì
vai trò của NNT đã được đề cao hơn. Theo đó, NNT tự chịu trách nhiệm trong
việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, cơ quan thuế tập trung vào thực hiện các
chức năng tuyên truyền, hỗ trợ kiểm tra, giám sát NNT. Tuy nhiên, khi nền kinh
tế phát triển, số lượng người nộp thuế tăng lên, cùng với sự hiểu biết sâu hơn về
pháp luật thuế thì khả năng, thủ đoạn trốn thuế, tránh thuế của NNT càng tinh vi,
phức tạp hơn, gây khó khăn trong việc phát hiện gian lận, làm giảm hiệu quả
thanh tra thuế. Thực trạng này đã và đang xảy ra đối với toàn ngành thuế nói
chung và Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Mặt khác, thời gian qua, số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ thanh tra
còn chưa thực sự đáp ứng với nhu cầu, với thực trạng phức tạp của những vi
phạm trong lĩnh vực thuế diễn ra ngày càng nhiều, đa dạng như hiện nay. Sự
phân công, phân nhiệm giữa các thành viên trong đoàn thanh tra, trách nhiệm
của lãnh đạo bộ phận thanh tra chưa rõ ràng, cụ thể, còn trùng lắp yêu cầu quản
lý, chưa kịp thời xử lý các vướng mắc phát sinh trong quá trình thanh tra làm
giảm hiệu quả công tác thanh tra thuế, còn tồn đọng tình trạng sai phạm mang

1


tính chất hệ thống, kéo dài từ năm này sang năm khác mà không giải quyết triệt
để.
Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật thanh tra về thuế từ
thực tiễn Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh” có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời sự
cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, hiện nay hoạt động thanh tra thuế đã bước đầu
được nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau, cụ thể:

- Đề tài khoa học: “ Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra giám sát đối với hoạt
động của Đoàn thanh tra – Thanh tra Chính phủ” - Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ, do ThS. Bùi Ngọc Lam - Cục trưởng Cục 2, Thanh tra Chính phủ làm
Chủ nhiệm, thanh tra Nhà nước, năm 2009; “Các nguyên tắc trong hoạt động
thanh tra- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, do Nguyễn Thái Hồng – Phó Vụ trưởng Vụ 3, Thanh tra Chính phủ làm Chủ
nhiệm, Thanh tra Nhà nước, năm 2009; “ Một số giải pháp nhằm hạn chế trung
lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
do Lê Đức Trung, Phó trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Khoa học thanh tra
làm chủ nhiệm, năm 2011;
Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đế khía cạnh về hoạt
động thanh tra hành chính nói chung, đa số các đề tài nghiên cứu chỉ phân tích,
nghiên cứu chỉ phân tích nghiên cứu các khía cạnh về thanh tra dưới góc độ kinh
tế
- Luận văn Thạc sĩ: “Pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế từ thực tiễn tỉnh
Sơn La” của tác giả Thái Thị Kim Ngân - Viện Đại học Mở Hà Nội, năm 2016;
“Hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc” của
tác giả Nguyễn Diệu Thủy – Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh, năm 2013;
Bài tạp chí: “Pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế ở Việt Nam và một số bình
luận” của tác giả Vũ Văn Cương – Vũ Ngọc Hà - Tạp chí Luật học số

2


04/2009;…
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh của
thanh tra nói chung và thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng. Thực tế vẫn chưa có
công trình nghiên cứu đề cập một cách có hệ thống về pháp luật thanh tra về
thuế.
Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu

liên quan, luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thi
hành của pháp luật thanh tra về thuế nhằm góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả
công tác quản lý thuế trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học lý luận pháp luật về thanh tra cơ
bản, đó chính là kiến thức nền quan trọng để luận văn đi sâu vào nghiên cứu
pháp luật thanh tra về thuế (bộ phận pháp luật chuyên ngành), luận văn hướng
đến những mục đích cụ thể như sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thanh tra, pháp luật
thanh tra thuế nói chung, thực tiễn thanh tra thuế của Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh
nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật thanh tra về thuế và thực tiễn thi
hành tại Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh để khẳng định những thành công, những hạn
chế và những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó.
- Trên cơ sở đó luận văn sẽ đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật thanh tra về thuế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận,
các quy định của pháp luật về thanh tra về thuế, thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về thanh tra thuế tại tỉnh Quảng Ninh, nêu lên quan điểm có
tính định hướng đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về
thanh tra thuế nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, công tác giám sát
thực hiện một số chính sách cơ bản về thanh tra thuế trong đó có chính sách ưu đãi

3


thuế trên địa bàn.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật Việt Nam quy định thanh tra về thuế và thực tế áp dụng pháp luật

thanh tra về thuế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Số liệu minh họa thực tế được
lấy từ thực tế áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin,
định hướng của Đảng, Nhà nước về pháp luật thanh tra về thuế tại Việt Nam và
tại tỉnh Quảng Ninh. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống, có độ tin cậy như:
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp các vấn đề lý luận và
thực tiễn có sự kiểm chứng bởi một số số liệu nhất định để nêu bật lên những kết
quả đạt được, chỉ ra những hạn chế vướng mắc về pháp luật trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn thi hành pháp luật về thuế tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đó là sự
minh chứng thực tế thực hiện pháp luật, xác định rõ nguyên nhân từ đó đề xuất
những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thanh tra về thuế nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả pháp luật về thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài đã hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản hoạt động
thanh tra về thuế.
Về mặt thực tiễn, đề tài phân tích, đánh giá thực trạng thanh tra thuế tại Cục
Thuế tỉnh Quảng Ninh. Thông qua phân tích đã giúp nhận thức thanh tra là một
chức năng quan trọng trong công tác quản lý thuế. Cần chú trọng xây dựng hệ
thống thanh tra trong phạm vi cả nước, từ Tổng cục Thuế- Cục Thuế- Chi cục
Thuế, đảm bảo lực lượng thanh tra ngày càng phải được tăng cường cả về số
lượng và nâng cao chất lượng hơn nữa.
Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm hoàn thiện công
tác thanh tra tại Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh.

4



7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 03 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật thanh tra và pháp luật thanh
tra về thuế;
Chương 2: Thực trạng pháp luật thanh tra về thuế và thực tiễn thi hành tại
Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh;
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật
tranh tra về thuế và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra về thuế tại Cục Thuế
tỉnh Quảng Ninh.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THANH TRA
VÀ PHÁP LUẬT THANH TRA VỀ THUẾ
1.1. Khái quát chung thanh tra về thuế
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thanh tra về thuế
Theo Luật thanh tra năm 2010, “thanh tra” là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt
động thanh tra Nhà nước. thanh tra Nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử
lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. thanh tra Nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành. Ở đây, phạm vi nghiên cứu của đề tài là thanh tra thuế
mà thanh tra thuế là một bộ phận của thanh tra chuyên ngành nên chúng ta cần
phải tìm hiểu khái niệm về thanh tra chuyên ngành là gì?
“Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc

quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”1.
Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế thì thanh tra thuế được hiểu là “hoạt động
kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của CQT đối với đối
tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp
luật”. [3, tr.127]
Từ những phân tích trên ta có thể rút ra: thanh tra thuế là một loại hình
thanh tra chuyên ngành, theo đó Cơ quan thuế - chủ thể quản lý (CQT) thực hiện
hoạt động thanh tra đối với các đơn vị, tổ chức và cá nhân chịu sự quản lý trong
việc thực hiện pháp luật về thuế, xử lý các vi phạm pháp luật thuế nhằm nâng
cao tính tuân thủ của NNT, đồng thời đề xuất hoàn thiện cơ chế chính sách pháp
1

Xem [2, Điều 3, khoản 3]

6


luật thuế.
Thanh tra thuế có chức năng thiết yếu trong quản lý thuế để kiểm tra, xem
xét việc tuân thủ pháp luật của NNT nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và
xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về thuế, bảo đảm tính công bằng
trong thực thi pháp luật thuế, đồng thời làm cho NNT luôn có ý thức rằng có một
hệ thống giám sát hiệu quả đang tồn tại, từ đó thúc đẩy họ tự giác tuân thủ pháp
luật thuế.
Cần phân biệt công tác thanh tra thuế và Kiểm tra thuế, theo đó:
Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên, mang tính nhiệm vụ của cơ
quan quản lý thuế được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan quản lý thuế dựa trên
hồ sơ khai thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở
của người nộp thuế, chỉ thực hiện khi họ không tự giác sửa đổi, bổ sung những
nội dung sai sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu cầu. Nội dung

kiểm tra thuế là kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu trong
hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thuế của người nộp thuế trong việc kê khai
thuế.
Và, thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức cao hơn, hoàn
thiện hơn. thanh tra thuế được thực hiện định kì đối với các đối tượng nộp thuế
lớn, ngành nghề kinh doanh đa dạng, quy mô lớn, giai thời kỳ thanh tra kéo dài
hoặc với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế và thanh tra thuế để
giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan
quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng bộ Tài chính.
1.1.2. Mục đích, yêu cầu đối với thanh tra về thuế
* Mục đích của hoạt động thanh tra về thuế:
Thứ nhất, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về thuế: Đây là mục
đích chủ yếu, trực tiếp của hoạt động thanh tra thuế. thanh tra thuế là hoạt động
thường xuyên của cơ quan quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo cho các quyết định

7


quản lý được chấp hành, bảo đảm mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Công tác thanh tra thuế trong giai
đoạn cải cách hệ thống thuế là một trong những chức năng quan trọng của ngành
thuế, ngoài mục tiêu góp phần đẩy lùi tình trạng trốn thuế, gian lận thuế, còn
nhằm mục đích tuyên truyền đến các đối tượng nộp thuế (ĐTNT) chính sách
pháp luật về thuế, nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật về thuế, từ đó góp
phần cải cách thủ tục hành chính về thuế, nâng cao hiệu quả quản lý thuế theo
hướng an toàn hiệu quả. Góp phần tăng thu NSNN, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch
thu ngân sách được giao, góp phần tích cực vào việc tạo sự công bằng xã hội
trong thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT.
Thứ hai, phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật về thuế: Định hướng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu phải tăng cường tính pháp chế,

kỷ cương pháp luật trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức và trong cách thức
hành xử của mỗi công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải phát hiện
nhanh chóng và xử lý nghiêm minh. Hoạt động thanh tra thuế là xem xét việc
thực hiện pháp luật về thuế của cơ quan, tổ chức, cá nhân, từ đó tìm ra những
hành vi sai phạm, người vi phạm, đánh giá tính chất, mức độ vi phạm, kiến nghị
các hình thức và mức độ xử lý đối với NNT khi có sai phạm. Hiện nay, khi hành
vi vi phạm về thuế còn diễn ra phổ biến thì phát hiện các vi phạm để xử lý là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu và là mục đích quan trọng của hoạt động thanh
tra thuế.
Thứ ba, phát hiện những hạn chế chưa đồng bộ trong cơ chế quản lý và
chính sách thuế để kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi
bổ sung: Hoạt động thanh tra thuế không chỉ nhằm phát hiện và xử lý những vi
phạm pháp luật, mà còn giúp cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá lại cơ chế,
chính sách, các quy định của pháp luật, các quyết định quản lý về mức độ phù
hợp với thực tiễn cuộc sống, cũng như những khiếm khuyết, sơ hở dẫn đến vi
phạm của NNT.

8


Thứ tư, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước về thuế, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện chính sách pháp luật về thuế:
Đây là những mục đích có tính chất gián tiếp nhưng cũng không kém phần quan
trọng của hoạt động thanh tra thuế, nhất là việc “phát huy nhân tố tích cực’’ qua
hoạt động thanh tra. Nhân tố tích cực ở đây được hiểu là những việc làm hay,
mạnh dạn thể hiện một tư duy mới, một tư cách suy nghĩ và hành động mới phù
hợp với quan điểm và chủ trương đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta, nhất
là trong lĩnh vực thuế. Mặt khác, thanh tra thuế không chỉ xem xét, đánh giá sự
việc đúng, sai và còn phải đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của NNT. Thông qua hoạt động thanh tra thuế cần kiên quyết đấu
tranh chống mọi biểu hiện tham nhũng, nhũng nhiễu gây thất thu thuế và xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và NNT.
* Yêu cầu của công tác thanh tra thuế:
Thanh tra thuế là hoạt động có tính chất pháp lý cao, liên quan đến lợi ích
kinh tế và chính trị của nhiều đối tượng trong xã hội. Do đó, công tác thanh tra
thuế phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Thanh tra thuế phải đảm bảo chính xác, khách quan, trung thực, xử lý
đúng người đúng tội, không bao che cho các đối tượng được thanh tra. Đây
chính là những yêu cầu hàng đầu của thanh tra thuế vì chỉ khi đảm bảo những
yêu cầu này mới đạt được mục đích của công tác thanh tra thuế, mới làm cho
thanh tra thuế thực sự trở thành cán cân công lý, mới có sự tin tưởng của quần
chúng nhân dân.
- Thanh tra thuế phải đảm bảo công khai, dân chủ, kịp thời, tạo điều kiện tốt
nhất để quần chúng nhân dân tham gia ý kiến. Đảm bảo công khai, dân chủ là
yêu cầu quan trọng trong công tác thanh tra, vì thông qua đó phát huy được sức
mạnh và vai trò của quần chúng nhân dân trong thanh tra thuế nhằm khắc phục
những yếu kém, bất cập trong quản lý Nhà nước, ngăn chặn đúng lúc những

9


hành vi tiêu cực, tránh những tổn thất nặng nề cho Nhà nước và nhân dân.
- Thanh tra thuế phải đảm bảo thực hiện đúng các luật thuế, ngăn ngừa, loại
trừ các hành vi trốn, lậu thuế. Đây là yêu cầu thiết yếu của công tác thanh tra
thuế, đạt được yêu cầu này thì công tác thanh tra thuế mới làm tròn chức năng và
nhiệm vụ của mình.
1.1.3. Vai trò của thanh tra về thuế
Thanh tra thuế có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế. Cụ
thể:

Thứ nhất, thanh tra thuế đã góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách pháp
luật về thuế.
Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Mỗi
sắc thuế điều tiết đến một số đối tượng xã hội nhất định và có những phương
pháp quản lý thu khác nhau. Về cơ bản mỗi sắc thuế khi được ban hành đều đã
được nghiên cứu kỹ và chuẩn bị chu đáo nhưng do đặc điểm nền kinh tế nước ta
đang ở thời kỳ chuyển đổi từ hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên không tránh khỏi những khiếm khuyết,
bất cập. Chính vì vậy thanh tra thuế là nơi cung cấp các căn cứ, các bằng chứng
cụ thể phản ánh một cách chân thực, sống động các hoạt động diễn ra trong thực
tế, để phục vụ cho việc hoàn thiện, bổ sung các chính sách cho phù hợp.
Thứ hai, thanh tra thuế là phương tiện phòng ngừa, răn đe các hành vi vi
phạm pháp luật về thuế và tội phạm nảy sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Hoạt động thanh tra thuế trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan
đến NNT, đánh giá việc chấp hành pháp luật của NNT, xác minh và thu thập
chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Theo đó, vừa phòng
ngừa các hành vi phạm pháp luật thuế có thể xảy ra; vừa sử dụng các biện pháp
chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết định hành chính nhằm xử lý và răn đe
hành vi vi phạm pháp luật của NNT. Với tư cách là công cụ thực hiện chức năng

10


quản lý Nhà nước thanh tra thuế chính là việc xem xét tại chỗ việc làm của các
tổ chức, cơ quan và các cá nhân có đúng quy định của chính sách, pháp luật về
thuế hay không? Qua đó sử dụng các biện pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các
quyết định hành chính nhằm ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật của NNT.
Thực tế cho thấy không có hệ thống pháp luật nào có thể đảm bảo là không
khiếm khuyết. Đây chính là nguyên nhân để các đối tượng lợi dụng , cố tình lách
luật để trục lợi cá nhân. thanh tra thuế phải phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu

cực để ngăn ngừa kịp thời. Việc kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật thuế là biện pháp hữu hiệu nhất đối với việc phòng ngừa
các loại tội phạm có thể phát sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Thứ ba, thanh tra thuế có vai trò quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành
chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện.
Triển khai thực hiện pháp luật thuế, cũng đồng thời với việc triển khai thực
hiện các thủ tục hành chính thuế. Qua hoạt động thanh tra phát hiện những NNT
thực hiện không đúng và không đủ các thủ tục hành chính thuế để kịp thời chấn
chỉnh. Đồng thời phát hiện những khiếm khuyết, những thủ tục không phù hợp
với thực tế để kiến nghị bổ sung hoàn thiện, nâng cao hiệu lực pháp luật thuế.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra về thuế
* Các yếu tố chủ quan:
Thứ nhất, về nguồn nhân lực phục vụ thanh tra thuế:
Luật Quản lý thuế quy định, bộ máy quản lý thuế ở CQT các cấp được cải
cách tổ chức tập trung theo 4 chức năng: Kê khai kế toán thuế; Tuyên truyền, hỗ
trợ NNT; thanh tra, kiểm tra thuế và quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế, nhằm
chuyên môn hoá, nâng cao năng lực quản lý thuế ở từng chức năng. Trong đó
chức năng thanh tra, kiểm tra thuế rất quan trọng. Để đáp ứng được yêu cầu quản
lý thuế hiện đại và tính chất đa dạng, phức tạp, nhiều loại hình của NNT cũng
như tình hình phát triển kinh tế hiện nay, trình độ chuyên môn của cán bộ thanh

11


tra thuế là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác thanh
tra. Bên cạnh đó, thái độ và phong cách ứng xử của cán bộ thuế phải tận tụy,
công tâm, khách quan giữa quyền lợi của Nhà nước với quyền lợi của ĐTNT.
Phẩm chất cán bộ thanh tra, đạo đức nghề nghiệp phải được rèn luyện, tu dưỡng
thường xuyên để không bắt tay với đối tượng vi phạm luật thuế.
Số lượng cán bộ thanh tra thuế cũng là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến kết

quả thanh tra thuế. Với số lượng DN ngày càng tăng, các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh phức tạp, các hành vi luồn lách trốn thuế ngày càng tinh vi, thì việc thanh
tra thuế cần đảm bảo một tần suất nhất định. Nếu nguồn lực thanh tra thiếu, yếu
thì không thể đáp ứng được công việc và hiệu quả thanh tra sẽ không cao. Nhưng
nếu bộ máy thanh tra cồng kềnh sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực, trở thành gánh
nặng cho công tác quản lý cũng như ngân sách nhà nước. Do vậy, tổ chức bộ
máy cán bộ công chức thuế nói chung và bộ máy thanh tra thuế nói riêng có ý
nghĩa quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thanh tra thuế.
Thứ hai, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ thanh tra thuế:
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ thanh tra thuế bao gồm: hệ thống cơ sở dữ
liệu, trang thiết bị làm việc và địa điểm làm việc.
Kế hoạch thanh tra được xây dựng trên cơ sở phân tích, đánh giá rủi ro
NNT và việc lập kế hoạch thanh tra chỉ có thể thực hiện một cách có hiệu quả
khi CQT xây dựng được một hệ thống thông tin về NNT đầy đủ, chính xác và
kịp thời, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, của các phần mềm ứng dụng.
Nếu không, các vấn đề rủi ro, các nghi vấn, bất hợp lý về NNT sẽ không được
phát hiện một cách chính xác, kịp thời. Việc lựa chọn NNT đưa vào kế hoạch
thanh tra không chỉ dựa vào dữ liệu mà CQT thu thập được mà còn là kết quả
của việc phân tích, đánh giá các dữ liệu về NNT. Để thực hiện được điều này,
ngoài kỹ năng phân tích, đánh giá của cán bộ thuế cần thiết phải có sự hỗ trợ của
hệ thống máy tính và các ứng dụng tin học chuyên biệt về quản lý thông tin, tra
cứu thông tin và xử lý thông tin tự động.

12


Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng như sự phát triển của nền kinh
tế, quá trình làm việc của thanh tra thuế không thể tách rời hệ thống máy tính,
nhất là máy tính xách tay khi làm việc ở cơ sở DN. Trang thiết bị làm việc đầy
đủ, hiện đại sẽ giúp thanh tra thuế xử lý dữ liệu một cách nhanh chóng, chính

xác, tránh được các lỗi toán học khi xử lý dữ liệu thủ công. Việc lưu trữ hồ sơ, số
liệu của NNT cũng được thực hiện tốt hơn với sự trợ giúp của các thiết bị hiện
đại.
Địa điểm làm việc, cơ sở hạ tầng trụ sở CQT và phương tiện đi lại phục vụ
thanh tra thuế cũng là nhân tố ảnh hưởng thường xuyên đến hiệu quả làm việc
của cán bộ thanh tra.
Thứ ba, hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT:
Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ của CQT sẽ giúp ĐTNT cũng như các tổ
chức, cá nhân trong xã hội kịp thời nắm bắt các quy định về thuế, hiểu rõ bản
chất tốt đẹp và ý nghĩa quan trọng của việc nộp thuế - nghĩa vụ nhưng cũng là
quyền lợi của ĐTNT. Đồng thời thông qua những thông tin, dịch vụ hỗ trợ do
CQT cung cấp, ĐTNT sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho việc tìm hiểu,
nghiên cứu chính sách thuế cũng như hiểu đúng các quy định của pháp luật thuế,
từ đó giảm dần các sai phạm không cố ý. Chính sự tự giác chấp hành đúng nghĩa
vụ thuế sẽ làm giảm chi phí quản lí của CQT. Hoạt động tuyên truyền hỗ trợ
NNT kết hợp với hoạt động thanh tra thuế giúp NNT phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn các sai phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, hạn chế hành vi vi
phạm hành chính về thuế và đặc biệt là hành vi trốn thuế.
* Các yếu tố khách quan:
Thứ nhất, yếu tố về phía cơ chế quản lý thuế
Để quản lý thu thuế, thường áp dụng một trong hai cơ chế: CQT tính và ra
thông báo nộp thuế (Cơ chế chuyên quản cũ) hoặc cơ sở kinh doanh tự khai tự
nộp thuế. Trước đây, nước ta thực hiện quản lý thu thuế theo cơ chế chuyên

13


quản. Theo cơ chế này, CQT căn cứ và tờ khai thuế do NNT kê khai để kiểm tra
và tính thuế, sau đó thông báo số thuế phải nộp cho NNT. NNT có trách nhiệm
nộp đầy đủ tiền thuế theo thông báo trong thời gian quy định. Cơ chế này đảm

bảo việc tính toán chính xác số thuế phải nộp vào NSNN của NNT. Tuy nhiên cơ
chế này tạo nên gánh nặng về nghiệp vụ cho CQT, dễ xảy ra hiện tượng tiêu cực
giữa cán bộ thuế và NNT làm thất thu NSNN, mang tính áp đặt và không phát
huy được trách nhiệm và nghĩa vụ của NNT. Do vậy, công tác thanh tra thuế gặp
nhiều khó khăn, hiệu quả thu thuế thấp.
Khắc phục những hạn chế đó, từ ngày 1/7/2007 Luật Quản lý thuế có hiệu
lực, nước ta đã chuyển sang Cơ chế NNT tự khai tự nộp thuế. Theo đó, NNT căn
cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh và các nghiệp vụ phát sinh của mình để tự kê
khai, tự tính toán số thuế phải nộp và chủ động nộp thuế theo đúng thời hạn quy
định của pháp luật thuế. CQT không can thiệp vào quá trình kê khai nộp thuế trừ
khi phát hiện các sai sót và các dấu hiệu vi phạm của NNT. Đồng thời đây cũng
là điều kiện thuận lợi để không ít DN cố tình kê khai sai, gian lận thuế, trốn thuế.
CQT có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ và tự giác
thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật thuế
của NNT. Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế để phát hiện, xử lý kịp
thời những hành vi vi phạm của NNT.
Trong cơ chế tự khai tự nộp, công tác thanh tra không phải để tăng số thu
thuế mà mục tiêu chính là nhằm ngăn ngừa, phát hiện kịp thời những vi phạm về
thuế. Cơ chế này tạo nên sự thông suốt cũng như phát huy được tính tương tác
hai chiều giữa cơ quan quản lý thuế và NNT.
Thứ hai, yếu tố về phía hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thuế
Hệ thống pháp luật về thuế là nền tảng cho hoạt động quản lý thuế của CQT
và thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT. Một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về thuế đơn giản, đồng bộ, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước sẽ

14


là cơ sở pháp lý quan trọng trước hết giúp NNT hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ
thuế. Đồng thời, đó cũng là cơ sở pháp lý để hoạt động thanh tra thuế đi vào

khuôn khổ, tuân theo đúng những chuẩn mực, quy trình, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm mà pháp luật thuế quy định. Nếu nội dung của các sắc thuế quá phức
tạp, quy định không rõ ràng, thủ tục hành chính về thuế rườm rà sẽ khó khăn cho
cả cán bộ thuế và NNT.
Bên cạnh đó, tính ổn định của hệ thống văn bản pháp luật về thuế cũng tác
động rất lớn đến việc chấp hành pháp luật thuế của cả CQT và NNT. Hệ thống
văn bản liên tục thay đổi, sửa đổi, bổ sung có thể phù hợp với tình hình kinh tế
xã hội, với các chính sách vĩ mô của Nhà nước nhưng lại có mặt trái là dễ gây
chồng chéo, phức tạp, khó nắm bắt. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng
tuân thủ của NNT và gây khó khăn cho công tác quản lý thuế nói chung và thanh
tra thuế nói riêng.
Thứ ba, yếu tố về trình độ dân trí, ý thức tuân thủ pháp luật thuế của NNT.
Khi người dân thực sự hiểu biết pháp luật về thuế, có ý thức tự giác chấp
hành nghĩa vụ nộp thuế thì hiệu quả của công tác quản lý thuế sẽ rất cao. Ngược
lại, người dân sẽ không có thái độ rõ ràng trước các hành vi

trốn thuế, gian lận

về thuế, thậm chí còn thờ ơ, khuyến khích, đồng tình, và trong việc kê khai, tính
thuế, tự giác nộp thuế của mỗi người dân sẽ không đảm bảo tính chính xác, đầy
đủ, kịp thời..., sẽ dấn đến hậu quả là thất thu, không đảm bảo tính công bằng
giữa các ĐTNT, công tác quản lý thuế kém hiệu quả. Trình độ dân trí càng cao,
sự hiểu biết về pháp luật thuế càng cao thì khả năng trốn thuế cũng như các thủ
đoạn trốn thuế, ẩn lậu thuế của người nộp thuế cũng ngày càng tinh vi hơn, phức
tạp hơn. Do vậy công tác thanh tra thuế càng phải sát sao, kịp thời hơn để nhanh
chóng phát hiện các gian lận, nâng cao hiệu quả thanh tra thuế và quản lý thuế.
Thứ tư, yếu tố về cơ sở hợp tác giữa các cơ quan hữu quan và hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực thuế.
Trách nhiệm của các cơ quan và tổ chức với việc quản lý thu thuế chưa


15


được quy định đầy đủ, rõ ràng trong các văn bản pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng
các tổ chức, cá nhân này không thực hiện việc cung cấp thông tin và phối hợp
chặt chẽ với CQT trong điều tra xác định mức thuế, thực hiện cưỡng chế về
thuế... Sự phối hợp với các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan công an, kiểm
sát, quản lý thị trường trong việc chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống
làm hàng giả, chống trốn lậu thuế, chiếm đoạt tiền hoàn thuế, chống buôn bán
hoá đơn bất hợp pháp ... sẽ có tác dụng tốt trong việc phát hiện, xử lý kịp thời
những vi phạm pháp luật thuế. Cơ chế quản lý thuế hiện nay cũng đòi hỏi sự hợp
tác đặc biệt giữa CQT và các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc cung cấp
thông tin về NNT cũng như thực hiện phong toả tài khoản ngân hàng, cưỡng chế
nộp thuế trong một số trường hợp nhất định.Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, sự hợp tác hiệu quả giữa CQT Việt Nam và CQT nước ngoài
sẽ giúp chống thất thu thuế trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế cũng như tạo một
môi trường kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
1.2. Khái quát chung pháp luật thanh tra về thuế
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của pháp luật thanh tra về thuế
Thanh tra với tư cách là một thực thể pháp lý, một thiết chế Nhà nước về
thanh tra hay nói cách khác là các cơ quan, tổ chức thực thực hiện chức năng
thanh tra. Thiết chế đó phụ thuộc vào chế độ chính trị, cấu trúc Nhà nước hoặc
quan niệm về quyền lực của mỗi quốc gia khác nhau. Ở nước ta, thiết chế thanh
tra thuộc khối cơ quan hành pháp và bao gồm: hệ thống các cơ quan thanh tra
Nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, cụ
thể :
- Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm: thanh tra Chính phủ; thanh tra bộ,
cơ quan ngang bộ (gọi chung là thanh tra bộ); thanh tra tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là thanh tra tỉnh); thanh tra sở; thanh tra huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là thanh tra huyện);

- Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được giao cho các

16


Tổng cục, Cục thuộc Bộ và Chi cục thuộc Sở do Chính phủ quy định.
Như vậy, thanh tra là khái niệm để chỉ hoạt động thanh tra của các cơ quan
thực hiện chức năng thanh tra, đó là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà
nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị,
cá nhân theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận đúng sai,
đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa xử lý các vi
phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và cá nhân. Xuất phát từ quan niệm coi thanh tra là chức năng thiết yếu của
Nhà nước, hoạt động này bao gồm: hoạt động thanh tra hành chính (hướng vào
bản thân bộ máy quản lý); và hoạt động thanh tra chuyên ngành (hướng vào xã
hội, các đối tượng quản lý); Bên cạnh đó, hoạt động này cũng bao gồm các hoạt
động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra trách nhiệm thực hiện
pháp luật phòng, chống tham nhũng.
Từ đây, có thể hiểu: pháp luật thanh tra thuế là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực
thuế của nhà nước.
Vậy, pháp luật thanh tranh tra thuế là một bộ phận trong hệ thống pháp luật
thuế nói riêng và pháp luật thanh tra nói chung. Ngoài những đặc điểm chung
của pháp luật thanh tra thì pháp luật thanh tra thuế còn có những đặc trưng:
Thứ nhất, pháp luật thanh tra thuế chứa đựng những quy định mang tính
chất chuyên ngành. Tức là nó thực hiện một mảng riêng biệt đó là thanh tra về
thuế. Theo quy định của pháp luật thanh tra thuế thì thanh tra thuế có chức năng
giúp Bộ tài chính, ngành thuế thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh

vực kinh tế. Pháp luật thanh tra thuế chủ yếu là các quy định về quy trình, quy
phạm liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật trong quá trình quản lý thuế.
Thứ hai, pháp luật thanh tra thuế là bộ phận của pháp luật thanh tra vì vậy

17


×