Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Pháp luật về thu chi ngân sách nhà nước từ thực tiễn quận ngô quyền, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔ THỊ THU HUYỀN

PHÁP LUẬT VỀ THU – CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGÔ QUYỀN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã ngành: 60.38.01.07

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

Hà Nội, tháng 9 năm 2017
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các
kết quả nghiên cứu của Luận văn không trùng với các công trình khoa học
khác đã công bố.

2


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đại học Mở Hà Nội,
đến nay tôi đã hoàn thành bản Luận văn tốt nghiệp. Để có được kết quả đó,


trước hết tôi vô cùng cám ơn TS Nguyễn Văn Tuyến, là người tận tình giúp
đỡ tôi trong quá trình lựa chọn đề tài , xác định hướng nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo của Khoa sau Đại học –
Viện Đại học Mở Hà Nội, các đồng nghiệp, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá
trình hoàn thành luận văn này.
Luận văn là công trình nghiên cứu nghiêm túc, khoa học của bản thân,
nhưng do khả năng còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những khiếm
khuyết nhất định. Tôi rất mong nhận được ý kiến chỉ bảo của các thầy cô, các
đóng góp của các độc giả quan tâm đến vấn đề này để luận văn của tôi hoàn
thiện hơn nữa
Tôi xin chân thành cám ơn !

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. NSNN

: Ngân sách nhà nước

2. TTATGT

: Trật tự an toàn giao thông

3. TTĐT

: Trật tự đô thị

4. VSMTĐT


: Vệ sinh môi trường đô thị

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hơn 10 năm qua kể từ khi nước ta chính thức gia nhập Tổ chức thương
mại Quốc tế (ngày 07/11/2006), nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến
lớn để hội nhập cùng kinh tế quốc tế, đời sống của nhân dân ta cũng đã có nhiều
tiến bộ hơn trước. Trong những năm tới đây, nhiệm vụ phát triển kinh tế vẫn đặt
lên hàng đầu. Chúng ta đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài chính nhằm tạo
dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh, cơ chế tài chính phù hợp với điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập mở cửa. Quá trình này đòi hỏi chúng ta phải sử
dụng một cách có hiệu quả các công cụ, chính sách tài chính, tiền tệ, đặc biệt là
chính sách thu, chi ngân sách Nhà nước.
Trong bối cảnh chung của đất nước và thành phố Hải Phòng, Quận Ngô
Quyền trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã
hội, bộ mặt đô thị ngày càng đổi mới. Từ khi thực hiện Luật ngân sách, cân đối
ngân sách Quận đang ngày càng vững chắc, nguồn thu ngân sách ngày càng
tăng, không những đảm bảo được những yêu cầu chi thiết yếu của bộ máy quản
lý Nhà nước, sự nghiệp kinh tế, văn hóa xã hội mà còn dành phần đáng kể cho
đầu tư phát triển. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay, công tác quản lý thu, chi ngân
sách Quận vẫn còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế. Thu ngân sách vẫn chưa bao
quát hết các nguồn thu trên địa bàn, vẫn còn tình trạng thất thu, nguồn thu ngân
sách còn hạn chế… Hiệu quả các khoản chi ngân sách còn thấp, chi đầu tư còn
dàn trải, thiếu tập trung dẫn đến hiệu quả đầu tư còn thấp, gây lãng phí; chi
thường xuyên còn vượt dự toán.
Thực tế trên đây cho thấy việc tăng cường quản lý thu, chi ngân sách

nhằm động viên đầy đủ và hợp lý các nguồn thu vào ngân sách Nhà nước, tạo
nguồn lực tài chính mạnh mẽ, quản lý chi ngân sách có hiệu quả chính là yếu tố
5


có tính quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của
Quận trong giai đoạn 2015 – 2020 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ
XVIII đã đề ra. Đây chính là lý do để học viên quyết định lựa chọn đề tài:
“Pháp luật về thu chi ngân sách Nhà nước từ thực tiễn quận Ngô Quyền,
thành phố Hải Phòng” là nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách nói
trên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học, các cơ quan trung ương và địa phương nghiên cứu về quản lý thu, chi
ngân sách nhà nước, chẳng hạn như:
- Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài: “Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân sách
của các cấp chính quyền địa phương” của tác giả Phạm Đức Hồng, Trường Đại
học tài chính Kế toán Hà Nội, năm 2002;
- Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài: “Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý
ngân sách Nhà nước” của tác giả Nguyễn Việt Cường, Trường Đại học Tài
chính Kế toán Hà Nội, năm 2001;
- Luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài: “Biện pháp tăng cường thu ngân sách
địa phương trên địa bàn huyện Tiên Lãng, Thành phố Hải Phòng” của tác giả
Đoàn Thị Hương, Trường Đại học Hàng hải Hải Phòng, năm 2015;
Riêng đối với chủ đề liên quan đến pháp luật về thu, chi ngân sách nhà
nước từ thực tiễn tại một địa bàn cụ thể là quận Ngô Quyền thì đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu đề
tài này là vấn đề mới đang đặt ra,vừa khó khăn, đòi hòi phải nghiên cứu những
điều kiện đặc thù của Quận để quản lý thu,chi ngân sách có hiệu quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích nghiên cứu của luận văn là vận dụng lý luận về ngân sách Nhà
nước nói chung và lý thuyết về thu, chi ngân sách nhà nước nói riêng để phân
tích, đánh giá thực trạng công tác thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn quận
Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu, chi ngân sách nhà nước của quận Ngô
6


Quyền trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản
về ngân sách nhà nước và quản lý thu, chi ngân sách; khảo sát, phân tích thực
trạng quản lý thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận Ngô Quyền, thành
phố Hải Phòng từ năm 2014 đến nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, học thuyết liên quan
đến tài chính công, các quy định pháp luật về quản lý thu chi ngân sách Nhà
nước và thực tiễn thực hiện công tác quản lý thu, chi ngân sách Nhà nước trên
địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định như sau:
Về nội dung, luận văn tập trung vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và thực
tiễn pháp lý về thu, chi ngân sách Nhà nước qua thực tiễn thực hiện tại địa bàn
quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng.
Về không gian và thời gian nghiên cứu, luận văn được triển khai nghiên
cứu và hoàn thành trên cơ sở gắn với thực tiễn công tác thu chi ngân sách Nhà
nước tại quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, trong khoảng thời gian 3 năm
trở lại đây (từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2017).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được triển khai thực hiện dựa trên cơ sở áp dụng các phương
pháp nghiên cứu phổ biến sau đây:

- Phương pháp diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp và khái quát hóa
được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận về thu chi ngân sách nhà nước và
pháp luật về thu chi ngân sách nhà nước;
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, phỏng vấn chuyên gia, điều
tra khảo sát, thống kê… được áp dụng để nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực
tiễn thực hiện pháp luật về thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận Ngô
Quyền, thành phố Hải Phòng; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về thu chi ngân sách nói chung và nâng cao hiệu quả công tác
7


quản lý thu chi ngân sách Nhà nước nói riêng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
6. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn cho thấy những đóng góp mới về lý
luận và thực tiễn sau đây:
Thứ nhất, về phương diện lý luận, luận văn góp phần hoàn thiện lý luận
về thu chi ngân sách Nhà nước và pháp luật điều chỉnh hoạt động thu chi ngân
sách Nhà nước để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về thu chi ngân sách Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý thu, chi ngân sách
Nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
Thứ hai, về phương diện thực tiễn, luận văn có những đóng góp tích cực
cho việc phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thu, chi ngân sách nhà
nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói chung và quận Ngô Quyền nói riêng.
Đây chính là cơ sở thực tiễn để tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về thu chi ngân sách nhà nước và nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thu chi ngân sách nhà nước tại Hải Phòng.
7. Nội dung của Luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thu, chi ngân sách nhà nước và pháp
luật về thu chi ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thu chi ngân sách nhà nước và thực

tiễn thực hiện tại địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thu, chi ngân sách
nhà nước và nâng cao hiệu quả thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn quận
Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU, CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU,
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1 Những vấn đề lý luận về thu, chi ngân sách nhà nước
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thu, chi ngân sách nhà nước
Thuật ngữ thu, chi ngân sách nhà nước hoặc thu, chi của nhà nước được
sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội nhằm để mô tả hiện tượng nhà nước
tập trung và sử dụng các nguồn lực tài chính từ xã hội để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình. Cách hiểu này thường được gắn với các hiện tượng
như việc thu thuế, thu phí, lệ phí của các cơ quan nhà nước, hoặc như việc mà
nhà nước đầu tư xây dựng các công trình, hỗ trợ tiền cho những đối tượng cụ thể
Trong các nghiên cứu về kinh tế, các nhà nghiên cứu dựa trên việc tiếp
cận bản chất của các hiện tượng thu, chi của nhà nước đã cho rằng thu, chi ngân
sách nhà nước là hoạt động trong lĩnh vực phân phối các nguồn tài chính, thể
hiện các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội1. Cũng theo
cách tiếp cận kinh tế, có tác giả đặt hiện tượng thu, chi của nhà nước trên nhiều
bình diện, từ đó khẳng định: thu, chi là biểu hiện bên ngoài cho nội dung vật
chất là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ, cho nội dung kinh tế là các quan hệ
phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài
chính, trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng quỹ tiền tệ2.
Dưới góc độ pháp lý, quan niệm về hoạt động thu chi của nhà nước được

nhìn nhận có phạm vi rộng, hẹp khác nhau tùy thuộc vào cách các nhà nghiên
cứu quan niệm về tài chính nhà nước. Cụ thể như sau:
Theo cách hiểu truyền thống, tài chính nhà nước được hiểu là toàn bộ các
hoạt động tài chính gắn với chủ thể thực hiện là Nhà nước. Khi nhà nước xuất
hiện thì đồng thời cũng xuất hiện các nhu cầu chi tiêu để quản lý trật tự xã hội,
1
2

Tào Hữu Phùng-Nguyễn Công Nghiệp, Đổi mới ngân sách nhà nước, Nxb Thống kê, H 1992, tr 11
Học viện tài chính, Giáo tình Quản lý tài chính công, Nxb Tài chính, H 2009, tr 5

9


quốc phòng nhằm duy trì quyền lực chính trị của nhà nước và nhu cầu này được
tài trợ từ các nguồn tài chính đóng góp của xã hội. Về cơ bản, trước thế kỷ 19, ở
các quốc gia nền kinh tế có tính thị trường chưa phát triển ở bậc cao, nên tài
chính nhà nước chủ yếu gắn liền với chức năng là nguồn lực tài chính để thực
hiện các nhiệm vụ chính trị và quản lý hành chính. Đến giai đoạn kinh tế thị
trường hiện đại, do yêu cầu phát triển kinh tế, nhà nước phải đảm nhận chức
năng quản lý kinh tế và chức năng quản lý xã hội. Do đó, tài chính nhà nước
được sử dụng như một công cụ để can thiệp, điều tiết vào các hoạt động kinh tế.
Với cách tiếp cận này trong mối liên hệ với khái niệm tài chính nhà nước thì
hoạt động thu, chi của nhà nước vừa có tính chất công ( không mang tính lợi
nhuận) và có tính chất tư ( mang tính chất lợi nhuận- ví dụ thu chi vào các doanh
nghiệp nhà nước).
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, tài chính nhà nước được chia thành
nhiều bộ phận có vị trí tương đối độc lập, trong đó quan trọng nhất là bộ phận tài
chính công. Sự phân biệt các bộ phận này chủ yếu là nhằm nhấn mạnh đến tính
chất không vì lợi nhuận của hoạt động thu thi của nhà nước, chẳng hạn tác giả

Trần Đình Ty cho rằng: “ các hoạt động thu, chi bằng tiền của nhà nước, phản
ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các
chức năng vốn có (không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận) của nhà nước đối với xã
hội”3. Do có sự phân định như vậy nên hoạt động thu chi của nhà nước trong
lĩnh vực công cũng được định danh là thu tài chính công, chi tài chính công.
Đến đây, khi phân tích sâu hơn về khái niệm thu chi tài chính công, các
tác giả có xu hướng gắn hoạt động này với các quỹ tài chính của nhà nước. Ví
dụ, tác giả Trần Văn Giao nhận định về thu tài chính công như sau: “ Thu tài
chính công là hệ thống các quan hệ kinh tế và phi kinh tế phát sinh trong quá
trình hình thành các quỹ tài chính của Nhà nước”4. Các quỹ tài chính của nhà

3
4

Trần Đình Ty, Quản lý tài chính công, Nxb Lao động, H 2003, tr 23,24
Trần Văn Giao, Giải đáp về quản lý tài chính công, Nxb Chính trị quốc gia, H 2009, tr 41

10


nước rất đa dạng ( ví dụ: quỹ ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ quốc gia, quỹ bảo
hiểm xã hội), trong đó quan trọng nhất là quỹ ngân sách nhà nước.
Như vậy, từ cách tiếp cận hiện nay về tài chính công và pháp luật về tài
chính công thì thu, chi ngân sách nhà nước là một hình thức của thu,chi tài chính
công để hình thành và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước.
Từ góc độ kỹ thuật pháp lý, thu chi ngân sách nhà nước thường được khái
niệm theo hai cách:
- Một là, thu chi ngân sách nhà nước được thể hiện trong nội hàm của khái
niệm ngân sách nhà nước. Theo đó, Điều 14, Khoản 14 của Luật NSNN 2015

quy định: “ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà
nước có thaảm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước”.
- Hai là, thu, chi ngân sách nhà nước được khái niệm bằng việc liệt kê
từng nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể. Theo đó, Điều 5 của Luật NSNN 2015
khi quy định về phạm vi của NSNN đã liệt kê các nguồn thu và nhiệm vụ chi
như sau:
“ 1. Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
a) Toàn bộ các khoản thu từ thuế, lệ phí;
b) Toàn bộ các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà
nước thực hiện, trường hợp được khoán chi phí hoạt động thì được khấu trừ; các
khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh
nghiệp nhà nước thực hiện nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
c) Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam và chính quyền địa
phương;
d) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
2. Chi ngân sách nhà nước bao gồm:
a) Chi đầu tư phát triển;
b) Chi dự trữ quốc gia;
11


c) Chi thường xuyên;
d) Chi trả nợ lãi;
đ) Chi viện trợ;
e) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật”
Những dẫn giải nêu trên từ góc độ kinh tế, tài chính và pháp lý cho phép
có thể hiểu khái niệm thu, chi ngân sách nhà nước như sau:

Thu, chi ngân sách nhà nước là hoạt động tài chính cơ bản của nhà nước
được ghi nhận trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm do Quốc hội quyết
định nhằm tạo lập và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu thực
hiện các chức năng cơ bản của Nhà nước.
Từ khái niệm như trên, có thể rút ra một số đặc điểm của thu, chi ngân
sách nhà nước:
Thứ nhất, thu chi ngân sách nhà nước là một nhiệm vụ của Nhà nước.
Nói khác đi, Nhà nước luôn là một bên chủ thể trong quan hệ thu, chi ngân sách.
Đặc điểm này xuất phát từ bản chất của Nhà nước là chủ thể quyền lực công,
Nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật ngân sách để hình thành và sử
dụng các nguồn tài chính gắn với ngân sách nhà nước.
Thứ hai, thu chi ngân sách nhà nước luôn gắn với việc thực hiện toàn bộ
chu trình ngân sách nhà nước, dựa trên dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.
Có quan điểm cho rằng, thu, chi ngân sách có bản chất là hoạt động chấp hành
ngân sách. Tuy nhiên, quan điểm này được cho là chỉ nhấn mạnh tới yếu tố thực
thu, thực chi với những con số thu, chi trên thực tế mà không phản ánh được
tính pháp lý của thu, chi ngân sách nhà nước vốn dĩ là một nội dung không
những chỉ cần thực hiện mà còn cần phải tiến hành lập dự toán và quyết toán.
Thứ ba, thu chi ngân sách nhà nước không mang tính bồi hoàn trực tiếp.
Các tổ chức và cá nhân nộp thuế cho Nhà nước không có nghĩa là phải mua một
hàng hóa hay dịch vụ nào đó của Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước sẽ dùng thuế
nhằm tạo ra những hàng hóa và dịch vụ công và tất cả hàng hóa và dịch vụ công
sẽ được thụ hưởng bởi chính người dân trong nước. Như thế, các khoản thu nhập
công được chuyển trở lại cho dân chúng theo một cách gián tiếp và công cộng.
12


13



1.1.2 Cấu trúc các khoản thu, chi ngân sách nhà nước
Cấu trúc là chỉ ra mối liên hệ giữa các bộ phận trong một hệ thống. Nói
cách khác, cấu trúc của thu ngân sách, và cấu trúc của chi ngân sách là việc xác
lập trên cơ sở phân loại từng khoản thu, khoản chi và chỉ ra sự liên hệ giữa
chúng với nhau. Sự liên hệ này có thể căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau theo
những tiêu chí sau:
Thứ nhất, căn cứ theo tính chất của các khoản thu, chi ngân sách nhà
nước, có thể phân loại thu :
Ngân sách nhà nước thành hai nhóm là các khoản thu thuế và các khoản
thu ngoài thuế.
+ Các khoản thu thuế bao gồm các sắc thuế mà Nhà nước ban hành dưới
hình thức luật, là những khoản thu mang tính bắt buộc không bồi hoàn trực tiếp
và xây dựng trên nghĩa vụ công dân. Thuế chiểm tỉ phần đa số trong tổng thu
ngân sách Nhà nước ở hẩu hết mọi quốc gia.
+ Các khoản thu ngoài thuế bao gồm: lệ phí và phí, quyên góp, vay mượn,
cho thuê công sản... Đây là những khoản thu mang tính đối giá và được xây
dựng trên cơ sở sự thỏa thuận giữa dân chúng và Chính phủ. Mặc dù giữ tỉ phần
nhỏ trong tổng thu ngân sách Nhà nước song chúng không thể thiếu trong cơ cấu
thu của ngân sách Nhà nước. Các khoản chi ngân sách nhà nước được phân loại
thành hai nhóm gồm : các khoản chi đầu tư phát triển và các khoản chi thường
xuyên.
- Thứ hai, căn cứ theo phạm vi lãnh thổ thu NSNN được chia thành: thu
trong nước và thu ngoài nước.
+ Thu trong nước gồm: thuế, lệ phí và phí, vay trong nước, cho thuê công
sản, khai thác và bán tài nguyên thiên nhiên, thu khác... Thu trong nước là nguồn
thu nội lực cơ bản giúp Chính phủ xây dựng một ngân sách Nhà nước chủ động.
Mọi sự dựa dẫm vào bên ngoài để lại những hậu quả lâu dài. Nền tài chính quốc
gia chỉ lành mạnh và bền vững khi nguồn thu dựa chủ yếu vào nội lực của nền
kinh tế quốc dân.
14



+ Thu từ nước ngoài bao gồm: viện trợ nước ngoài, vay nợ nước ngoài.
Đây là những nguồn lực có thể giúp đất nước mau chóng tích tụ và tập trung vốn
đầu tư vào nhiều công trình then chốt. Từ đó, tạo ra những bước chuyển đáng
kể, hoặc nói cách khác là tạo ra những cú hích cơ bản trong tiến trình phát triển.
-Thứ ba, căn cứ theo nội dung, thu NSNN bao gồm những khoản thu
không mang nội dung kinh tế và những khoản thu mang nội dung kinh tế.
+ Khoản thu không mang nội dung kinh tế gồm có thuế, các khoản quyên
góp, viện trợ nước ngoài và thu khác. Thuế là khoản thu chiếm tỉ trọng lớn nhất
tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị. Khoản
thu này được xây dựng dựa trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ giữa công dân và Nhà
nước. Quyên góp và viện trợ nước ngoài là những khoản thu hình thành trên cơ
sở tự nguyện. Chúng ngày càng nhỏ dần về mặt tỉ trọng. Các khoản thu viện trợ
từ nước ngoài ngày càng mang tính hoàn lại và luôn kèm theo những điều kiện
về chính trị, kinh tế, quân sự hoặc về văn hóa, xã hội... Thu khác gồm các khoản
thu từ phạt vi cảnh, thanh lý tài sản tịch thu, thu từ quà biếu tặng...
+ Khoản thu mang nội dung kinh tế gồm lệ phí, phí, vay nợ, cho thuê công
sản, bán tài nguyên thiên nhiên... Lệ phí và phí là những khoản thu mang tính
đấu giá. Tỉ trọng của lệ phí và phí nhỏ hơn so với thuế nhưng góp phần rất quan
trọng trong quá trình nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng hàng hóa, dịch vụ
công, bảo đảm phân phối một cách tương đối công bằng phúc lợi công cộng cho
mọi thành viên trong xã hội. Lệ phí và phí còn là cầu nối gắn kết khu vực công
và khu vực tư.
- Căn cứ vào chức năng của Nhà nước, chi NSNN được phân loại gồm;
chi cho
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Hệ thống Tòa án và Viện kiểm sát.
+ Hệ thống quân đội và an ninh xã hội.
+ Hệ thống giáo dục.

+ Hệ thống an ninh xã hội.
+ Hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
15


+ Hệ thống quản lý hành chính Nhà nước.
+ Chi tiêu cho các chính sách đặc biệt (viện trợ nước ngoài, ngoại giao
chính trị..)
+ Chi khác.
Cách phân loại này giúp cho Nhà nước thiết lập những chương trình hoạt
động một cách hợp lý, theo những mục đích hay lợi ích muốn đạt tới. Mặt khác,
cách phân loại này cho phép đo lường những biến chuyển về bản chất của những
chương trình và những biến đổi trong việc phân phối nguồn lực của Nhà nước
giữa các chương trình và giữa các khu vực công quyền.
1.1.3 Mối quan hệ giữa các khoản thu và chi ngân sách nhà nước
Xét từ góc độ lý luận, các khoản thu và các khoản chi NSNN tuy có mục
đích khác nhau nhưng giữa chúng cũng có mối liên hệ biện chứng với nhau, phụ
thuộc vào nhau, tương tác lẫn nhau. Nếu các khoản thu NSNN được coi là cơ sở
và là tiền đề vật chất để thực hiện các khoản chi NSNN thì ngược lại, các khoản
chi NSNN lại được coi là mục tiêu hướng tới và đồng thời cũng là giới hạn của
việc xây dựng kế hoạch thu NSNN hàng năm ở mỗi quốc gia. Mọi khoản thu
NSNN đều có mục đích tài trợ cho các nhiệm vụ chi và mọi khoản chi ngân sách
đều bắt buồn từ các khoản thu do Nhà nước xây dựng và thực hiện.
Trong pháp luật thực định ( Điều 7 Luật NSNN năm 2015), mối quan hệ
qua lại giữa các khoản thu và các khoản chi NSNN được nhà làm luật quy định
cụ thể như sau:
- Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật được tổng hợp đầy đủ vào cân đối ngân sách nhà nước, theo
nguyên tắc không gắn với nhiệm vụ chi cụ thể. Trường hợp có khoản thu cần
gắn với nhiệm vụ chi cụ thể theo quy định của pháp luật thì được bố trí tương

ứng từ các khoản thu này trong dự toán chi ngân sách để thực hiện. Việc ban
hành chính sách thu ngân sách phải bảo đảm nguyên tắc cân đối ngân sách trong
trung hạn, dài hạn và thực hiện các cam kết về hội nhập quốc tế.
- Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày
16


càng cao để chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ
hơn số chi đầu tưphát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách; trường hợp đặc
biệt Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định. Trường hợp bội thu ngân
sách thì được sử dụng để trả nợ gốc và lãi các khoản vay của ngân sách nhà
nước.
- Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng cho đầu tư
phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên.
- Bội chi ngân sách trung ương được bù đắp từ các nguồn sau:
a) Vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng
Tổ quốc và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật;
b) Vay ngoài nước từ các khoản vay của Chính phủ các nước, các tổ chức
quốc tế và phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế, không bao gồm
các khoản vay về cho vay lại.
- Bội chi ngân sách địa phương:
a) Chi ngân sách địa phương cấp tỉnh được bội chi; bội chi ngân sách địa
phương chỉ được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạchđầu tư công trung
hạn đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
b) Bội chi ngân sách địa phương được bù đắp bằng các nguồn vay trong
nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay lại từ nguồn Chính
phủ vay về cho vay lại và các khoản vay trong nước khác theo quy định của
pháp luật
1.1.4 Vai trò của thu, chi ngân sách nhà nước

1.1.4.1. Vai trò của thu ngân sách nhà nước
Về vai trò của thu ngân sách nhà nước, có thể khẳng định rằng : Thu
NSNN có vài trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Nhà nước và nền
kinh tế - xã hội, cụ thể là :
Thứ nhất, thu NSNN bảo đảm nguồn vốn để thực hiện các nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Vì
NSNN được xem là quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất của Nhà nước và được
17


dùng để giải quyết những nhu cầu chung của Nhà nước về kinh tế, văn hóa, giáo
dục, y tế, xã hội, hành chính, an ninh và quốc phòng.
Xuất phát từ vai trò này, việc tăng thu NSNN là rất cần thiết, được xem là
một nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động tài chính vĩ mô. Các khoản thu của
NSNN chủ yếu bắt nguồn từ khu vực sản xuất kinh doanh dịch vụ dưới hình
thức thuế. Do vậy, về lâu dài để tăng nguồn thu NSNN phải tăng sản phẩm quốc
dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Thứ hai,thông qua thu NSNN, nhà nước thực hiện việc quản lý và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội nhằm hạn chế những mặt khuyết tật,phát huy
những mặt tích cực của nó và làm cho nó hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Với công cụ thuế, Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động của nền kinh
tế nhằm định hướng cơ cấu kinh tế, định hướng tiêu dùng. Ví dụ, đối với các
ngành nghề cần ưu tiên phát triển thì Nhà nước sẽ có chế độ thuế ưu đãi, giảm
nhẹ hoặc miễn thuế và ngược lại. Hoặc để định hướng tiêu dùng cho toàn xã hội
theo hướng kích cầu hay hạn chế cầu tiêu dùng thì Nhà nước sẽ giảm thuế hoặc
đánh thuế cao đối với từng loại hàng hóa đó.
- Thứ ba, thu NSNN còn đóng vai trò quan trọng trong vấn đề điều tiết thu
nhập của các cá nhân trong xã hội. Thông qua công cụ thuế, Nhà nước đánh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao hoặc đánh thuế cao đối với các hàng hóa
xa xỉ, hàng hóa không khuyến khích tiêu dùng.

1.1.4.2. Vai trò của chi ngân sách nhà nước
- Chi NSNN đảm bảo hoạt động bộ máy nhà nước, hình thành khuôn khổ
luật pháp, cung cấp những dịch vụ hành chính pháp lý : đây là những hoạt động
quan trọng mà thiếu nó, xã hội không tồn tại và phát triển. Mặc dù xét về ý
nghĩa, thì chi NSNN cho hoạt động bộ máy nhà nước để đảm bảo cho những nội
dung trên là điều kiện tiên quyết, tiền đề quan trọng nhất song tỷ trọng chi lại
chiếm phần nhỏ trong chi NSNN.
- Chi NSNN sản xuất hàng hóa dịch vụ cá nhân. Quan điểm của nhiều
quốc gia về vấn đề này không giống nhau, ở một số nước, nhà nước có vai trò
hạn chế, song ở một số nước Nhà nước can thiệp vào nhiều lĩnh vực kinh tế tư
18


nhân. Cơ sở để Nhà nước trực tiếp tham gia vào lĩnh vực sản xuất hàng hóa dịch
vụ cá nhân xuất phát từ Nhà nước coi ngành, lĩnh vực đó quan trọng đến mức
phải nắm không; một số ngành tư nhân không muốn làm vì không có hiệu quả
thì Nhà nước buộc phái làm, hoặc một số lĩnh vực Nhà nước muốn làm vì thấy
rằng lĩnh vực đó có thể mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, xu hướng trong nền kinh
tế thị trường thì Nhà nước ít tham gia với tư cách là người cung cấp NSNN để
hỗ trợ hoặc trực tiếp tham gia sản xuất hàng hóa dịch vụ cá nhân.
- Thông qua công cụ chi ngân sách, Nhà nước trợ cấp hoặc gây ảnh hưởng
đối với thị trường tài chính như thị trường chứng khoán, bảo hiểm, tín dụng,
thông qua các cơ quan điều hành để đảm bảo hoạt động của các lĩnh vực này và
đảm bảo quyền lợi hạn chế rủi ro cho mọi công dân.
- Chi NSNN cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng như đầu tư xây dựng
hệ thống đường cao tốc, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, quốc phòng, bảo vệ trật tự
xã hội… Điều này thể hiện ở hai giác độ:
a) Có thể những dịch vụ công đó do cơ quan nhà nước làm ra và Nhà
nước chi tiền cho các cơ quan đó như là người mua hàng hóa dịch vụ.
b) Những dịch vụ công này do tư nhân làm và Chính phủ mua lại. Việc

mua đó là để cung cấp cho những cá nhân không đủ tiền mua, thể hiện sự ưu đãi
của Chính phủ nhằm khắc phục khiếm khuyết của cơ chế thị trường trong phân
hóa giàu nghèo; hoặc Chính phủ mua để cung cấp cho các cá nhân khi các hàng
tư nhân không làm được vì không thu hồi trực tiếp được vốn. Trong trường hợp
này Chính phủ thu hồi qua những hình thức gián tiếp như thuế. Đặc điểm này
thể hiện vai trò to lớn của Chính phủ đối với mọi lĩnh vực đời sống xã hội và
mọi cá nhân, tỷ trọng khoản chi này rất lớn trong tổng chi tiêu của NSNN.
- Chi NSNN đóng vai trò tích cực trong phân phối lại thu nhập thông qua
các chương trình hỗ trợ công cộng và bảo hiểm xã hội. Đặc điểm này cũng thể
hiện vai trò của Chính phủ trong việc hỗ trợ công cộng, nhằm trợ giúp những
người nghèo, người về hưu, tàn tật, thất nghiệp, ốm đau. Trợ cấp hiện vật như
mua trang thiết bị, thuốc chữa bệnh. Hoặc Chính phủ thông qua chương trình trợ
cấp bảo hiểm xã hội để bảo hiểm cho người già, người mất khả năng lao động…
19


Tóm lại, chi NSNN để thực hiện vai trò Nhà nước là người đảm bảo hệ
thống luật pháp, sản xuất một phần hàng hóa dịch vụ cá nhân, cung ứng hàng
hóa dịch vụ công cộng và phân phối lại thu nhập. Như vậy chi NSNN là công cụ
để Nhà nước điều hành nền kinh tế theo mục đích của mình, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, giải quyết những vấn đề xã hội pháy sinh như giảm bớt sự
chênh lệch giàu nghèo, giải quyết công bằng xã hội và khắc phục khiếm khuyết
của thị trường. Chi NSNN chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận và không trực
tiếp thu được lợi nhuận, vì vậy không được hoàn trả trực tiếp. Việc hoàn trả
được thông qua hệ thống luật pháp về thuế và một phần được thu lại từ phí
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về thu, chi ngân sách nhà nước
1.2.1. Khái niệm và cấu trúc của pháp luật về thu, chi ngân sách nhà nước
Về phương diện lý thuyết, có thể đưa ra định nghĩa về pháp luật thu chi
ngân sách nhà nước như sau :
Pháp luật về thu, chi ngân sách nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp

luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước
Việc phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thu, chi ngân sách nhà
nước xuất phát từ một số lí do sau:
- Thu chi ngân sách thường có quy mô rất lớn đòi hỏi phải có một quy
trình thực thi mang tính quy phạm. Trong hệ thống tài chính, khâu tài chính nhà
nước nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng luôn có quy mô lớn nhất. Theo
các tài liệu nghiên cứu thống kê, tỷ lệ ngân sách nhà nước so với GDP trong giai
đoạn 2006-2016 đều từ 23% đến 28%. Với mức độ quy mô tài chính lớn như
vậy, nhu cầu về quản lý, kiểm soát thu, chi ngân sách là một tất yếu khách quan.
Để làm điều này, Nhà nước luôn sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh bởi
tính chất quy phạm và cưỡng chế của nó sẽ giúp cho các quan hệ thu chi ngân
sách được chặt chẽ, bảo đảm kỷ luật tài chính.
- Thu chi ngân sách có sự tham gia của nhiều chủ thể cho nên phải có sự
điều chỉnh để tránh xung đột lợi ích, hoặc cá rủi ro đạo đức. Là một quan hệ
phân phối tài chính, thu chi ngân sách nhà nước liên quan đến quá trình chuyển
20


quyền sở hữu tài sản giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân. Điều này trực tiếp làm
ảnh hưởng đến lợi ích của các bên, tiềm ẩn những xung đột lợi ích. Bởi vậy, các
quan hệ thu, chi ngân sách nhà nước luôn cần phải dựa vào pháp luật để có các
quy chuẩn, chuẩn mực cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên.
Về cấu trúc của pháp luật về thu, chi ngân sách nhà nước
Để thực hiện chức năng điều chỉnh pháp luật các quan hệ pháp luật về thu,
chi ngân sách nhà nước, bộ phận pháp luật về thu, chi ngân sách thường có cấu
trúc cơ bản như sau:
- Các quy định điều chỉnh việc xác định các khoản thu, chi ngân sách nhà
nước. Đây được coi là yếu tố cơ bản nhất của bộ phận pháp luật này. Các quy
định này thường trả lời câu hỏi: nhà nước có thể thu từ những nguồn thu nào?

Nhà nước chi tiêu cho những công việc gì?
- Các quy định điều chỉnh việc xác định nội dung cụ thể của từng khoản
thu, nhiệm vụ chi. Đây được coi là bộ phận phức tạp và đồ sộ nhất của bộ phận
pháp luật này. Thông thường để điều chỉnh nội dung của từng khoản thu, chi thì
Nhà nước sẽ ban hành từng văn bản cụ thể tương ứng, ví dụ Nhà nước ban hành
nhiều sắc thuế khác nhau. Nói chung, bộ phận pháp luật này phải trả lời các câu
hỏi: đối tượng thu, chi? Điều kiện thu, chi? Mức độ thu, chi? Trình tự thủ tục thu
chi?
- Các quy định về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi của từng cấp ngân
sách, cũng như giữa các cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà nước
- Các quy định điều chỉnh việc thu chi liên quan đến chu trình ngân sách.
Nội dung của bộ phận pháp luật này là trả lời câu hỏi trong một năm ngân sách
thì dự toán thu, chi được lập như thế nào? Thực hiện thu chi trong thực tế như
thế nào?
- Các quy định về đảm bảo hiệu lực của thu, chi ngân sách nhà nước. Các
nội dung cơ bản của bộ phận này thường đề cập tới việc công khai thu, chi, giám
sát thu, chi, kiểm tra thu, chi và xử lý vi phạm.
Khi xem xét cấu trúc của pháp luật về thu, chi ngân sách nhà nước như ở
trên có thể thấy cấu trúc này dựa trên sự liên hệ giữa bộ phận pháp luật mang
21


tính nội dung và bộ phận mang tính hình thức. Bộ phận nội dung là các quy định
xác định về quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với từng nguồn thu, nhiệm
vụ chi của ngân sách nhà nước và bộ phận hình thức là các quy định về cách
thức, trình tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ thu, chi ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, trong Luận văn này, tác giả sẽ trình bày và phân tích đánh giá
tập trung vào bộ phận pháp luật nội dung của thu chi ngân sách nhà nước mà
không quá đi sâu vào đánh giá bộ phận pháp luật mang tính hình thức, vì những
lí do sau:

- Trình tự thủ tục để thực hiện các quyền, nhiệm vụ về thu, chi ngân sách
nhà nước thường sẽ liên quan trực tiếp tới nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành
như đất đai, xây dựng, đầu tư. Các quy định như vậy thường là thống nhất cho
các chủ thể tham gia vào quan hệ ngân sách mà không có sự phân biệt giữa các
cấp ngân sách, đơn vị dự toán. Do vậy, khi đặt trong bộ phận thu chi ngân sách
của cấp ngân sách quận cũng không phát sinh nhiều vấn đề lớn, đặc thù.
- Một số quy định hình thức gắn với chu trình ngân sách sẽ được phân tích
chi tiết và làm sáng tỏ hơn khi gắn với thực tiễn hoạt động thu, chi ngân sách
trên địa bàn quận Ngô Quyền.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về thu, chi ngân sách nhà nước
Các tác giả của cuốn Giáo trình Luật tài chính công đã chỉ ra hai nhóm
yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến pháp luật tài chính công, trong đó có pháp luật thu,
chi ngân sách nhà nước5. Cụ thể có thể tóm tắt như sau:
- Quan điểm, đường lối của hệ thống chính trị trong từng thời kỳ. Vấn đề
này không chỉ thể hiện ở hệ thống pháp luật về tài chính công của Việt Nam mà
còn thể hiện rõ nét trong sự thay đổi kết cấu, nội dung pháp luật của tất cả các
quốc gia có chủ quyền. Chẳng hạn, nói đến vấn đề độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia, tùy theo quan điểm và nhu cầu trong từng giai đoạn cụ thể mà qui định
liên quan đến chi tiêu cho an ninh, quốc phòng có sự thay đổi, mới tạo được cơ
sở pháp lý để thực thi. Sau sự kiện 11.9.2001, hàng loạt các khoản chi tiêu
chống khủng bố, chi tiêu cho phòng vệ từ xa của Hoa Kỳ đã được thực hiện trên
5

Nguyễn Minh Hằng, (chủ biên), Giáo trình pháp luật tài chính công, Nxb giáo dục Việt Nam, H2011

22


cơ sở ban hành những văn bản Luật mới. Xét ở góc độ an sinh, vấn đề tương tự
cũng được thể hiện. Ở Việt Nam, trước đây, nhu cầu về bảo vệ sức khỏe cộng

đồng đã đặt ra nhưng chưa thực sự đề cao do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, qui định về bảo hiểm y tế bắt buộc đã được
Luật hóa.
- Năng lực tài chính của xã hội và của công dân.
+ Về năng lực xã hội có thể được hiểu dưới hai góc độ: góc độ xác hội
cần vốn và góc độ tính hiệu quả ttrong sử dụng vốn của xã hội…. Điểm khác cơ
bản giữa nền kinh tế tập trung với nền kinh tế thị trường ở chỗ nhu cầu vốn, nhu
cầu sử dụng vốn đều được đưa lên “bàn cân”, thể hiện rõ nét nhất qua qui luật
cung cầu vốn. Nhà nước, với tư cách là chủ thể đặc biệt, có trách nhiệm xác định
và “nâng đỡ, định hướng” nhu cầu vốn trong xã hội thông qua chính sách ưu đãi
đầu tư, kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ, giữa các vung
miền để tính toán và xác định một cách chủ động nhu cầu vốn trong xã hội. Một
ví dụ đơn giản, khi Quốc hội quyết định xây dựng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (tỷ lệ
GDP) có nghĩa sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu về vốn của toàn
xã hội. Khi tỷ lệ tăng trưởng cao, nhu cầu vốn cũng tăng tương ứng để đảm bảo
tại ra lượng của cải vật chất xã hội với những giá trị thặng dư theo yêu cầu của
cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, không phải cần vốn là có vốn, điều này tác
động đến hàng loạt các chỉ số kinh tế khác trong xã hội, cụ thể là lãi suất tín
dụng; lãi suất trái phiếu chinh phủ; lãi suất trái phiếu doanh nghiệp. Tất cả
những yêu tố đó đều chi phối đến quá trình quản lý các hoạt động tài chính công
của Nhà nước. Có thể chỉ ra đây những tác động trực tiếp như việc điều hành lãi
suất tín phiếu kho bạc, lãi suất trái phiếu Chính phủ, tỷ lệ tạm ứng từ Ngân hàng
Nhà nước, lãi suất cấp tin dụng ưu đãi có sự can thiệp của Nhà nước…
+ Về năng lực công dân thì có thể khẳng định, trong xã hội càng phát
triển, càng thể hiện rõ năng lực công dân, rõ ràng nhất thông qua năng lực tài trợ
vốn của nhóm chủ thể này cho xã hội, cho Chính phủ. Mức sống của xã hội cao
cũng đồng nghĩa với sự gia tăng của lượng tài sản đang nằm trong dân chúng
dưới dạng này hay dạng khác. Năng lực tài chính công dân có thể tác động trực
23



tiếp và gián tiếp đến quan hệ tài chính công và thông qua đó, tác động đến hệ
thống pháp luật về tài chính công. Ở khía cạnh trực tiếp, khi thu nhập xã hội, thu
nhập dân cư tốt, tích lũy trong dân cư tăng lên, tất yếu ảnh hưởng đến quan hệ
hình thành và sử dụng các nguồn tài chính công. Đó là các quan hệ thu nộp thuế,
quan hệ tặng cho đối với các quĩ tiền tệ công, quan hệ chi tiêu nguồn tài chính
cho các mục đích công cộng… Ở góc độ tác động gián tiếp, nhu cầu cung vốn,
sử dụng vốn để đầu tư cho xã hội của cá nhân cũng có khả năng tác động mạnh
đến quan hệ tài chính công. Để phát huy có hiệu nguồn vốn này cũng như giảm
thiểu khả năng thao túng nến kinh tế bởi cá nhân, Nhà nước cần cân nhắc tính
toán tỷ trọng vốn được nắm giữ bởi cá nhân và nguy cơ “thao túng thị trường”
từ các chủ thể này.

Kết luận chương 1
Khái niệm về thu, chi ngân sách nhà nước có thể được tiếp cận từ nhiều
góc độ nhưng luôn gắn với quá tình tạo lập và phân phối quỹ ngân sách của nhà
nước. Thực chất thu chi ngân sách nhà nước là một quan hệ phân phối giữa nhà
nước với các chủ thể trong xã hội. Do tính chất phức tạp và quy mô của chúng,
các quan hệ này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Bộ phận pháp luật
này được gọi là pháp luật về thu, chi ngân sách nhà nước. Vì vậy cần nghiên
cứu, làm rõ thêm thực trạng pháp luật về thu, chi ngân sách Nhà nước nói chung
cũng như thực tiễn thực hiện tại địa bàn Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng
để có cách nhìn một cách khách quan, cụ thể nhất.

24


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU, CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN

ĐỊA BÀN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Thực trạng pháp luật về thu chi ngân sách nhà nước
2.1.1. Thực trạng quy định về thu ngân sách nhà nước
2.1.1.1.Về việc xác định các nguồn thu ngân sách nhà nước
Về vấn đề này, qua khảo sát thực trạng pháp luật hiện hành cho thấy :
Thứ nhất, các quy định hiện nay về cơ bản đã tương đối ổn định và thống
nhất về các nguồn thu ngân sách nhà nước gắn với quyền lực nhà nước. Khảo sát
so sánh giữa Luật NSNN 2015 với các Luật NSNN 2002, 1998 ( sửa đổi) và
1996 thì đều xác định các khoản thu có tính bắt buộc cao gắn với quyền lực nhà
nước như thuế, lệ phí là nguồn thu quan trọng nhất của ngân sách nhà nước.
Xét về bản chất, cả thuế và lệ phí đều có mối liên hệ gián tiếp hoặc trực
tiếp tới các hoạt động thực thi quyền lực công của Nhà nước trong việc quản lý
xã hội, hay cung cấp các dịch vụ công. Ngoài ra, Luật NSNN 2015 đã thu hẹp
phạm vi các khoản phí được coi là nguồn thu NSNN, những loại phí không gắn
trực tiếp với hoạt động quản lý nhà nước sẽ được chuyển giao cho các đơn vị tư
nhân thực hiện hoặc thực hiện theo cơ chế giá.
25


×