Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Pháp luật về lao động chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN
NGUYỄN THỊ HUYỀN

CHUYÊN NGÀNH: LUậT KINH Tế
MÃ Số: 60.38.01.07

NGƯờI HƯớNG DẫN KHOA HọC:
PGS.TS TRầN THị THÚY LÂM

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật về lao
động chưa thành niên” là trung thực và không sao chép của ai. Mọi sự giúp
đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn
trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình !

Hà Nội, ngày 30/10/2017
Tác giả

Nguyễn Thị Huyền



LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế với đề tài “Pháp luật về lao
động chưa thành niên” là kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản
thân tôi và được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy, bạn bè đồng nghiệp
và người thân. Qua trang viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cô giáo PGS.TS
Trần Thị Thúy Lâm, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp
tài liệu thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Viện đại học Mở Hà Nội đã tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học của mình.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, đơn vị công tác đã
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn.
Hà Nội, 30/10/2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH
NIÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ..................10
1.1. Khái niệm lao động chưa thành niên .................................................. 10
1.2. Đặc điểm của lao động chưa thành niên............................................. 13
1.2.1. Đặc điểm về sinh lý ....................................................................... 13
1.2.2. Đặc điểm về tâm lý ......................................................................... 14
1.3. Tính tất yếu khách quan phải sử dụng lao động chưa thành niên và
sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa thành niên ..... 15

1.3.1. Tính tất yếu khách quan phải sử dụng lao động chưa thành niên .......... 15
1.3.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa
thành niên ................................................................................................ 16
1.4. Pháp luật quốc tế và Pháp luật của một số quốc gia về lao động
chưa thành niên .......................................................................................... 18
1.4.1. Pháp luật về lao động chưa thành niên theo quy định của Tổ chức
lao động quốc tế (ILO) và Liên Hiệp quốc ............................................... 18
1.4.2. Pháp luật về lao động chưa thành niên của một số nước ................. 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO
ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN................................................................... 30
2.1. Trong lĩnh vực việc làm và đào tạo nghề............................................ 30
2.2. Trong lĩnh vực hợp đồng lao động...................................................... 32
2.3. Trong lĩnh vực thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, và an toàn
lao động, vệ sinh lao động .......................................................................... 33
2.4. Tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội ........................................... 37
2.5 Trong lĩnh vực kỷ luật lao động và giải quyết tranh chấp ................. 39


CHƯƠNG 3: THựC TIễN THI HÀNH PHÁP LUậT VỀ LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN MộT Số KIếN NGHị NHằM NÂNG CAO
HIệU QUả THI HÀNH PHÁP LUậT Về LAO ĐộNG CHƯA THÀNH
NIÊN ........................................................................................................... 42
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về lao động chưa thành niên............... 42
3.1.1. Những kết quả đạt được từ thực hiện pháp luật lao động chưa
thành niên ................................................................................................ 42
3.1.2. Một số tồn tại và nguyên nhân ........................................................ 47
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
lao động chưa thành niên. .......................................................................... 60
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên .......................... 60
3.2.2. Nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về

lao động chưa thành niên .......................................................................... 66
KẾT LUẬN ................................................................................................. 69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLLĐ

: Bộ luật lao dộng

BLĐTB&XH

: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội

ILO

: Tổ chức Lao động Quốc tế

LĐCTN

: Lao động chưa thành niên

IPEC

: Chương trình quốc tế về xoá bỏ lao

động trẻ em
UN

: Tổ chức Liên hợp quốc


UNICEF

: Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc

UBBV&CSTEVN: Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam
NSDLĐ

: Người sử dụng lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1:

Cơ cấu lao động trẻ em theo số giờ làm việc bình quân tuần, 0% .... 52

Bảng 3.2:

Lao động trẻ em đang làm việc trong các nghề có nguy cơ
thuộc danh mục cấm sử dụng lao động vị thành niên và điều
kiện lao động có hại, theo nhóm tuổi và giới tính. .................... 56


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại Hội thảo “Vận động chính sách, giải pháp phòng ngừa lao động trẻ
em trong thảm họa thiên nhiên và biến đổi khí hậu” do Bộ LĐ-TB&XH phối
hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tổ chức vào ngày 13/6/2017 tại Hà
Nội, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH)
Nguyễn Trọng Đàm đã cho biết: Theo ước tính của ILO, thế giới hiện có
khoảng 168 triệu lao động trẻ em. Việc trẻ em phải lao động sớm để lại hậu

quả nặng nề, ảnh hưởng đến sự phát triển hài hòa của trẻ em, tác động tiêu
cực đến phát triển kinh tế - xã hội, nhất là chất lượng nguồn nhân lực trong
tương lai.
Tại Việt Nam hiện có 1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành
niên từ 5 - 17 tuổi, chiếm 9,6% tổng dân số trẻ em. Trong tổng lao động là
người chưa thành niên, có tới 85% lao động chưa thành niên sinh sống ở nông
thôn và 15% ở thành thị; 67% tham gia lao động trong lĩnh vực nông nghiệp,
16,6% nhóm ngành dịch vụ và 15,8% nhóm xây dựng, công nghiệp.
Trung bình mỗi năm nước ta phải hứng chịu từ 5 - 7 cơn bão, riêng năm
2016 đã có 20 loại hình thiên tai xảy ra tại Việt Nam. Thiên tai ảnh hưởng đến
hàng chục triệu người trong đó có trẻ em, gây ra thiệt hại về kinh tế dẫn đến
sản xuất bị đình trệ, dẫn đến làm giảm tăng trưởng quốc gia. Khó khăn về kinh
tế của gia đình có nguy cơ buộc trẻ em phải nghỉ học, tham gia các hoạt động
kinh tế nhằm giúp đỡ gia đình vượt qua thách thức trong cuộc sống.
Thực tế hiện nay, một bộ phận lao động là người chưa thành niên làm
việc trong điều kiện lao động ngoài trời, đi lại nhiều dễ bị tai nạn, nguy hiểm,
điều kiện làm việc quá nóng, quá lạnh, môi trường có hoá chất độc hại và các
tổn thương khác đến sự phát triển thể chất của người chưa thành niên. Thậm
chí, nhiều trường hợp phải làm việc các nghề cấm sử dụng lao động chưa
thành niên hoặc điều kiện lao động có hại. Số liệu thống kê cũng cho thấy, có

1


khoảng 933 ngàn trẻ em là người chưa thành niên làm việc ở những nơi có
nguy cơ bị bóc lột và bị xâm hại, trong đó có 11,6% lao động phải dịch
chuyển nơi làm liên tục; gần 3,9% người chưa thành niên làm việc tại các nhà
máy, xưởng sản xuất; trên 2,3% làm việc tại nhà khách hàng, 1,47% làm việc
tại các nhà hàng, quán, bar, khách sạn; khoảng 2,45% trẻ em là người chưa
thành niên phải làm việc tại các phố chợ. Các địa điểm làm việc khó khăn như

mỏ đá, công trường xây dựng, xưởng sản xuất, hoặc môi trường nhạy cảm
như cửa hàng, quán, bar, nhà hàng, khách sạn chủ yếu là người chưa thành
niên ở nhóm từ 15 tuổi đến 17 tuổi.
Mặc dù, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phòng
ngừa và giảm thiểu lao động chưa thành niên, xây dựng khuôn khổ pháp lý,
chính sách vững chắc để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về lao động,
đồng thời, cũng đã thực hiện một số chương trình, dự án cấp trung ương và
địa phương để giảm thiểu lao động chưa thành niên. Nhiều mô hình được
triển khai thí điểm tại một số địa phương đã cải thiện điều kiện lao động và an
toàn vệ sinh lao động, môi trường làng nghề, hoạt động du lịch và các hoạt
động trong nông nghiệp, ngư nghiệp. Tuy nhiên, lao động chưa thành niên
vẫn còn tồn tại ở một số nơi, đặc biệt trong khu vực kinh tế phi chính thức.
Tình trạng này đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển về tâm lý, sức khoẻ
của người chưa thành niên, hạn chế cơ hội học tập và ảnh hưởng đến cơ hội
có việc làm bền vững của họ trong tương lai.
Ngoài ra, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, việc vi phạm quy
định về sử dụng lao động chưa thành niên còn ảnh hưởng tới cam kết của Việt
Nam về thực hiện Công ước số138 về độ tuổi tối thiểu làm việc và Công ước số
182 về cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em
tồi tệ nhất, ảnh hưởng tới việc xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, trên thực tế đã có nhiều đơn vị, cơ sở, cá nhân
là người sử dụng lao động có ý thức chấp hành tốt những quy định pháp luật

2


dành cho lao động chưa thành niên, như những quy định về độ tuổi lao động
và học nghề, về giao kết hợp đồng lao động, về điều kiện lao động, bảo hộ
lao động...Tuy nhiên, cũng còn không ít đơn vị, cá nhân, nhất là các cơ sở tư
nhân, việc thực hiện những quy định pháp luật đối với lao động chưa thành

niên chưa thật tốt, quyền lợi của người lao động chưa thành niên chưa thực
sự được đảm bảo. Tình trạng sử dụng lao động chưa thành niên không có
hợp đồng lao động, không có bảo hiểm xã hội, sự vi phạm các quy định về
thời gian làm việc nghỉ ngơi, về an toàn, vệ sinh lao động...còn xảy ra khá
phổ biến. Mặt khác việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý nhà nước còn
chưa được thường xuyên, việc tuyên truyền pháp luật trong lĩnh vực này còn
chưa thường xuyên và chưa sâu rộng.
Trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng
như trong quan hệ xã hội khác, các quan hệ lao động, trong đó có lao động
chưa thành niên cũng không ngừng biến động. Điều này đòi hỏi một số quy
định pháp luật lao động cần được bổ sung, sửa đổi để đáp ứng tình hình. Để
bảo vệ và tạo điều kiện cho người chưa thành niên vừa có thể tham gia
quan hệ lao động lại không ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực và trí lực,
pháp luật về lao động hiện hành của Việt Nam cho phép đối tượng này
được tham gia vào những quan hệ lao động phù hợp với sức khỏe và năng
lực của họ, đồng thời nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của người
chưa thành niên vào làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,
làm việc quá sức. Đối với lao động chưa thành niên, quy chế lao động riêng
được quy định nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho sự phát triển thể lực, trí
lực của họ. Việc cho phép và tạo điều kiện cho họ tham gia quan hệ lao
động là một bước tập dượt về chuyên môn tay nghề, về ý thức tổ chức kỷ
luật trước khi trở thành chủ nhân của xã hội.
Đây cũng là những lý do để tôi chọn vấn đề : “Pháp luật về lao động

3


chưa thành niên” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, vấn đề người lao động chưa thành niên được đề cập trực

tiếp trong các giáo trình Luật lao động của một số cơ sở đào tạo luật như
Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật
Đại học Cần Thơ và 1 số luận văn tốt nghiệp. Có thể kể đến 1 số công trình
nghiên cứu sau:
-“ Vấn đề lao động trẻ em” của Vũ Ngọc Bình, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2000 . Tập trung nêu vấn đề lao động trẻ em trên
thế giới và vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam hiện nay, các giải pháp nhằm
giải quyết vấn đề lao động trẻ em trong nền kinh tế thị trường.
- "Bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn" của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với UNICEF biên soạn, NXB
Lao dộng - Xã hội, Hà Nội năm 2000.
- Báo cáo nghiên cứu “Trẻ em làm thuê giúp việc gia đình ở Hà Nội”
năm 2000 được Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện.
- Báo cáo nghiên cứu “Thực trạng trẻ em làm việc tại bãi rác Nam
Sơn” năm 2000 của Viện xã hội học.
- Báo cáo nghiên cứu về “Trẻ em làm thuê tại làng gốm Bát Tràng”
năm 2000 của Vụ Chính sách lao động và việc làm.
-Báo cáo nghiên cứu “Tình hình lao động trẻ em ở 8 tỉnh, thành phố
Việt Nam” năm 2009 của Viện Khoa học Lao động và Xã hội.
- Báo cáo nghiên cứu “ Điều kiện lao động, sức khoẻ nghề nghiệp của
trẻ em và người chưa thành niên tham gia lao động tại ba làng nghề đồ gỗ
mỹ nghệ, đá mỹ nghệ và dệt truyền thống” năm 2009 của Hội y học lao động
Việt Nam….
- Luận văn tiến sỹ (2012), Đại học Quốc gia Hà Nội, Trần Thắng Lợi
về “Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội

4



nhập quốc tế.”
-Luận văn thạc sỹ thạc sỹ (2002), Đại học Quốc gia Hà Nội, Phan Văn
Hùng về “ Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam”.
- Luận văn thạc sĩ ( 2014), Đại học Luật Hà Nội, Hứa Thúy Nga “Pháp
luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam”
- Khóa luận tốt nghiệp (2016), Đại học Luật Hà Nội Nguyễn Thị Thanh
Thủy “ Pháp luật về lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện tại
thành phố Hà Nội.”
- Đặc biệt, năm 2012 Tổng cục Thống kê (GSO) đã tiến hành cuộc “
Điều tra toàn quốc về Lao động trẻ em”, phối hợp với Viện Khoa học Lao
động và Xã hội thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện với sự
hỗ trợ kỹ thuật của tổ chức Lao động quốc tế ( ILO).
Gần đây nhất, là Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ
em giai đoạn 2016 - 2020, được Thủ tướng chính phủ Việt Nam phê duyệt
ngày 07/06/2016. Chương trình nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức của cộng
đồng, xã hội về vấn đề lao động trẻ em; Hoàn thiện luật pháp, chính sách về
phòng ngừa và trợ giúp lao động trẻ em; Thực hiện mạnh mẽ cam kết quốc tế
về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất vào năm 2016 và giảm
thiểu lao động trẻ em vào năm 2020.
Đây là chương trình và nghiên cứu có tính cập nhật nhất đến thời điểm
hiện nay. Chương trình cũng thực hiện khảo sát của Ủy ban về thực hiện luật
pháp, chính sách liên quan đến lao động trẻ em, được thực hiện tại 5 tỉnh,
thành phố là Hà Nội, Thanh Hóa, Vĩnh Long, Lào Cai và thành phố Hồ Chí
Minh về lao động trẻ em trong giai đoạn 2009 - 2013.
Ngoài ra, Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em giai
đoạn 2016 - 2020 còn đề cập đến vấn đề lao động trẻ em dưới hình thái bóc
lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại. Trước đây, ở Việt Nam chưa có
một báo cáo nào về tình trạng trên ngoại trừ báo cáo được công bố năm 2012

5



do Bộ LĐ-TBXH phối hợp với Unicef tổ chức.
Nhìn chung các nghiên cứu này được thực hiện dưới góc độ kinh tế-xã
hội và chủ yếu nhằm tìm hiểu thực trạng, mức độ và hình thức lao động trẻ
em tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam mà chưa đề cập nhiều, sâu dưới góc
độ luật học. Do vậy, đề tài thạc sỹ “ Pháp luật về lao động chưa thành niên”
là công trình trực tiếp nghiên cứu về người lao động chưa thành niên dưới góc
độ pháp luật một cách tương đối toàn diện và có hệ thống, ít nhất là cập nhật
đến thời điểm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu đề tài gồm:
+ Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về lao động chưa
thành niên.
+ Đưa ra những ý kiến đề xuất, các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật lao động về người lao động chưa thành niên, cũng như áp dụng vào thực
tế sao có hiệu quả.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Một là những vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, sự cần thiết, ý nghĩa
của việc quy định đối với lao động chưa thành niên, lịch sử hình thành chế
độ pháp lý đối lao động chưa thành niên ở nước ta.
+ Hai là nghiên cứu những quy định pháp luật quốc tế liên quan đến lao
động chưa thành niên để so sánh, đối chiếu với pháp luật trong nước.
- Ba là trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, luận án đưa
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về người lao động
chưa thành niên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+Các quy định pháp luật lao động trong Bộ Luật lao động và các văn
bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động.


6


+ Một số nội dung có liên quan trong các văn bản pháp luật khác như:
một số quy định trong Luật trẻ em (2016), Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, Bộ
Luật dân sự (2015).
+ Một số công ước của tổ chức lao động quốc tế về lao động chưa
thành niên như công ước số 138 năm 1973 về độ tuổi lao động tối thiểu và
Công ước số 182 năm 1999 về cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ
những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất là những văn bản liên quan trực
tiếp đến người lao động chưa thành niên mà Việt Nam đã phê chuẩn.
- Phạm vi nghiên cứu
Lao động chưa thành niên là vấn đề có thể được nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau. Trong luận văn này tác giả nghiên cứu về lao động chưa
thành niên dưới góc độ luật học và nghiên cứu ở các lĩnh vực lao động như
việc làm, học nghề, hợp đồng lao động, kỷ luật động, an toàn vệ sinh lao
động….Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu về lao động chưa thành niên
theo quy định của ILO và một số quốc gia để làm cơ sở so sánh.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả lấy phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học
Mác-Lênin cũng như của lý luận chung về Nhà nước và pháp luật làm cơ sở
phương pháp luận. Kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trẻ em là tương lai
của đất nước.
Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể thích hợp
với từng mặt, từng khía cạnh của đề tài, như: Phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích lịch sử; phương
pháp khảo sát...
Phương pháp tổng hợp là phương pháp được sử dụng chủ yếu tại
Chương 1 và Chương 2 của luận án khi nghiên cứu những vấn đề lý luận và

đánh giá thực trạng pháp luật về người lao động chưa thành niên nhằm tìm ra
những ưu điểm, hạn chế trong việc quy định về nội dung điều chỉnh pháp luật

7


đối với người lao động chưa thành niên. Ngoài ra, trong Chương 2 của luận
án cũng sử dụng thêm phương pháp thống kê, điều tra, khảo sát và phỏng vấn
trực tiếp để làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về người lao động chưa thành
niên. Phương pháp phân tích, so sánh và logic được sử dụng trong hầu hết
các nội dung nghiên cứu ở cả ba chương để giải quyết các nội dung cụ thể của
luận án.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Với mong muốn góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về người lao
động chưa thành niên nói riêng, pháp luật lao động nói chung, luận văn có
những điểm mới sau đây:
+ Góp phần sáng tỏ thêm 1 số vấn đề pháp lý về lao động chưa thành
niên và pháp luật điều chỉnh đối tượng này trong bối cảnh hội nhập quốc tế
như: khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa...của lực lượng lao động này để
phân biệt với các loại lao động khác, đồng thời làm căn cứ cho việc hoàn
thiện các quy định riêng đối với họ.
+ Phân tích những quy định pháp luật của quốc tế có liên quan đến lao
động chưa thành niên và đối chiếu với quy định trong nước.
+ Xác định các tác động chủ yếu của quá trình hội nhập quốc tế đối
với pháp luật về người lao động chưa thành niên.
+ Đánh giá toàn diện về thực trạng pháp luật đối với người lao động
chưa thành niên ở Việt Nam và chỉ ra những vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung
trong hệ thống pháp luật.
+ Đưa ra những kiến nghị có tính chất giải pháp mang tính pháp lý
nhằm hoàn các quy định hiện hành về người lao động chưa thành niên, đề

xuất thêm một số giải pháp kèm theo luận giải cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật về người lao động chưa thành niên.
7. Ý nghĩa và thực tế của luận văn
Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu là ở chỗ, có thể làm tài liệu tham khảo

8


cho các nhà hoạch định chính sách, chế định pháp luật, cũng như phục vụ
công tác giảng dạy, nghiên cứu và cho tất cả những ai quan tâm đến lao động
chưa thành niên dưới góc độ pháp luật.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về người lao động chưa thành niên ở Việt Nam. Bên cạnh đó, ở
mức độ nhất định, luận văn cũng giúp cho những người hoạt động trong lĩnh
vực lao động, xã hội những kiến thức cần thiết trong thực tiễn áp dụng pháp
luật lao động về người lao động chưa thành niên phù hợp với điều kiện kinh
tế, xã hội Việt Nam, phù hợp với xu hướng chung của quốc tế.
Luận văn cũng có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học luật lao động trong các
trường chuyên luật hoặc các trường có giảng dạy luật lao động. Ngoài ra, luận
văn còn là tài liệu tham khảo cho bất kỳ cá nhân nào quan tâm đến việc bảo
vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về lao động chưa thành niên và pháp luật
lao động chưa thành niên
Chương 2: Thực trạng pháp luật về lao động chưa thành niên hiện nay
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên
và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lao động

chưa thành niên

9


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH
NIÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Khái niệm lao động chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy
đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với
trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người
chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention
on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp
luật với người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for
the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985;
Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành
niên (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/
Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em
(Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15
đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi
(Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên. Trong
số 30 công ước đề cập đến vấn đề lao động trẻ em của tổ chức lao động quốc
tế (viết tắt là ILO) phải đặc biệt quan tâm đến Công ước 138 về độ tuổi lao
động tối thiểu (1973) và Công ước 182 về cấm và hành động ngay lập tức xóa

bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999). Tại Điều 2 Công ước
182 trẻ em được quy định là người dưới 18 tuổi, còn công ước 138 chia nhóm

10


lao động dưới 18 tuổi thành các nhóm nhỏ hơn (nhóm từ 13 đến dưới 15 tuổi,
nhóm từ 15 đến dưới 18 tuổi). Một số quốc gia như Vương quốc Anh,
Malaysia…có quy định người lao động dưới 18 tuổi là lao động trẻ em như
hai công ước trên, tuy nhiên, hầu hết các quốc gia khác như Campuchia,
Pháp…dùng thuật ngữ lao động chưa thành niên để chỉ lao động dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến pháp (mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013), Bộ luật Hình sự năm
2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự,
Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên
là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người
chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Pháp luật Việt Nam công nhận người thành niên là người đủ 18 tuổi trở
lên, khi chưa đủ 18 tuổi tức là người chưa thành niên. Còn khái niệm “trẻ
em ” theo quy định của pháp luật Việt Nam không hoàn toàn trùng với quy định
của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, thì trẻ em theo
quan niệm của Liên hợp quốc (dưới 18 tuổi) tương ứng với khái niệm
“người chưa thành niên” (dưới 18 tuổi) của pháp luật Việt Nam.
Theo Luật trẻ em năm 2016: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Khái
niệm “trẻ em dưới 16 tuổi” không còn giới hạn trẻ em là công dân Việt Nam,
mà đối tượng áp dụng của Luật còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài cư
trú tại việt Nam. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì người chưa thành
niên bao gồm cả trẻ em và người từ trên 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Ngoài ra,
độ tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15

tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30
tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới
tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà
nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt

11


nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã
hội.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng
giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó,
người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành
niên. Vì vậy, có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới
18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Công ước số 138 về Độ tuổi tối thiểu mà Việt Nam đã tham gia năm
2003, quy định các nước thành viên tham gia công ước phải xác định độ tuổi
tối thiểu được đi làm việc hoặc được đi lao động và không một ai ở dưới độ
tuổi tối thiểu đó được đi làm việc hoặc được lao động trong bất cứ nghề nào,
độ tuổi tối thiểu đó không được dưới độ tuổi kết thúc chương trình giáo dục
bắt buộc và bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi.
Tại Điều 6 BLLĐ 2012 của Việt Nam quy định: “người lao động là
người ít nhất đủ 15 tuổi”. Mặt khác, tại khoản 1 Điều 119 quy định “người lao
động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Kết hợp quy định tại
Điều này với quy định tại Điều 6 trên, ta thấy độ tuổi của người lao động chưa
thành niên là từ đủ 15 tuổi cho tới dưới 18 tuổi.Như vậy, có thể thấy pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận người lao động là người ít nhất
đủ 15 tuổi.

Sau đó, năm 2013 Bộ LĐTBXH đã ra thông tư 11/2013/TT- BLĐTBXH
ngày 11/6/2013 quy định danh mục các công việc nhẹ được sử dụng người dưới
15 tuổi làm việc.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về người lao động
chưa thành niên như sau: Người lao động chưa thành niên là người lao động
dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.

12


1.2. Đặc điểm của lao động chưa thành niên
So sánh với người lao động khác, có thể thấy người lao động chưa
thành niên có một số đặc điểm cơ bản như: là người chưa phát triển đầy đủ,
toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ công dân. Đây là lứa tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống còn quá
ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế. Người
lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức độ cao hơn so với
người lao động thành niên; người lao động chưa thành niên bị hạn chế một
phần năng lực hành vi khi giao kết hợp đồng lao động trong những trường
hợp nhất định.
Dựa trên những cơ sở khoa học, người lao động chưa thành niên gồm 2
đặc điểm sau:
1.2.1. Đặc điểm về sinh lý
Ở độ tuổi trẻ em, nhất là giai đoạn từ 13 đến 15-16 tuổi, là giai đoạn có sự
phát triển mang tính đột biến về sinh lý, biểu hiện trẻ phát triển nhanh về chiều
cao và trọng lượng. Cụ thể hệ xương, cơ bắp phát triển mạnh, đặc biệt là xương
tay, xương chân. Các em bắt đầu bước vào tuổi dậy thì (lúc này các em trai có
hiện tượng xuất tinh và các em gái có hiện tượng kinh nguyệt). Ở giai đoạn này,
nếu lao động với cường độ quá sức, hoặc làm việc trong môi trường độc hại,
thiếu vệ sinh đều có thể gây ảnh hưởng xấu tới sự triển cả thể lực và trí lực của

người chưa thành niên. Đây chính là cơ sở để Bộ luật lao động quy định: "Cấm
nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề và công việc do Bộ
lao động-Thương binh và Xã hội quy định" (Điều 120).
Kết quả của các công trình nghiên cứu sự phát triển hình thái thể lực
của trẻ em ở trong nước và thế giới cho thấy: đến tuổi 17, mức tăng trưởng
hàng năm về chiều cao và cân nặng, hai chỉ tiêu đại diện của hình thái thể
lực, giảm tới mức nhỏ nhất (gần bằng 0). Điều đó chứng tỏ ở tuổi 17, sự tăng
trưởng cơ thể rất ít và từ 18 tuổi trở đi, cơ thể bắt đầu ổn định về mặt hình

13


thái thể lực để bước sang tuổi trưởng thành (đối với trẻ em nam muộn hơn
thái thể lực đạt tới mức khá cao và cơ thể bước vào thời kỳ ổn định của tuổi
trưởng thành. Như vậy, ở tuổi này các em đã là người thành niên, có thể tham
gia đầy đủ vào một quan hệ lao động để gánh vác những nghĩa vụ và được
hưởng quyền thực sự và đầy đủ của một người lao động.
1.2.2. Đặc điểm về tâm lý
Do sự phát triển vượt bậc về mặt thể chất, cho nên các e ở lứa tuổi chưa
thành niên thường có những biểu hiện về mặt tâm lý khá phức tạp, đó là:
Giai đoạn này trẻ em rất dễ tưởng mình đã là người lớn, và ý thức về
bản ngã phát triển mạnh mẽ. Đây là một thời kỳ có nhiều biến động nhanh,
mạnh, đột ngột và những đảo lộn cơ bản, các nhà tâm lý thường gọi là giai
đoạn "khủng hoảng lứa tuổi". Các em thường có biểu hiện rõ nét nhất về sự tự
ý thức về cá tính của mình và hình thành“ cái tôi cũng như các phẩm chất tâm
lý độc lập (phẩm chất tâm lý tích cực hoặc tiêu cực). Các em thường thể hiện
tính bồng dũng cảm, mạnh mẽ, muốn mình như người lớn. Ở giai đoạn này,
quan hệ giao tiếp cũng phát triển mạnh, đặc biệt là quan hệ với nhóm bạn, có
thế vượt ra ngoài giới hạn của tuổi học trò, hoạt động có tính độc lập. Những
đặc điểm tâm lý này cũng ảnh hưởng đến khả năng học nghề, khả năng lao

động của các em, nhất là tâm lý " cả thèm, chóng chán", hiếu thắng. Dễ bồng
bột phản ứng lại với người dậy nghề, hoặc người sử dụng lao động, nên dễ bị
coi là bướng bỉnh. Nếu có bị nhắc nhở, kỷ luật thì thường là dễ tự ái, chán
nản, bi quan...Chính vì vậy, Điều 120 của Bộ luật lao động Việt Nam có quy
định: "...Đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi
vào làm việc, học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng những trẻ em
này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu". Cha mẹ
hoặc người đỡ đầu ngoài việc giám sát việc tuân thủ pháp luật cũng góp phần
khuyên nhủ, bảo ban có tính chất cố vấn tinh thần cho các em trong những
trường hợp cần thiết.

14


1.3. Tính tất yếu khách quan phải sử dụng lao động chưa thành niên và
sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa thành niên
1.3.1. Tính tất yếu khách quan phải sử dụng lao động chưa thành niên
Theo quan điểm của một số chuyên gia, nhà tâm lý, nhà sư phạm, trẻ
em tham gia lao động hợp lý có tác dụng phát triển nhân cách của trẻ, góp
phần giúp đỡ gia đình và cộng đồng nơi các em sinh sống. Trẻ em tham gia
lao động, về một khía cạnh nhất định, cũng được coi là một quá trình xã hội
hoá, giúp các em trưởng thành có thêm kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp,
phát triển thể lực, trí lực, chuẩn bị cho cuộc sống ngày mai. Nhất là trrong
hoàn cảnh nước ta, nhìn chung, nền kinh tế vẫn còn kém phát triển, đa số các
gia đình, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa đời sống còn rất
khó khăn, nên việc các em tham gia lao động, dù là gia đình, lao động tự do,
hay trong quan hệ thuê mướn nhằm có thu nhập nuôi sống bản thân hoặc
giúp đỡ gia đình là một thực tế.
Trẻ em kiếm sống là một vấn đề của nhiều quốc gia, nhất là những
quốc gia chậm phát triển. Đói nghèo vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của

lao động trẻ em. Chúng ta kiên quyết tìm mọi biện pháp loại bỏ việc lạm
dụng sức lao động trẻ em, nhưng cũng nhìn nhận rằng, trẻ em lao động là
một vấn đề thực tế. Lao động vừa sức, được tổ chức một cách khoa học là
một trong những hoạt động cần thiết và quan trọng cho sự phát triển các năng
lực, kỹ năng và tri thức ở trẻ em. Lao động còn là con đường, là hình thức xã
hội hoá, qua đó trẻ em dần lĩnh hội các kinh nghiệm cần thiết để trở thành
thành viên của xã hội. Vai trò tích cực của hoạt động lao động đối với quá
trình xã hội hoá cá nhân, đóng góp sản phẩm cho xã hội là không thể phủ
nhận. Vấn đề cần quan tâm là mức độ và cơ chế sử dụng lao động trẻ em cho
hợp lý.

15


1.3.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với lao động chưa thành niên
Người lao động chưa thành niên là người có độ tuổi dưới 18. Ở giai
đoạn này, thể lực và trí lực của họ đang phát triển và chưa ổn định. Người
chưa thành niên tiếp thu công việc nhanh, năng động và sáng tạo trong lao
động song còn thiếu kinh nghiệm sống và làm việc, trình độ nhận thức chưa
toàn diện, thiếu sự kiên trì, dẻo dai, dễ bị tác động bởi môi trường khách
quan. Để bảo vệ và tạo điều kiện cho người chưa thành niên vừa có thể tham
gia quan hệ lao động lại không ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực và trí lực,
Bộ luật Lao động cho phép đối tượng này tham gia vào những quan hệ lao
động phù hợp với sức khỏe và năng lực của họ, đồng thời nghiêm cấm việc
lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên vào làm những công việc
năng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm việc quá sức. Việc cho phép và tạo điều
kiện cho họ tham gia quan hệ lao động là một bước tập dượt về chuyên môn
tay nghề, về ý thức tổ chức kỷ luật trước khi trở thành chủ nhân của xã hội.
Bên cạnh ý nghĩa kinh tế, việc pháp luật có những quy định riêng đối
với lao động chưa thành niên còn thể hiện ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó đặt

người chưa thành niên có vị trí ngang bằng với các chủ thể tham gia quan hệ
lao động khác, từ đó tạo cho các em có cơ hội phái triển ngành nghề, lĩnh vực
công việc mà các em tham gia. Qua đó, thể hiện rõ nét hơn bản chất ưu việt
của chế độ xã hội là đối với những chủ nhân tương lai của đất nước, giúp đỡ
tốt nhất để các em có thể phát triển. Bởi vì phần lớn người chưa thành niên
tham gia quan hệ lao động xuất phát từ hoàn cảnh không bình thường, các em
là đối tượng trẻ em đặc biệt mà Nhà nước ta đã quy định cần bảo vệ, giúp đỡ.
Những quy định này cũng giúp cho các em có cơ hội tìm kiếm việc
làm phù hợp, đồng thời góp phần đào tạo đội ngũ những người lao động có
chuyên môn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước.
Khi các em có việc làm và thu nhập ổn định, thì nguy cơ mắc phải tệ nạn xã
hội của các em cũng giám đáng kể. Nhiều cuộc điều tra, khảo sát về xã hội

16


đối với trẻ em cho thấy đa số những đứa trẻ mắc phải những tệ nạn xã hội,
như: trộm cắp, ma tuý, mại dâm... là do thất nghiệp, không có hoặc không đủ
công ăn việc làm khi không có điều kiện học lên nữa. Tuy nhiên, còn có một
mặt khác, là một số trẻ em có tham gia lao động, nhưng do lao động nặng
nhọc, không được đãi ngộ, không được quản lý cũng dễ mắc các tệ nạn xã
hội, nhất là từ các bãi đào vàng, sa khoáng, nơi thường có môi trường lao
động không trong sạch.
Vì vậy, để thực hiện mục tiêu lâu dài, là tiến tới xoá bỏ các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất cần phải tiến hành đồng thời một loạt các biện pháp như:
xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, giải quyết việc làm, phổ cập giáo
dục cơ sở, chăm sóc sức khoẻ. Trong đó, có việc quy định và thực hiện có hiệu
quả những quy định pháp luật đối với lao động chưa thành niên.
Lao động trẻ em, lao động chưa thành niên vừa là một vấn đề kinh tế - xã
hội, vừa là mội vấn đề chính trị - pháp lý. Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề

lao động của ngườ chưa thành niên được pháp luật Việt Nam quy định một
cách tương đối toàn diện như hiện nay. Điều đó thấm nhuần quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về chăm lo bồi dưỡng thế hệ chủ nhân tương lai
của đất nước. Thể hiện tính khoa học trong việc xây dựng văn bản pháp luật
về lao động, vừa kế thừa, bổ sung những thành tựu trước đó, vừa chuyển hoá,
cập nhật tinh thần các công ước quốc tế mà chúng ta đã tham gia, phê chuẩn.
Những quy định đối với lao động chưa thành niên đã bước đầu tạo
ra khung pháp lý trong việc điều chỉnh quan hệ lao động, trong đó có một bên
là người chưa thành niên. Đối với người sử dụng lao dộng, những quy định
này, cho phép họ có quyền sử dụng lao động trẻ em trong những trường hợp và
tuân theo những điền kiện nhất định, phù hợp với diều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước.
Với tư cách là người lao động thì các em có quyền tham gia vào một quan
hệ lao động phù hợp và được hưởng những thành quả của lao động, được bảo
hộ toàn diện về điều kiện lao động, có cơ sở để đấu tranh, khiếu nại đối

17


với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi quyền lợi bị xâm hại. Đối với
cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của các em, thì có cơ sở pháp lý để có
quyền đồng ý hoặc từ chối khi có con em tham gia lao động, theo dõi và góp
phần bảo vệ các em khi có vi phạm hoặc tranh chấp xảy ra.
Đối với các cơ quan, tổ chức xã hội liên quan đến trẻ em, thì có căn cứ
và cơ sở để tuỳ theo chức năng và nhiệm vụ cụ thể của mình tham gia vào
việc chăm sóc, phát huy khả năng của các em, cũng như ngăn ngừa, xử lý đối
với các hành vi vi phạm trong thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, cũng như
những lĩnh vực khác, pháp luật đối với lao động chưa thành niên cũng như đối
với trẻ em nói chung, cũng cần phải được không ngừng bổ sung, hoàn thiện
cho phù hợp với nhũng thay đổi của cuộc sống, bất cập với những quy định và

thông lệ của quốc tế trong lĩnh vực này.
1.4. Pháp luật quốc tế và Pháp luật của một số quốc gia về lao động chưa
thành niên
Hiện nay, cộng đồng quốc tế và nhiều quốc gia rất coi trọng việc ban
hành pháp luật nhằm kiểm soát, điều chỉnh vấn đề lao động trẻ em, lao động
chưa thành niên. Điều này bảo đảm cho các em có thể tham gia quan hệ lao
động; mặt khác, nó bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho trẻ em. Các văn bản pháp
luật quốc tế đầu liên có liên quan đến lao động trẻ em và quyền trẻ em bắt đầu
có từ những năm đầu thế kỷ 20, gồm những công ước tập trung vào việc bảo
vệ trẻ em khỏi những hình thức bóc lột về kinh tế và tình dục. Tính đến nay,
có khoảng gần 30 Công ước, 14 Khuyến nghị của quốc tế liên quan đến chống
lạm dụng lao động trẻ em.
1.4.1. Pháp luật về lao động chưa thành niên theo quy định của Tổ chức
lao động quốc tế (ILO) và Liên Hiệp quốc
1.4.1.1. Theo quy định của Tổ chức lao động quốc tế
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) từ khi thành lập năm 1919 đến nay đã
thông qua gần 200 công ước và cũng gần 200 khuyến nghị, trong đó có gần
30 công ước đề cập đến việc bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bóc lột và lạm

18


×