Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

skkn phương pháp giải bài tập di truyền quần thể ngẫu phối có tác động của chọn lọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.17 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
TT

Mục

Trang

1

I. Đặt vấn đề.

2

2

2

3

1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

2

5

1.4. Phương pháp nghiên cứu.



2

6

II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

3

11

III. Kết luận và kiến nghị.

9

12

1. Kết luận.

9

13

2. Kiến nghị.


9

7
8
9
10

2

3
3
4
7

1


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài.
Một thực tế đã và đang tồn tại trong quá trình dạy, học, thi đối với bộ
môn Sinh Học là thời lượng chính dành cho việc dạy và học bộ môn ở trên
lớp đang còn quá ít. Trong khi đó quá trình thi, kiểm tra, đánh giá thì thường
đòi hỏi rất cao, yêu cầu học sinh không chỉ nhớ, hiểu, mà còn phải biết vận
dụng kiến thức để giải quyết nhiều tình huống đặt ra, đặc biệt là những tình
huống liên quan đến di truyền. Trong các dạng bài tập di truyền thì bài tập di
truyền dạng quần thể có sự tác động của chọn lọc là một trong những dạng bài
tập khó đối với học sinh. Vì vậy việc hướng dẫn học sinh giải các bài tập di
truyền quần thể dạng có tác động của chọn lọc thường gặp rất nhiều khó khăn.
Những bài tập dạng như thế này thường gây không ít khó khăn cho cả người

dạy và người học: giáo viên thì lúng túng trong việc tìm cách giải cho học
sinh dễ hiểu; học sinh thì lúng túng, khó hiểu nên thường không giải được,
hoặc giải được nhưng phải mất rất nhiều thời gian. Để khắc phục hiện trạng
này, trong quá trình giảng dạy bộ môn tôi đã luôn để tâm tìm kiếm những
phương pháp giải đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng mà hiệu quả lại nhanh và
chính xác nhằm giúp học sinh có thể giải các bài tập di truyền quần thể có tác
động của chọn lọc một cách hứng thú, nhanh gọn, chính xác. Vì vậy tôi đã
quyết định lựa chọn đề tài Phương pháp giải bài tập di truyền quần thể
ngẫu phối có tác động của chọn lọc.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài Phương pháp giải bài tập di truyền quần thể ngẫu phối có
tác động của chọn lọc sẽ giúp giáo viên có giải pháp phù hợp để giúp học sinh
giải quyết những bài tập di truyền quần thể có sự tác động của chọn lọc nhanh
chóng, hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này tập trung nghiên cứu tìm ra phương pháp xác định tần số
alen và tần số kiểu gen của quần thể qua các thế hệ khi có sự tác động của
chọn lọc. Để từ đó có thể giải nhanh các bài tập di truyền quần thể ngẫu phối
có tác động của chọn lọc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp tìm kiếm, thu thập thông tin: Sử dụng công cụ tìm kiếm
trên mạng internet tôi đã tìm kiếm với nhiều từ khóa khác nhau có liên quan
đến đề tài nghiên cứu. Kết quả tìm kiếm cho thấy đã có rất nhiều người quan
tâm đến các dạng bài tập di truyền quần thể, nhưng chưa thấy ai trình bày một
cách hệ thống về phương pháp giải bài tập di truyền quần thể ngẫu phối có tác
động của chọn lọc dưới dạng một sáng kiến kinh nghiệm.

2



Phương pháp kiểm nghiệm: Vận dụng phương pháp giải quyết vấn đề
đã nghiên cứu cho học sinh giải các bài tập thuộc chủ đề ở các nhóm lớp khác
nhau và so sánh với các nhóm lớp không được áp dụng (nhóm lớp đối chứng).
Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng phương pháp thống kê và phầm
mềm excel để xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Theo định luật Hacdy – Vanbec thì tần số alen và tần số kiếu gen của
quần thể ngẫu phối có khuynh hướng duy trì không đổi qua các thế hệ và tạo
thành trạng thái cân bằng di truyền của quần thể. Thế nhưng trạng thái cân
bằng của quần thể chỉ có thể đạt được khi đồng thời thỏa mãn các điều kiện:
số lượng cá thể phải lớn, quần thể phải ngẫu phối, các loại giao tử đều có sức
sống và thụ tinh như nhau, các loại hợp tử đều có sức sống như nhau, không
có đột biến và chọn lọc, không có sự di nhập gen, …
Trên thực tế tần số alen và cấu trúc di truyền của quần thể liên tục thay
đổi qua các thế hệ dưới sự tác động của các nhân tố, đặc biệt là nhân tố chọn
lọc tự nhiên là nhân tố tác động thường xuyên và liên tục.
Mặt chủ yếu của chọn lọc tự nhiên là sự phân hóa khả năng sinh sản tức
là khả năng truyền gen cho thế hệ sau. Khả năng này được đánh giá bằng hiệu
suất sinh sản và được ước lượng bằng con số trung bình của một cá thể trong
một thế hệ. Khi so sánh hiệu suất sinh sản dẫn tới khái niệm giá trị chọn lọc
hay giá trị thích nghi kí hiệu là W phản ánh mức độ sống sót và truyền lại cho
thế hệ sau của một kiểu gen (hoặc của một alen).
Ví dụ: Giả sử một gen có 2 alen A và a. Kiểu hình A- có 100% thế hệ
con sống sót đến tuổi trưởng thành còn kiểu hình lặn aa có 95% thế hệ con
sống đến tuổi trưởng thành thì ta nói giá trị thích nghi của alen A là 100%
(WA = 1) và giá trị thích nghi của các alen a là 95% (Wa= 0,95)
Sự chên lệch giá trị chọn lọc của 2 alen (trội và lặn) dẫn tới khái niệm

hệ số chọn lọc kí hiệu là S. Hệ số chọn lọc phản ánh sự chênh lệch giá trị
thích nghi của 2 alen, phản ánh mức độ ưu thế của các alen với nhau trong
quá trình chọn lọc.
Trong ví dụ trên thì hệ số chọn lọc S = WA – Wa = 1 – 0,95 = 0,05.
- Nếu WA = Wa  S = 0, nghĩa là giá trị thích nghi của alen A và a là
bằng nhau và tần số tương đối của alen A và a trong quần thể sẽ không đổi.
- Nếu WA = 1, Wa = 0  S = 1, nghĩa là các cơ thể có kiểu gen aa bị
đào thải hoàn toàn vì đột biến a gây chết hoặc bất dục (không sinh sản được).
Như vậy giá trị của S càng lớn thì tần số tương đối của các alen biến
đổi càng nhanh hay nói cách khác, giá trị của hệ số chọn lọc (S) phản ánh áp
lực của chọn lọc tự nhiên.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Khi hướng dẫn học sinh giải bài tập di truyền quần thể dạng quần thể
cân bằng và quần thể tự thụ phấn (hoặc tự phối) mà không có sự tác động của
3


các nhân tố khác (đột biến, chọn lọc, di nhập gen, các yếu tố ngẫu nhiên) thì
học sinh tiếp thu và làm rất nhanh vì hai dạng bài tập này đã có công thức
được xây dựng trong sách giáo khoa và ở hầu hết các tài liệu tham khảo đều
đề cập đến. Thế nhưng khi hướng dẫn học sinh giải bài tập di truyền quần thể
dạng ngẫu phối có sự tác động của nhân tố chọn lọc tự nhiên thì hầu hết giáo
viên và học sinh còn băn khoăn, lúng túng do bài tập dạng này chưa có công
thức trong sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo hầu như cũng chưa được
đề cập đến nhiều, do vậy hầu hết các bài tập dạng này học sinh đều không giải
được.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Để giúp học sinh giải được các bài tập di truyền quần thể ngẫu phối có
sự tác động của nhân tố chọn lọc một cách đơn giản, dễ hiểu, chính xác và
nhanh gọn tôi đã nghiên cứu một số tài liệu, đồng thời vận dụng và áp dụng

đối với các đối tượng học sinh các lớp tôi giảng dạy thì tôi nhận thấy với cách
dạy phân loại bài tập, sau đó đưa ra phương pháp giải cho từng loại bài tập thì
tôi nhận thấy học sinh đã vận dụng rất linh hoạt, nhanh chóng và đều giải
quyết được các bài tập trước đó các em luôn coi đó là những bài tập khó. Cụ
thể, tôi đã phân chia thành các trường hợp và xây dựng công thức phù hợp với
từng trường hợp như sau:
Trường hợp 1: Bài tập di truyền quần thể ngẫu phối với trường hợp
kiểu gen đồng hợp lặn bị đào thải hoàn toàn hoặc không có khả năng sinh sản
(hệ số chọn lọc S = 1).
Đối với trường hợp này trước hết tôi thường cung cấp cho học sinh một
công cụ để giải bài tập là công thức xác định tần số của alen lặn sau n thế hệ
q

0
ngẫu phối là q n 1  nq (trong đó q n là tần số của alen a sau n thế hệ ngẫu
0
phối, q0 là tần số của alen a ở thế hệ ban đầu, n là số thế hệ ngẫu phối). Sau đó
tôi đưa ra một số ví dụ để học sinh vận dụng và giải các bài tập.
Ví dụ 1: Ở một loài thực vật giao phấn có gen A quy định khả năng
chịu nặn, alen a quy định khả năng không chịu mặn (hợp tử có kiểu gen aa
không nảy mầm trên đất ngập mặn). Một quần thể ban đầu có 50%AA :
50%Aa. Sau 5 thế hệ giao phấn thì tần số alen A và a của quần thể lần lượt là:
A. 0,875 và ,125.
B. 0,11 và 0,89.
C. 0,125 và 0,875.
D. 0,89 và 0,11.
Giải:
Theo bài ra ta có tần số alen A và a của quần thể ban đầu là:
p0 = 0,5 + 0,5/2 = 0,75; q0 = 0,5/2 = 0,25


q

0
Áp dụng công thức q n 1  nq ta có tần số alen a của quần thể sau 5 thế hệ
0

0,25

giao phấn là: q5 1  5.0,25 0,11 ; p5 = 1 – 0,11 = 0,89.
 Chọn D. 0,89 và 0,11.

4


Ví dụ 2: Một quần thể ngẫu phối ban đầu có tần số a = 0,98. Dưới sự
tác động của chọn lọc chống alen lặn với hệ số chọn lọc đối với kiểu hình lặn
là S = 1 qua một số thế hệ tần số alen a còn lại trong quần thể bằng 0,04.
Quần thể đã trải qua bao nhiêu thế hệ?
Giải: Gọi q0 là tần số của alen a ở thế hệ ban đầu, q n là tần số của alen a ở thế
q0

q0  qn

0,98  0,04

0,94

hệ thứ n. Ta có: qn = 1  nq  n = q .q = 0,98.0,04 = 0,0392 24
0
n 0

Vậy số thế hệ chọn lọc n = 24.
Ví dụ 3: Có một đột biến lặn trên NST thường làm cho mỏ dưới của gà
dài hơn mỏ trên. Những con gà như vậy mổ được rất ít thức ăn nên rất yếu ớt.
Những chủ chăn nuôi thường xuyên phải loại bỏ chúng ra khỏi đàn. Khi cho
giao phối ngẫu nhiên 100 cặp gà bố mẹ có mỏ bình thường, một người chủ
thu được 1500 gà con, trong đó có 15 con gà biểu hiện đột biến trên. Giả xử
không có đột biến mới xảy ra, nếu tiếp tục cho đàn gà ngẫu phối thêm 2 thế hệ
và thực hiện loại bỏ những con gà đột biến nói trên thì tỷ lệ kiểu gen dị hợp
trong quần thể gà nói trên còn bao nhiêu?
Giải:
15
=0,1
1500
q0
0,1
0,08
 Áp dụng công thức: qn =
ta có: q2 =
1  2.0,1
1  nq 0

Theo bài ra ta có: q0 =

 pn = 1 – 0,08 = 0,92
 Tỷ lệ kiểu gen dị hợp trong quần thể sau 2 thế hệ ngấu phối có chọn lọc
tiếp theo là = 2pnqn.100%= 2.0,92.0,08.100% = 14,72%.
Trường hợp 2: Bài tập di truyền quần thể ngẫu phối với trường hợp có
chọn lọc chống alen lặn với hệ số chọn lọc S < 1.
Đối với trường hợp này khi hướng dẫn học sinh làm bài tập tôi phải
hướng dẫn học sinh thực hiện các bước:

Bước 1: Tính lại tần số của các kiểu gen (cấu trúc di truyền của quần
thể) sau khi xảy ra chọn lọc.
Bước 2: Xác định lại tần số alen theo cấu trúc di truyền đã xác định.
Bước 3: Nếu bài toán cho dạng chọn lọc qua nhiều thế hệ thì cứ làm
như vậy cho đến thế hệ bài toán yêu cầu.
Sau khi hướng dẫn các bước thực hiện giải bài toán dạng này tôi lấy
một số ví dụ cụ thể để các em vận dụng và làm theo.
Ví dụ 1: Một quần thể đang ở trạng thái cân bằng về 1 gen có 2 alen A
và a. Trong đó tần số của alen A = 0,4. Nếu quá trình chọn lọc chống alen lặn
xảy ra với hệ số chọn lọc S = 0,05 thì cấu trúc di truyền của quần thể sau một
thế hệ chọn lọc sẽ như thế nào?
Giải:

5


Bước 1: Quần thể cân bằng di truyền nên ta có: tần số của alen a = 1 –
0,4 = 0,6.  Cấu trúc di truyền ban đầu của quần thể là: 0,16AA: 0,48Aa:
0,36aa
Bước 2: Tỷ lệ kiểu gen aa sau chọn lọc là aa = 0,36(1- S) = 0,36(10,05) = 0,342
 Tổng tỷ lệ kiểu gen sau chọn lọc là = 0,16 + 0,48 + 0,342 = 0,982
Vậy cấu trúc di truyền của quần thể khi xảy ra chọn lọc là:
0,16
0,48
0,342
AA :
Aa :
aa  0,163AA : 0,489Aa : 0,348aa
0,982
0,982

0,982

Ví dụ 2: Một quần thể thực vật giao phấn đang ở trạng thái cân bằng di
truyền và có tần số a = 0,6. Giá trị thích nghi của các kiểu gen trong quần thể
là:
Kiểu gen
AA
Aa
aa
Giá trị thích nghi
100%
100%
50%
Hãy xác định tần số alen của quần thể sau một thế hệ chọn lọc?
Giải:
Bước 1: Ta có a = 0,6  A = 0,4  Cấu trúc di truyền của quần thể khi
ở trạng thái cân bằng di truyền là: 0,16AA : 0,48Aa : 0,36aa.
Hệ số chọn lọc đối với kiểu gen aa là S = 0,5  Tỷ lệ kiểu gen aa sau
chọn lọc là 0,36.0,5 = 0,18  Cấu trúc di truyền của quần thể sau chọn lọc là:
0,16
0,48
0,18
AA
:
Aa
:
aa
1  0,36.0,5
1  0,36.0,5
1  0,36.0,5

16
48
18

AA :
Aa : aa
82
82
82

Bước 2:  Tần số alen của quần thể sau khi chọn lọc cũng chính là tần
số alen của quần thể sau 1 thế hệ chọn lọc là: A =
a=

16
48 40
+
=  0,488
82 82.2 82

18 48
42
 0,512
+
=
82 82.2
82

Vậy tần số A = 0,488 và a = 0,512
Trường hợp 3: Bài tập di truyền quần thể ngẫu phối với trường hợp có

áp lực chọn lọc chống alen trội ở thể đồng hợp với hệ số chọn lọc S = 1.
Đối với trường hợp này trước hết tôi thường cung cấp cho học sinh một
công cụ để giải bài tập là công thức xác định tần số của alen trội sau n thế hệ
p

0
ngẫu phối là p n 1  np (trong đó p n là tần số của alen A sau n thế hệ ngẫu
0
phối, p0 là tần số của alen A ở thế hệ ban đầu, n là số thế hệ ngẫu phối). Sau
đó tôi đưa ra một số ví dụ để học sinh vận dụng và giải các bài tập.
Ví dụ 1: Một quần thể ngẫu phối ban đầu có tần số A = 0,7. Dưới sự
tác động của chọn lọc, kiểu gen đồng hợp trội không có khả năng sinh sản.
Các kiểu gen khác sinh sản bình thường. Sau 5 thế hệ ngẫu phối thì tần số
alen A của quần thể là bao nhiêu?

6


Giải:
p

0
Áp dụng công thức p n 1  np thay số vào ta có
0

0,7
p5 
0,156
1  5.0,7


Ví dụ 2: Một quần thể ngẫu phối đang ở trạng thái cân bằng di truyền
có 1000 cá thể, trong đó có 360 cá thể có kiểu gen đồng hợp lặn đã chịu sự tác
động của chọn lọc loại bỏ hoàn toàn các cá thể có kiểu gen đồng hợp trội. Hãy
xác định cấu trúc di truyền của quần thể sau 3 thế hệ chọn lọc?
Giải:
360
= 0,36  q0 = 0,6  p0 = 0,4
1000
p0
0,4
Áp dụng công thức p3 = 1  3 p = 1  3.0,4  0,182; q3 = 1 – p3 = 0,818
0

Theo bài ra ta có: aa =

Quần thể là ngẫu phối nên ta có cấu trúc của quần thể sau 3 thế hệ ngẫu
phối có chọn lọc là:
2 p3 q3
q32
Aa :
aa.  0,494Aa : 0,506aa
2 p3 q3  q32
2 p3 q3  q32

Vậy cấu trúc di truyền của quần thể sau 3 thế hệ chọn lọc là
0,494Aa + 0,506aa = 1
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Với cách làm như trên đã trình bày, khi hướng dẫn cho học sinh, tôi
nhận thấy hầu hết học sinh đều tiếp thu một cách hứng thú, dễ hiểu, áp dụng

để giải các bài tập di truyền quần thể có tác động của chọn lọc một cách
nhanh chóng, chính xác, đặc biệt là các bài tập dạng trắc nghiệm.
Bài kiểm tra để kiểm nghiệm:
Câu 1: Ở một loài lúa có gen A quy định khả năng chịu nặn, alen a không chịu
mặn. Một quần thể ban đầu có 50%AA : 50%Aa. Sau 5 thế hệ giao phấn thì
tần số alen A và a của quần thể lần lượt là:
A. 0,875 và ,125.
B. 0,11 và 0,89.
C. 0,125 và 0,875.
D. 0,89 và 0,11.
Câu 2: Một quần thể ngẫu phối ban đầu có tần số a = 0,98. Dưới sự tác động
của chọn lọc chống alen lặn với hệ số chọn lọc đối với kiểu hình lặn là S = 1
qua một số thế hệ tần số alen a còn lại trong quần thể bằng 0,04. Quần thể đã
trải qua bao nhiêu thế hệ?
A.20.

B.24.

C. 26.

D.28.

Câu 3: Một gen đột biến lặn nằm trên NST thường làm cho mỏ vịt bị dị hình
làm cho vịt không lấy được thức ăn và bị chết. Khi cho giao phối ngẫu nhiên
100 cặp vịt bố mẹ có mỏ bình thường đã thu được 1500 vịt con, trong đó có
15 con vịt biểu hiện đột biến trên. Giả xử không có đột biến mới xảy ra, nếu
7


tiếp tục cho đàn vịt ngẫu phối thêm 2 thế hệ thì tỷ lệ kiểu gen dị hợp trong

quần thể vịt nói trên còn bao nhiêu?
A.12,72%.
B. 14,72%.
C.14,25%.
D.15,75%.
Câu 4: Một quần thể thực vật giao phấn có cấu trúc: 0,16AA : 0,48Aa :
0,36aa. Giá trị thích nghi của các kiểu gen là AA = 100%, Aa = 100%, aa =
50%. Hãy xác định tần số alen của quần thể sau một thế hệ chọn lọc?
A. A=0,5 và a=0,5.
B. A=0,52 và a=0,48.
C. A = 0,488 và a = 0,512.
D. A=0,512 và a=0,488.
Câu 5. Một quần thể ngẫu phối ban đầu có tần số a = 0,3. Dưới sự tác động
của chọn lọc, kiểu gen đồng hợp trội không có khả năng sinh sản. Các kiểu
gen khác sinh sản bình thường. Sau 5 thế hệ ngẫu phối thì tần số alen A của
quần thể là bao nhiêu?
A. 0,5.
B.0,25.
C. 0,125.
D.0,156.
Kết quả làm bài của 2 nhóm học sinh năm học 2013-2014.
Số
Số
Số
Số
Số
Số
học
học
học

học
học
học
sinh
sinh
sinh
sinh
sinh
sinh
đạt 0 đạt 2 đạt 4 đạt 6 đạt 8
điểm điểm điểm điểm điểm
Nhóm nghiên
cứu
Nhóm
đối
chứng

Điểm
trung
bình

45

0

0

5

10


20

10

X =7,6

40

2

10

20

8

0

0

X =3,7

Số
học
sinh
đạt
10
điểm


Điểm
trung
bình

Kết quả làm bài của 2 nhóm học sinh năm học 2014 – 2015.
Số
Số
Số
Số
Số
Số
học
học
học
học
học
học
sinh
sinh
sinh
sinh
sinh
sinh
đạt 0 đạt 2 đạt 4 đạt 6 đạt 8
điểm điểm điểm điểm điểm
Nhóm nghiên
cứu
Nhóm
đối
chứng


Số
học
sinh
đạt
10
điểm

90

0

0

10

25

40

15

X =7,3

42

2

12


18

10

0

0

X =3,7

8


Kết quả làm bài của 2 nhóm học sinh năm học 2016-2017.
Số
Số
Số
Số
Số
Số
học
học
học
học
học
học
sinh
sinh
sinh
sinh

sinh
sinh
đạt 0 đạt 2 đạt 4 đạt 6 đạt 8
điểm điểm điểm điểm điểm
Nhóm nghiên
cứu
Nhóm
đối
chứng

Số
học
sinh
đạt
10
điểm

Điểm
trung
bình

41

0

0

5

10


20

6

X =7,3

37

2

10

17

8

0

0

X =3,7

Số
học
sinh

Số
học
sinh

đạt 0
điểm

Số
học
sinh
đạt 2
điểm

Số
học
sinh
đạt 4
điểm

Số
học
sinh
đạt 6
điểm

Số
học
sinh
đạt 8
điểm

Số
học
sinh

đạt
10
điểm

Điểm
trung
bình

176

0

0

20

45

80

31

X =7,4

119

6

32


55

26

0

0

X =3,7

Tổng hợp chung

Nhóm nghiên
cứu
Nhóm
đối
chứng

III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận.
Bước đầu nghiên cứu, triển khai một số dạng bài tập di truyền quần thể
ngẫu phối có sự tác động của chọn lọc tự nhiên như đã trình bày ở trên đã thu
được kết quả khả quan, có thể áp dụng trên nhiều đối tượng học sinh khác
nhau, đặc biệt là đối tượng học sinh ôn thi đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và ôn thi học sinh giỏi. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến
một số dạng bài tập di truyền quần thể ngẫu phối chó sự tác động của chọn
lọc tự nhiên phổ biến, trên thực tế còn rất nhiều dạng bài tập di truyền quần
thể khác nữa như di truyền quần thể ngẫu phối có sự tác động của các nhân tố
đột biến, các yếu tố ngẫu nhiên, di nhập gen… Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên
cứu, mở rộng phạm vi nghiên cứu cũng như đối tượng áp dụng để đề tài được

hoàn thiện hơn, từ đó có thể triển khai rộng rãi hơn trong đồng nghiệp và đối
tượng học sinh.
2. Kiến nghị và đề xuất.

9


Đối với nhà trường: sưu tầm, bổ sung các đầu sách tham khảo, đặc biệt
là các sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cấp tỉnh thuộc bộ môn Sinh Học vào thư
viện của nhà trường để giáo viên và học sinh có tài liệu tham khảo trong quá
trình giảng dạy và học tập. Có chính sách khuyến khích phong trào viết sáng
kiến kinh nghiệm mạnh hơn nữa.
Đới với Sở giáo dục và đào tạo: nên có chương trình triển khai mở rộng
các điển hình tiên tiến, các sáng kiến kinh nghiệm đã đạt giải qua các năm đến
các trường bằng cách mở các đợt tập huấn vào hè. Xây dựng cơ sở dữ liệu
đồng bộ của ngành trong đó có các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đạt giải qua
các năm để giáo viên có thể tự học hỏi lẫn nhau và nhân rộng các kinh
nghiệm hay trong quá trình giảng dạy.
Thời gian nghiên cứu, triển khai và hoàn thiện đề tài chưa nhiều, đề tài
đang còn nhiều thiếu sót, kính mong quý thầy giáo, cô giáo đọc, tham khảo và
góp ý cho đề tài để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Công Tỉnh


10



×