Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn Giúp học sinh làm tốt bài thi vận dụng kiến thức liên môn tìm hiểu hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến của Quang Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.94 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

STT

Nội dung

Trang

1

I.Phần mở đầu

1

2

1.Lí do chọn đề tài

1

3

2.Mục đích nghiên cứu

2

4

3.Đối tượng nghiên cứu

2



5

4.Pương pháp nghiên cứu

2

6

5.Những điểm mới của sáng kiến

2

7

II.Nội dung

2

8

1.Cơ sở lí luận

2

9

2.Cơ sở thực tiễn

3


10

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3

11

3.1 Tên tình huống

4

12

3.2 Mục tiêu giải quyết tình huống

4

13

3.3 Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết
tình huống

4

14

3.4 Giải pháp giải quyết tình huống


4

15

3.5 Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống

5

16

3.6 Ý nghĩa của tình huống

15

17

4.Hiệu quả của sáng kiến

15

18

III.Phần kết luận và kiến nghị

16

19

1.Kết luận


16

20

2.Kiến nghị

16

1


I.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Thực hiện chủ trương đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục; gắn liền giáo
dục trong nhà trường với thực tiễn cuộc sống; góp phần hình thành năng lực giải
quyết vấn đề của học sinh trung học. Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa liên tục tổ
chức cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn
dành cho học sinh trung học
Cuộc thi nhằm khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức của các môn học,
hoạt động giáo dục khác nhau để giải quyết các tình huống thực tiễn; tăng cường
khả năng vận dụng tổng hợp, khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh;
Thúc đẩy việc gắn kiến thức lý thuyết và thực hành trong nhà trường với
thực tiễn đời sống; đẩy mạnh thực hiện dạy học theo phương châm "học đi đơi với
hành";
Góp phần đổi mới hình thức, phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra,
đánh giá chất lượng giáo dục; thúc đẩy sự tham gia của gia đình, cộng đồng vào
cơng tác giáo dục.
Trong tất cả các mơn học nói chung và mơn ngữ văn nói riêng việc vận dụng
kiến thức liên môn giải quyết các tình huống thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan

trọng, bởi vì mơn Ngữ Văn trước hết là một mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội,
nó có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học
sinh. Mơn Ngữ Văn cịn là một mơn học thuộc nhóm cơng cụ. Điều đó nói lên mối
quan hệ giữa Ngữ Văn và các môn khác. Học môn Ngữ Văn sẽ có tác động tích cực
đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần giúp học tốt
mơn Ngữ Văn. Cho nên tự nó cũng tốt lên u cầu tăng cường tính thực hành
giảm lý thuyết gắn với liền với thực tiễn đời sống.
Hơn nữa, Ngữ Văn cũng là mơn học góp phần hình thành nên những kiến
thức cơ bản và quan trọng nhất là hình thành nhân cách con người, chuẩn bị cho
các em một hành trang để bước vào đời hoặc học lên những bậc học cao hơn. Đó
cũng chính là chiếc chìa khóa mở cửa cho tương lai.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn và đã hướng dẫn học sinh làm
bài dự thi “Vận dụng kiến thức liên mơn giải quyết các tình huống thực tiễn” một
cách hiệu quả. Bản thân tôi xét thấy đây là một cuộc thi thực sự bổ ích, có ý nghĩa
thiết thực, vì vậy tơi mạnh dạn thực hiện đề tài “Giúp học sinh làm tốt bài thi Vận
dụng kiến thức liên mơn để tìm hiểu hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến
của Quang Dũng”
2.Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi sáng kiến tôi chỉ đi sâu hướng dẫn học sinh làm tốt bài dự thi
“Giúp học sinh làm tốt bài thi Vận dụng kiến thức liên mơn để tìm hiểu hình tượng
người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng” với mục đích:
2


-Học sinh biết cách làm bài một cách hiệu quả.
-Hiểu được sự vận dụng kiến thức liên môn như: Địa lí, lịch sử có một vai trị hết
sức quan trọng giúp các em hiểu sâu sắc và toàn diện hơn hình tượng người lính
trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi học sinh lớp 12 trường THPT Đinh

Chương Dương
4.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tổng kết lí luận, thực tiễn.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.
- Phương pháp phân tích, bình giảng
5. Những điểm mới của sáng kiến
- Trong phạm vi sáng kiến này, tôi chỉ đề xuất kinh nghiệm hướng dẫn học sinh làm
tốt bài dự thi “Giúp học sinh làm tốt bài thi Vận dụng kiến thức liên môn để tìm
hiểu hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng”
+ Giúp học sinh xác định được các đơn vị kiến thức về lịch sử, địa lí có thể vận
dụng trong bài làm.
+ Học sinh có thể viết một bài văn cụ thể, chi tiết.
II. NỘI DUNG
1.Cơ sở lí luận
Trong q trình hướng dẫn học sinh giải quyết một vấn đề trong thực tiễn
của môn học, bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến môn ngữ văn, đòi hỏi học
sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học như địa lí, lịch
sử, Giáo dục cơng dân, Quốc phịng... có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ
được kiến thức.
Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn ở tất cả
các mơn học nói chung và ở mơn ngữ văn nói riêng là giáo dục rèn kỹ năng cho học
sinh phát triển những năng lực cần thiết nhằm giải quyết các vấn đề trong thực tiễn.
Từ đó góp phần nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những con người có
đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại.
Đồng thời nắm được mối quan hệ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội
về kiến thức liên mơn u thích hứng thú với môn học.
Qua cuộc thi này tôi đã tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kỹ
năng học được cho q trình học tập các mơn học để áp dụng vào giải quyết các
tình huống thự tiễn trong môn ngữ văn một cách hiệu quả.


3


Học sinh sẽ tự xác định được các tình huống mà bản thân có thể vận dụng
kiến thức thuộc các môn học khác để giải quyết một cách hiệu quả
Trên thực tế môn ngữ văn từ lớp 10 đến lớp 12 tình huống thực tiễn nào cũng có thể
áp dụng kiến thực liên môn để giải quyết. Tuy nhiên trong phạm vi đề tài tôi chỉ đi
sâu hướng dẫn học sinh giải quyết tốt tình huống thực tiễn trong bài thơ Tây Tiến
của Quang Dũng.
2. Cơ sở thực tiễn.
Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn tại trường THPT, tôi đã nhiều lần hướng
dẫn học sinh làm bài thi “Vận dụng kiến thức liên mơn để giải quyết các tình huống
thực tiễn dành cho học sinh trung học” một cách hiệu quả.
Cụ thể trong 4 năm học có được những kết quả như sau:
Năm học 2014-2015 Tôi gửi 2 sản phẩm của hai em học sinh, kết quả: em Lê
thị Phương Thảo đạt giải Khuyến khích với đề tài “Tư tưởng nhân nghĩa trong bài
Đại Cáo bình Ngơ của Nguyễn Trãi”; em Trần Thị Thu Hằng đạt giải Ba với đề tài
“Chủ nghĩa yêu nước trong bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi”.
Năm học 2015-2016 Tôi gửi 2 sản phẩm của hai em học sinh, kết quả: Em
Vũ Thị Minh đạt giải Ba với đề tài “Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu” và em Vũ Thị Lan đại giải Nhì
với đề tài “Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng”
Năm học 2016-2017 Tôi gửi 2 sản phẩm của hai em học sinh, kết quả: Em Lê
Thị Phương Thảo đạt giải Nhì với đề tài “Nghệ thuật lập luận trong bài Tuyên ngôn
Độc lập của Hồ Chí Minh” và Vũ Thị Lan giải khuyến khích với đề tài “Việt Bắc”–
khúc ân tình của những người kháng chiến.
Năm học 2017-2018 Có sản phẩm của em Bùi NGọc Nam đạt giải khuyến
khích với đề tài “Hào khí Đơng A trong bài thơ Tỏ lịng của Phạm Ngũ Lão”
Trải qua thực tế mấy năm hướng dẫn học sinh tham gia làm bài thi “Vận

dụng kiến thức liên mơn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh
trung học” một cách tương đối hiệu quả, tôi quyết định viết sáng kiến kinh nghiệm
với đề tài “Giúp học sinh làm tốt bài thi Vận dụng kiến thức liên mơn để tìm hiểu
hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng” đề xuất một vài
kinh nghiệm bản thân mà tôi nhận thấy đã thu được kết quả khá cao, muốn tiếp thu
bày tỏ và chia sẻ với đồng nghiệp tham khảo và tiếp tục góp ý góp phần nâng cao
hơn nữa chất lượng cuộc thi cho những năm học sau.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong quá trình hướng dẫn học sinh làm bài thi, đã mang lại cho các em
nhiều kinh nghiệm áp dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn
thật sự hiệu quả. Bên cạnh đó vai trị của giáo viên trong việc định hướng và hướng
dẫn học sinh làm bài cũng vô cùng cần thiết.
Để hướng dẫn học sinh làm bài thi “Giúp học sinh làm tốt bài thi Vận dụng
kiến thức liên mơn để tìm hiểu hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng” thật tốt và có hiệu quả, cá nhân tơi xin mạnh dạn đưa ra một số giải
4


pháp đã và đang tiến hành tại trường. Đặc biệt là đối với đối tượng học sinh khối
10,11 và 12 tôi nhận thấy là tượng đối phù hợp cụ thể là:
- Giúp học sinh lựa chọn tình huống thực tiễn trong mơn văn một cách phù hợp:
Tình huống đặt ra là tình huống thực tiễn; gần gũi, thiết thực; có thể giải quyết
được bằng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của học sinh.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài thi phải định hướng cho các em theo những
nội dung của cuộc thi, học sinh phát hiện vấn đề và đưa ra giải pháp để giải quyết
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
- Định hướng làm bài thi cho học sinh phải phù hợp với đặc thù, đặc trưng kiến
thức của từng bài, đặc biệt trong bài thơ Ttây Tiến mà đòi hỏi ta phải biết lựa chọn,
cân nhắc để thiết kế sao cho phù hợp, vẫn đảm bảo được tính quy phạm, tính khoa
học và phát huy, kích thích được hứng thú học tập, hứng thú làm bài thi của các em.

- Kết hợp với các thầy cô giáo bộ môn đang trực tiếp giảng dạy các em, để các thầy
cô giúp đỡ, tư vấn những vấn đề khi làm bài thi khi các em cịn gặp khó khăn
Tôi đưa ra cấu trúc bài viết dự thi “Vận dụng kiến thức liên mơn để tìm hiểu hình
tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng”như sau:
3.1.Tên tình huống: Vận dụng kiến thức mơn ngữ văn, lịch sử và địa lí để tìm
hiểu về hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
3.2.Mục tiêu giải quyết tình huống
+Kiến thức:
-Giúp các học sinh nắm giữ được bài học trên lớp cũng như việc vận dụng từ bài
học vào thực tế cuộc sống.
- Hiểu biết hình ảnh người lính kiên cường anh dũng trong những năm đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp và những địa danh, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây
Tiến đã đi qua.
+ Kĩ năng:
- Vận dụng kiến thức lịch sử địa lý cùng với các thao tác lập luận, phân tích, bình
luận trong văn học để làm sáng tỏ tình huống
3.3.Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống
- Dẫn chứng từ thực tế, sách báo, văn bản Tây Tiến trong sách giáo khoa ngữ văn
12 tập 1
3.4.Giải pháp giải quyết tình huống
- Trước khi đến lớp cần đọc và tìm hiểu kĩ về tác phẩm
- Sưu tầm tài liệu có liên quan trong các bài học cần sử dụng
- Lấy dẫn chứng hình ảnh cụ thể
- Sau các giờ học, cần tóm tắt ngắn gọn nội dug bài học
3.5.Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống
5


Thơ ca viết viết về hình ảnh người lính chiếm 1 phần quan trọng trong nền văn
học Việt Nam. Một loạt những bài thơ hay có giá trị vượt thời gian và không gian

đã ra đời vào giai đoạn này, nhất là năm 1948 như “đồng chí” của Chính Hữu,
“Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi, “Bên kia sơng
Đuống” của Hồng Cầm, “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan,.. Mỗi bài thơ mang
một sắc thái riêng, khắc sâu hình ảnh người lính và làm phong phú vườn hoa văn
học nước nhà. Giữa rất nhiều bài thơ, “Tây Tiến” của Quang Dũng được đánh giá
là “đứa con đầu lịng hào hoa, tráng kiện khơng chỉ riêng ơng mà là của cả nền thơ
ca kháng chiến ở vị trí mở đầu, ít có bài thơ nào thay thế được và cũng khơng ai
ghen tị với nó”
“Tây Tiến” ra đời trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đó là những năm
tháng không thể nào quên của dân tộc ta. Những năm tháng đau thương mất mát, hy
sinh nhưng cũng đầy kiêu hùng, anh dũng.
Mặc dù đã kí hiệp định Sơ bộ ngày 6-3 và Tạm ước ngày 14-9-1946 về phía
ta, ta đã chấp hành nghiêm chỉnh những điều khoản hai bên đã thoả thuận kiên trì
đấu tranh hồ bình, tích cực chuẩn bị lực lượng đương đầu với Pháp. Nhưng về
phía Pháp với dã tâm xâm lược nước ta lần nữa, Pháp trắng trợn xoá bỏ hiệp định
Sơ bộ và Tạm ước, bội ước với những điều đã kí kết. Chúng cho quân tăng cường
khiêu khích, xung đột ta. Trước tình thế khẩn cấp địi hỏi Đảng và Chính phủ ta
phải có quyết định kịp thời. Ngày 12-12-1946, Ban thường vụ trung ương Đảng ra
chỉ thị “toàn dân kháng chiên”. Đáp lại tối hậu thư của Pháp, trong hai ngày 18 và
19 tháng 12 năm 1946, Hội nghị bất thường ban thường vụ trung ương đảng cộng
sản Đông Dương mở rộng, họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) đã quyết định phát động cả
nước kháng chiến. Khoảng 20 giờ ngày 19-12-1946, công nhân nhà máy Yên Phụ
(Hà Nội) phá máy, cả thành phố mất điện là tín hiệu tiến cơng. “Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến” và tác phẩm “kháng chiến nhất định thắng lợi” của tổng bí thư
Trường Trinh là những văn kiện lịch sử quan trọng về đường lối kháng chiến, nêu
rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp. Đó là kháng chiến tồn dân, tồn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và
tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Mở đầu là cuộc chiến đấu ở các đô thị vĩ tuyến 16
quân ta đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, phá vỡ
âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân pháp.

Sau khi rút khỏi các đơ thị an tồn, đảng ta nhận định Bắc Bộ sẽ là chiến trường
chính, Pháp sẽ mở đợt tấn cơng mới có thể là đồng bằng Bắc Bộ hoặc lên Việt Bắc.
Tháng 3-1947, Chính phủ Pháp cử Boolae làm cao uỷ Pháp ở Đông Dương thay
Đác Giang-li ơ, thực hiện kế hoạch tiến công cwn cứ địa Việt Bắc nhằm nhanh
chóng kết thúc chiến trang. Nghiên cứu thế lực giữa ta và địch, quân ta đã tiến hành
tiêu diệt đich trên ba mặt trận. Đó là ở Bắc Cạn, mặt trận hướng đông và mặt trận
hướng tây. Sau hơn 2 tháng, cuộc chiến đấu giữa ta và địch kết thúc bằng cuộc rút
chạy của đại bộ phận quân Pháp vào ngày 19-12-1947.
6


Tây Tiến là binh đoàn chủ lực của quân đội ta được thành lập vào thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhằm mở rộng cuộc hành quân lên miền
Tây Bắc phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt-Lào và đánh tiêu hao lực
lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc bắc bộ Việt Nam.
Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La,
Lai Châu, Hồ Bình, miền Tây Thanh Hố và Sầm Nưa của Lào. Chiến sĩ Tây Tiến
phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên và Quang
Dũng là đại đội trưởng. Họ chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn về vật
chất, bệnh sốt rét rừng hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống trong lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm.
Xuyên suốt toàn bộ bài thơ, Quang Dũng đã khắc hoạ thành cơng hình tượng
người lĩnh Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, mỹ lệ miền Tây.
Mở đầu bài thơ là bức tranh khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ dữ dội và
những bước hành qn gian khổ của đồn qn Tây Tiến, Đó là nỗi nhớ đầy xúc
động bao trùm lên cả không gian và thời gian. Nỗi nhớ dường như đang nén chặt
bỗng dâng trào khiến cho tất cả kỉ niệm xôn xao trở về ngược cả tâm hồn.
Hai câu thơ mở đầu là tiếng gọi gửi vào trong gió, trong khơng gian đến những
chân trời xa vời, những người mà mình u thương, với miền đất, con sơng mà
mình gắn bó biết bao kỉ niệm vơi đầy.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Có những dịng sơng đi vào thơ ca và với Quang Dũng đó là dịng sơng Mã.
Sơng Mã là một con sơng chảy trên lãnh thổ Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km.
Trong đó lãn thổ Việt Nam là 410 km. Sơng Mã có hai nguồn chính. Nguồn thứ
nhất là từ phía nam tỉnh Điện Biên chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, qua
huyện sông Mã của tỉnh Sơn La. Nguồn thứ hai bắt nguồn từ Bumbasao. Hai nguồn
này đều đổ vào Thanh hoá đi qua địa phận tỉnh Sầm Nưa của Lào. Trên lãnh thổ
Việt Nam, sông Mã bắt nguồn từ Lai Châu cuồn cuộn chảy vào Sơn La và Thanh
Hố rồi xi về biển cả. Sơng Mã uốn khúc qua những bản làng, thơn xóm ViệtLào. Dịng sơng phản chiếu lên miền đất núi rừng nơi bước chân người lính từng đi
qua, là nơi khởi nguồn nỗi nhớ. Con sông đã chứng kiến biết bao vui buồn của cuộc
đời chiến binh. Thế mà “sông Mã xa rồi” núi non sông nước trùng điệp ngày nào
giờ đã xa rồi chỉ cịn trong kí ức mãnh liệt của tấm lịng người lính. “Tây Tiến ơi”
ba từ đơn giản nhưng thiết tha làm chao đảo lịng người. Vì trong tiếng gọi thân
thiết ấy như ẩn chứa nỗi bâng khuâng tiếc nuối. Sau tiếng gọi thân thương ấy là một
nỗi nhớ chồng chất được nhân lên với lối sử dụng từ “nhớ”, “nhớ chơi vơi”, “nhớ
về” nỗi nhớ có độ lùi về thời gian vì bấy giờ tất cả đã xa chỉ cịn lại những kỉ niệm
trong kí ức. “nhớ chơi vơi” đó là cách dùng từ độc đáo của Quang Dũng. Trong văn
học đã có rất nhiều câu ca dao thể hiện nỗi nhớ như:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
7


Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Hay trong thơ Tố Hữu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
“nhớ chơi vơi” diễn tả nỗi nhớ khó định hình, nỗi nhớ lên cao bồng bềnh, có sức
lan toả vang ngân. Cũng ở câu thơ này, nhà thơ đã tỏ ra rất tài hoa khi lặp lại ba lần
âm “ơi” đó là âm mở, lại là thanh bằng tạo nên âm hưởng vang vọng ngân nga.
Dường như tiếng vọng ấy đang vọng ra từ nỗi nhớ, từ lớp sương mù của kí ức tạo

thành nỗi nhớ chơi vơi- một nỗi nhớ khơng định hình, khơng có trọng lượng, nghe
nhẹ xênh mà có sức ám ảnh lòng thi sĩ. Trong ca dao ta cũng bắt gặp một nỗi nhớ
đặc biệt như vậy.
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nếu như hai câu thơ đầu của nhà thơ thể hiện nỗi nhớ chơi vơi khi nhắc đến
sông Mã thì đến những câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ mãnh liệt có khả năng tái hiện
quá khứ ngày càng rõ nét với một vung không gian xa xôi, sự nhớ nhung được
chuyển đến những địa điểm cụ thể, những địa danh với những kỉ niệm khó phai
nhồ.
“ Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
“Sài Khao” là tên một bản thuộc vùng núi Tây Bắc ở độ cao 1500 m. Bản Sài Khao
gần như cơ lập với thế giới bên ngồi bởi khơng có điện lưới, khơng có đường xe đi
chỉ có những con đường nhỏ xíu nằm cắt ngang lưng chừng đèo, một bên là vách
núi dựng đứng, môt bên là vực thẳm. Cũng như Sài Khao, Mường Lát là một địa
danh thuộc địa bàn hoạt động của đoàn quân. Là một huyện thuộc biên giới phía
Tây Thanh Hố, nơi đây địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt nên được mệnh
danh là vùng “ma thiêng nước độc”. Nhắc đến Sài Khao, Mường Lát, hai cái địa
danh ấy gợi cho người đọc hướng về một miền đất xa xôi, hoang dã, mới nghe mà
đã thấy chồn chân, mỏi gối. Đồng thời cũng qua những địa danh ấy người đọc cũng
thấy những con đường hành quân, địa bàn hoạt động của đoàn quân đầy gian lao,
khắc khổ. Chính vì những tên đất, tên địa danh ấy gắn với những kỉ niệm thời trai
trẻ. Giờ đây, mỗi địa danh đã trở thành kì vọng của quá khứ, không khác nào một
nốt nhạc trong bản hợp xướng tâm hồn, ngân vang nỗi nhớ, thức gợi bao kỉ niệm.
Nhớ đến Sài Khao là nhớ đến vực sương dày “sài khao sương lấp”. Đó là nét hiện
thực nói về vùng núi Tây Bắc hoang sơ, hiểm trở. Khí hậu khắc nghiệt với những
ngày sương đêm hơi, sương khói dày đặc. “Đoàn quân mỏi” cũng là một nét bi
quan bởi dường như thiên nhiên đang lấn át con người. Nhưng hình ảnh trong câu
thơ sau kết cấu hồn tồn thanh bằng “hoa về trong đêm hơi” tạo cảm giác thăng
bằng trong tâm trí người đọc và tái hiện vẻ đẹp hư ảo mộng mơ của những đêm

Mường Lát. Thể hiện một cái nhìn tồn diện về núi rừng Tây Bắc hoang dại hùng
vĩ nhưng thơ mộng lãng mạn. Hình ảnh “hoa” rất độc đáo, không phải là “hoa nở”
8


mà là “hoa về”, không phải là “đêm sương” mà là “đêm khơi”. Tố Hữu cũng có
câu:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Hay Chế Lan Viên”
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Thiên nhiên gắn bó với người lính và nó đã trở thành từng kí ức khó phai. Đó là
một đêm sương với hương rừng lan toả. Cho dù người lính phải trải qua bao gian
lao vất vả, nhưng cảnh vẫn hiện lên trước mắt người chiến sĩ hết sức đẹp đẽ và đầy
chất thơ.
Nhớ về Tây Tiến không chỉ nhớ về đêm mộng đêm mơ mà còn nhớ đến một
mảnh đất anh hùng dữ dội.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Câu thơ của Quang Dũng như gợi ta nhớ đến câu thơ của của đại thi hào Nguyễn
Du cách đây mấy trăm năm về trước.
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
Nếu như Nguyễn Du dùng âm điệu trục trắc trong câu thơi ngam dự báo số phận
lênh đênh trôi dạt đầy bi thảm của nàng kiều thì Quang Dũng ở bài thơ này lại sử
dụng thanh trắc kết hợp với điệp từ “dốc” qua hai câu thơ gây ấn tượng về hình dốc
và dốc. Các từ láy “khúc khuỷu” , “thăm thẳm”, “heo hút” có khả năng tăng lên gấp
bội sự trắc trở, khó khăn của địa bàn nơi núi rừng biên cương. Dốc lên thì ngoằn
nghèo, khúc khuỷu, dốc xuống thì thăm thẳm heo hút như đổ xuống vực sâu.
Nguyễn Đăng Mạnh có nhận xét: “câu thơ đọc lên nghe ngọt ngào như tiếng thơ
nặng nhọc của người lính hành quân”. Bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện lên bằng
những hình ảnh độc đáo.

Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Nói về độ cao từ “heo hút” đã thể hiện được cảm giác thực sự khi người lính trên
những đỉnh núi quanh năm mây phủ với những cồn mây nổi lên cuồn cuộn, không
gian như được mở rộng thêm. Như vậy chỉ bằng hai câu thơ, nhà thơ đã dựng lên
một không gian ba chiều với những đường nét chạm khắc gân guốc, rắn rỏi tái hiện
được cảnh núi rừng Tây Bắc dữ dội. Cảnh sắc như muốn xố đi hình bóng con
người vậy mà cuối câu thơ bỗng xuất hiện hình ảnh “súng ngửi trời”. Đó là một
cách nói tinh nghịch đầy chất lính vừa thể hiện độ cao núi rừng, vừa thể hiện tư thế
oai phong lẫm liệt của người lính. Ta lại bắt gặp câu thơ trong “Đồng chí” của
Chính Hữu.
Đầu súng trăng treo
9


Với Chính Hữu đó là ánh trăng được treo trên đầu ngọn súng. Dù hồn cảnh có
khó khăn khắc nghiệt, người lính vẫn ln giữ chắc tay súng để bảo vệ sự bình n
cho tổ quốc. Cịn với Quang Dũng, cái đặc sắc của câu thơ này là khơng nói đến
người lính mà vẫn thấy sự hiện hữu của các anh. Khơng nhắc đến tư thế đứng của
người lính mà vẫn thấy dáng đứng hiên ngang lồng lộng của người lính. Có lẽ các
anh đã vượt qua những con dốc gập ghềnh, khúc khuỷu và đang đứng trên đỉnh núi
với tư thế hiên ngang chinh phục thiên nhiên. Dáng điệu này của người lính ta cũng
đã từng bắt gặp trong bài “Lên Tây Bắc” của Tố Hữu.
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiêu
Bóng dài trên đỉnh dốc treo leo
Núi khơng đè nổi vai vương tới
Lá nguỵ trang gieo với gió đèo
Trở lại với hình ảnh của Quang Dũng ta thấy người lính Tây Tiến được chạm khắc
giữa đất trời bởi những nét điêu khắc, góc cạnh hưng cúng đầy hóm hỉnh chất lính.
Hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã tô đậm thêm con đường Tây Tiến dữ dội và vẻ
đẹp tâm hồn mộng mơ của người lính.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sự kì vĩ dữ dội của núi rừng biên giới Việt-Lào. Điệp từ “ngàn thước” lặp lại qua
hai vế thơ kết hợp với từ chỉ hướng “lên, xuống” đem đến cho người đọc hình ảnh
con dốc đột ngột dựng lên trời rồi đột ngột hạ xuống bất ngờ. Địa hình gãy gấp như
làm gẫy cả câu thơ. Nó như mở ra một không gian từ trên xuống như từ dưới lên
thật hùng vĩ. Đối lập cụ thể hoá độ cao vun vút, chót vót rồi đổ xuống thăm thẳm
với ngàn lũng sâu. Thiên nhiên ở đây như thử thách bước tiến của đoàn quân. Sau
khung cảnh hùng vĩ dữ dội là một câu thơ trầm lắng với thanh bằng. “Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi” Câu thơ tạo ra một cảm giác mới lạ, thi vị. “Nhà ai” một ngôi
nhà không xác định, nhạt nhồ trong mưa. “Pha Lng” là tên một đỉnh núi cao
nhất Thanh Hoá, cao 1507 m so với mặt nức biển. Đỉnh Pha Luông thường hiện ra
mờ ảo trong sương núi. “Mưa xa khơi” những cơn mưa bất chợt làm xoá đi đường
rừng nét núi để chỉ cịn lại biển, mây trời mênh mơng bát ngát. Tạo nên một bức
tranh thiên nhiên hư ảo thơ mộng thể hiện tâm hồn lãng mạn bay bổng của người
lính. Người lính cảm thấy như tâm hồn êm dịu hơn sau những chặng đường hành
quân vất vả.
Nếu nhữn câu thơ trên Quang Dũng nhớ đến thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội
nên thơ thì đến những câu thơ tiếp theo thi nhân lại tái hiện lại hiện thực khắc
nghiệt mà người lính đã trải qua.
Anh bạn dãi dầu khơng bước nữa
10


Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Đã có rất nhiều cách gọi khác nhau khi nói về những người chung một lí tưởng,
một chiến hào như: đồng chí, đồng đội, anh với tôi,… nhưng cách gọi “anh bạn” là
một cách gọi thân thương. “dãi dầu” người lính đã phải chịu quá nhiều mưa nắng,
thiếu thốn, vất vả làm cho người lính tưởng như kiệt sức. Con đường hành quân
vượt qua bao gian lao thử thách bởi thế một phút dừng chân với họ là đáng quý vô

cùng. “Gục” đem lại cho câu thơ một ấn tượng năng nề, người lính dường như bất
lực trước hiện thực đầy gian khổ khó có thể hiểu gục là thiếp đi hay ngủ quên hay
cũng có thể hiểu là sự hy sinh của người lính dã từ đồng đội để ra đi. Ngịi bút của
Quang Dũng không hề né tránh sự mất mát, không dấu diếm nỗi đau thương nhưng
vẫn đậm chất bi tráng, hào hùng.
Để tơ đậm thiên nhiên hoang dã bí ẩn, tác giả khơng qn khắc hoạ sự ghê rợn
đầy bí ẩn của chốn rừng thiêng.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên dưới ngòi bút Quang Dũng thật dữ dội, bí ẩn và
hoang sơ, lưỡi hái của thần chết rình rập người lính từ mọi phía. Có khi từ âm thanh
của tiếng thác đổ ào ạt, tiếng cọp gầm bí hiểm giữa rừng khuya tạo nên tiếng vọng
dữ dội khủng khiếp. Cái khoảng khắc khủng khiếp ấy không chỉ diễn ra một ngày,
một thời gian nhất định mà là “chiều chiều, đêm đêm” đã tạo một cảm giác thật rõ
về những điều bí ẩn ở vùng đất hoang vu này. Bóng chiều đổ xuống bóng đêm,
trùm lên càng tăng vẻ đẹp hoang vu bí ẩn. Đe doạ người lính khơng chỉ có đói rét
qn thù bệnh tật mà cịn là sự rùng rợn ghê gớm của chốn sơn lâm. Âm điệu thơ
của Quang Dũng như đang gõ lên dây thần kinh độc giả dữ dội, hiểm nguy man dại,
ấy thế mà ta vẫn thấy tính cách cứng cỏi kiên định của người lính “cọp trêu người”.
Qua đấy câu thơ ca ngợi người lính Tây Tiến trong q trình đối mặt với thiên
nhiên hùng vĩ dữ dội.
Hai câu thơ tiếp theo mạch thơ đột ngột biến đổi. Các câu thơ trước là khung
cảnh núi rừng, mưa sương lạnh lẽo thì đến hai câu thơ này lại tràn đầy sự ấm áp của
tình người.
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp sơi
Ba thanh trắc “nhớ, Tiến, khói” cách nhau đều đặn không phải là ngẫu nhiên mà là
dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. “Nhớ ơi” đó là giọng điệu của hồn thơ tha thiết, nỗi
nhớ như đang dâng trào trong lòng tác giả khi nhớ về “cơm lên khói”. Nó mang lại
cảm giác đầy ấm áp tình người. Mai Châu là một huyện thuộc địa bàn hoạt động

của đoàn quân. Ở độ cao từ 200 đến 1500 m vẻn vẹn có vài chục nóc nhà phần lớn
là dân tộc Thái. Đồng bào ở đây đã cưu mang cách mạng, cưu mang những người
lính. Câu thơ nói đến mùi thơm nếp xôi, cũng là mùi thơm của hương vị tình người
11


ấm áp nơi đây gợi cảm giác thân thương ấm cúng. Sau khi vượt qua bao rừng sâu
vực thẳm, người lính bắt gặp làn khói nơi bếp lửa, cơ gái như bông hoa rừng với
bát xôi thơm mùi nếp mới ấm áp tình người xua tan đi những nhọc nhằn gian khổ
khốc liệt.
Trong khổ thơ tiếp theo, mô tuýp về sương khói chỉ cịn lại rất ít. Tất cả đề ấm
lại. Giờ đây là ánh sáng, là ngọn lửa, là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân và bức
tranh chiều sương Châu Mộc thơ mộng trữ tình.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
Ta vẫn thấy Quang Dũng nhớ đến nơi trung đồn đã dừng chân mà hình ảnh đốm
lửa đêm rừng gợi lên cảm giác thật ấm áp. Một đêm liên hoan văn nghệ giữa các
chàng trai Tây Tiến với đồng bào địa phương. Buổi văn nghệ dưới con mắt của
chàng trai Hà Thành đã trở thành ngày hội tưng bừng huyền ảo “bừng” thể hiện
cảm xúc dào dạt, phấn chấn, diễn tả ánh sáng đột ngột truyền toả mạnh mẽ, xua tan
trong đêm hoang vu tĩnh mịch nơi núi rừng. Đó khơng chỉ là ánh sáng của ngọn lửa
hồng lên mà đó cịn là sự bừng sáng trong tâm hồn, niềm vui rạng rỡ trong đêm hội.
“ Hội đuốc hoa” vừa cho ta thấy cái hào hoa trong ngòi bút của Quang Dũng, vừa là
cách nói làm đẹp cho những đêm đốt lửa rừng, liên hoan văn nghệ trong doanh trại
xua tan đi những tối tăm lạnh lẽo của núi rừng dưới cái nhìn của tâm hồn hào hoa
đa tình. Những ánh lửa bập bùng của đêm đốt lửa trại đã trở thành đêm hội đuốc
hoa.
Hình ảnh gây ấn tượng nhất là hình ảnh cơ gái miền Tây Bắc lộng lẫy trong trang

phục độc đáo của ngày hội. “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Hai chữ “kìa em” đứng ở
đầu câu mang giọng điệu ngỡ ngàng trìu mến thốt lên đầy thú vị. “e ấp” một vẻ đẹp
dịu dàng kín đáo. Người lính ngỡ ngàng ngất ngây say đắm trước vẻ đẹp đầy quyến
rũ và rất tình tứ của người sơn nữ. Dường như sự khốc liệt dự dội của chiến tranh
đã lắng xuống chỉ còn lại nét bay bổng lãng mạn trong tâm hồn người lính. Người
lính khơng chỉ ngạc nhiên trước vẻ đẹp “xiêm áo” của em mà còn ngỡ ngàng trước
chiếc khèn man điệu. Khèn là một loại nhạc cụ quen thuộc của dân tộc vùng núi
phía Bắc Việt Nam. Quang Dũng dùng hai từ “man điệu” để miêu tả tiếng khèn,
tiếng nhạc thật là đắc địa. Âm thanh réo rắt của tiếng khèn, điệu múa độc đáo trong
dáng điệu e ấp uyển chuyển của người lính thốt lên tiếng gọi đầy hân hoan ngưỡng
mộ. Họ hướng về vùng đất xa xôi trong phút chốc, những nhọc nhằn gian khổ được
đẩy lùi. Nó có thể cho người đọc liên tưởng đến vũ điệu sơn nữ nhưng cũng có thể
là giai điệu vùng đất lạ đầy bí ẩn, quyến rũ. Như vậy, ở đoạn thơ này, người lính đã
nhìn ngắm lắng nghe để rồi tất cả những cảm xúc ấy cộng hưởng.
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
12


Viên Chăn là thủ đơ của nước bạn Lào có biên giới chung với vùng Tây Bắc Việt
Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam và Lào đã gắn bó chặt
chẽ với nhau để chống lại kẻ thù chung từ cuối thế kỉ XIX. Từ ngày 8-4 đến 15-41953, bộ đội Việt Nam phối hợp cùng với quân Lào mở chiến dịch Thương Lào giải
phóng tồn bộ Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoang và tỉnh Phong-xa-li với trên
30 vạn dân. Trong cuộc chiến Đông Xuân 1953-1954 liên quân Việt Lào mở nhiều
chiến dịch tấn công để làm bước đầu phá sản kế hoạch Nava. Nói đến Viên Chăn,
đó là mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Lào, một mối quan hệ gắn bó
bền chặt đến mai sau. Cịn ở đây “nhạc về” có lẽ người lính đang hướng về một
ngày mai khải hồn, đoàn quân sẽ tiến về thành phố. Vũ điệu và giai điệu của miền
đất lạ đưa tâm hồn lãng mạn của người lính về với một miền đất xa vời vợi để xây
đắp những mộng mơ.
Nếu như bốn câu thơ trước đó tác giả thể hiện nỗi nhớ về một điểm dừng chân

của người lính về những đêm lửa trại thì đến bốn câu thơ này mạch cảm xúc của thi
nhân lại có sự chuyển đổi. Tác giả nhớ về con đường Tây Tiến và để hồn thơ của
mình dạt về khung cảnh mênh mông của buổi chiều sương phủ trên sóng nước.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa
Bức tranh Châu Mộc chiều sương gợi cảm động mãi trong tâm hồn và làm rung
động bao nỗi niềm. Vẫn là về con người Tây Tiến nhưng trong hoài niệm của nhà
thơ, lúc này cảnh ở đây có nét khác so với đoạn thơ đầu. Khơng cịn là núi cao dốc
thẳm hay cọp dữ mà là lời tựa hơi trong một giọng thơ sâu lắng. Bao trùm toàn bộ
bức trang là một màn sương mịt mờ, chiều buông xuống. “Người đi Châu Mộc
chiều sương ấy” màn sương lãng đãng lại hoà vào ngàn lau san sát bên triền sông
gợi vẻ đẹp đơn sơ, mơ hồ. Người đi được nhắc đến trong câu thơ có thể hiểu được
là người lính Tây Tiến cũng có thể hiểu là bản thân tác giả đang cùng đồng đội của
mình hành quân trong buổi chiều sương ấy. Nhưng làn sương làm cho cảnh thiên
nhiên nơi sơn cước trở nên mộng ảo hơn, làm cho cảnh vật bỗng nhạt nhoà thi vị.
Trong kí ức của nhà thơ cịn có hình ảnh nơi sơn cước “có thấy hịn lau nẻo bến bờ”
nói đến lau chúng ta bắt gặp câu thơ “hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” trong Việt
Bắc của Tố Hữu, nếu như “lau xám” của Tố Hữu mang vẻ đẹp chân thực của đời
sống tự nhiên thì khi nó đi qua hồn thơ Quang Dũng lại được nhà thơ tài hoa này
diễn tả bằng mĩ từ, bằng cách nói hào hoa “hồn lau” tác giả đã khơng đụng từ “ngàn
lau” mà dùng từ “ hồn lau”. Lau vốn là vật vơ tri vơ giác bỗng trở nên có linh hồn
hay nói đúng hơn trong buổi chiều sương khác thường ấy con người và tạo vật
bỗng có một sự hoà điệu đặc biệt như muốn gợi nhắc lên bao tâm hồn đường điêu.
Dáng người trên con thuyền độc mộc gợi thêm vẻ xa vắng của bức tranh thiên
nhiên, những bông hoa rừng đang đong đưa tạo thêm một nét đẹp cho bức trang. Từ
13



“đong đưa” gợi lên một vẻ đẹp tinh túy, duyên dáng. Giọng thơ tràn đầy chất hoạ
với bút pháp thiên về gợi tả khơng khí, linh hồn của con người. Đồng thời cũng thể
hiện tinh thần tinh tế lãng mạn của người lính Tây Tiến.
Hình ảnh người lính Tây Tiến được thể hiện trong cả bài nhưng ở đoạn thơ này
tác giả đã khắc hoạ rõ nét hơn chân dung người lính với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Người lính Tây Tiến can trường đầy dũng khí, đồng thời cũng rất lãng mạn và
hào hoa. Viết về hiện thực thiếu thốn của cuộc kháng chiến tác giả đã miêu tả một
cách ngang tàn trần trụi những mất mát đau thương như muốn vượt lên hiện thực.
Tác giả đã dùng thủ pháp nghệ thuật đối lập để làm bật vẻ oai phong phát huy tối
đa vẻ đẹp tinh thần của anh vệ quốc cơng, ngoại hình của những chàng trai Tây
Tiến “khơng mọc tóc” cách dùng từ chân thực mà độc đáo đó là bằng chứng về sự
vất vả, gian khổ mà các chiến binh phải chịu đựng. Sốt rét là căn bệnh hiểm nghèo
phổ biến nơi núi rừng nhưng được Quang Dũng diễn tả hêt sức độc đáo “quân xanh
màu lá dữ oai hùm”. Nhắc đến sự gian khổ nơi núi rừng chúng ta không thể khơng
nhớ đến những câu thơ trong “Đồng chí” của Chính Hữu
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Sốt rét rừng là căn bệnh khó tránh khỏi đối với những người lính mắc bệnh sốt rét
da xanh như lá cây “Quân xanh màu lá”. Mặc dù thế “dữ oai hùm” làm nổi bật lên
vẻ oai hùng của người lính. Họ vẫn giữ một ý chí mạnh mẽ, ln mang trong mình
một màu nhiệt huyết vì tổ quốc quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trước hết đó là một vẻ đẹp của một tấm lịng ln hướng về tổ quốc, hướng về thủ
đơ. Người lính dẫu ở biên cương hay nơi viễn xứ xa xơi mà lịng lúc nào cũng
hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ.

Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
Người lính “mắt trừng” sự dữ dội rực lửa căm thù, lịng u nước nồng nàn, hừng
hực khí thế quyết chiến, quyết thắng. Bên cạnh sự dữ dội hừng hực ấy thì tâm hồn
người lính cũng rất lãng mạn và hào hoa. Trước những gian lao vất vả, trước những
mất mát, hy sinh trong cuộc đời chiến binh, người lính vẫn nhớ về cô gái Hà Thành
14


xinh đẹp, yêu kiều, duyên dáng. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đó là hành
trang khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần giúp họ vượt qua những khó khăn
thử thách để chiến đấu và chiến thắng. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết
sức đặc sắc giữa những con người chiến đấu kiên cường với ý chí thép cũng chính
là những con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến
khơng chỉ biết cầm súng theo tiếng gọi của non sơng mà cịn rất hào hoa giữa bao
nhiêu gian khổ thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong nỗi nhớ về một dáng
kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của người Hà Nội-Thăng Long xưa. Với bút pháp lãng
mạn, nhà thơ đã tạo nên bức tượng đài người lính Tây Tiên khơng chỉ bằng những
nét, những dáng vẻ bề ngồi mà cịn thể hiện ở cả tâm hồn đầy thơ mộng của họ.
Không những chân dung người lính mang vẻ đẹp lãng mạn mà các chiến binh Tây
Tiến còn mang vẻ đẹp bi tráng trong tư thế lên đường và sự hy sinh cao đẹp.
Rải rác biên cương mồ viễn sư
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Viết về chiến tranh, Quang Dũng không né tránh sự hy sinh mất mát, cái bi được
gợi lên qua hình ảnh nấm mồ hoang rải rác nơi rừng sâu biên giới. Đến đây, âm
điệu thơ như trầm xuống. Có biết bao người lính phải nằm lại nơi núi rừng heo hút,
ít người qua lại. Tuy nhiên, bi mà không luỵ, bi thương mà không hề ảm đạm. Đoạn
thơ xuất hiện nhiều từ Hán-Việt “biên cương, viễn xứ, độc hành” tạo sự trang trọng,

cổ kính, biến những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới thành mộ chí tơn
nghiêm, vĩnh hằng. Câu thơ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời thề
của các chiến sĩ. “Đời xanh” là tuổi trẻ đầy mơ ước, khát khao. “Chẳng tiếc” sẵn
sàng hy sinh cho tổ quốc. Hai chữ “chẳng tiếc” giữa câu thơ nói lên thái độ dứt
khoát, tự nguyện đến thanh thản. Câu thơ đã xoá đi ấn tượng bi thảm của câu thơ
trước đó. Nó gợi nhớ đến hình ảnh tráng sĩ xưa qua ý nghĩ coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng. “Áo bà thay chiếu” cái chết gợi bao thê thảm khi các anh về nơi yên nghỉ đế
mảnh chiếu che thân cũng không có nhưng dưới cái nhìn lãng mạn của tác giả thì
những chiếc áo lính bị sờn bạc vì mưa nắng đã trở thành những chiếc áo bào sang
trọng ôm lấy thi thể các anh. Cách nói giảm nói tránh “về đất” vừa làm vơi đi nỗi
đau thương, vừa bất tử hoá sự hy sinh cao đẹp của các anh. Các anh “về đất” để hố
thân mình vào sơng núi, vĩnh viễn nơi núi sơng này. Người lính về cõi đất mẹ, hồ
nhập vào cỏ cây sơng núi. Quang Dũng khơng né tránh những bi thảm mất mát đau
thương nhưng lại đem đến một âm hưởng hào hùng, hùng tráng chiến đấu vì độc
lập, tự do của tổ quốc. Người lính không chịu chấp thuận mà sẵn sàng dâng hiến sự
sống cho dân tộc. Đó là cái hùng tráng của cả một lớp thanh niên hồi ấy. Trong giây
phút thiêng liêng về với đất mẹ của những linh hồn chiến sĩ vang lên, gầm reo ừa
đau đớn, vừa hùng tráng dữ dội của con sông Mã cất lên lời chào vĩnh biệt đưa linh
hồn người lính vào cõi vĩnh hằng. Giọng điệu chủ đạo là giọng bi thương thể hiện
15


tình cảm đau thương vơ hạn và sự trân trọng kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh
của đồng đội.
Kết lại bài thơ với bốn câu thơ cuối là lời thề mãi mãi gắn bó với Tây Tiến và
miền Tây yêu dấu của Tổ quốc.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Tây Tiến là người đi không hẹn ước, ra đi không hẹn ngày trở về, lời thề quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh. Đó cũng chính là lời thề mãi mãi gắn bó với Tây Tiến, với
miền Tây của Tổ quốc.
Tây Tiến là một bài thơ độc đáo với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa.
Quang Dũng đã khắc hoạ thành cơng hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh
của thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ. Hình tượng người lính
Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài
với người đọc.
3.6. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống.
Giúp cho học sinh hiểu sâu hơn về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp qua lời thơ Quang Dũng, cùng với các địa danh kháng chiến ở
vùng Tây Bắc. Từ đó khơi sâu thêm niềm yêu mến tự hào về hình anh bộ đội cụ Hồ
4. Hiệu quả của sáng kiến
Khi thực hiện bài dự thi kiến thức liên môn trong mơn ngữ văn THPT nói
chung và trong bài Tây Tiến nói riêng học sinh sẽ có cái nhìn tồn diện về môn học
trong mối tương quan với các môn học khác
Các em sẽ hiểu được giữa các bộ môn có quan hệ với nhau. Ví như giữa Văn
học và Lịch sử có liên hệ, kiến thức mơn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ
cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể nhận thức một
cách rõ ràng. Ngược lại, Lịch sử cũng góp phần giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về
Văn học, như phải hiểu hoàn cảnh tác phẩm đó ra đời như thế nào mới hiểu hết
được dụng ý nghệ thuật cũng như nội dung sâu xa mà tác giả muốn gửi đến người
đọc là gì. Hay như giữa mơn Địa lí và Lịch sử và văn học chẳng hạn, điều kiện tự
nhiên sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của lịch sử các nước, hiểu được vị trí địa lí,
hiểu được quy luật lên, xuống của thủy triều thì ta sẽ giải thích được vì sao quân
dân ta lại ba lần đánh thắng quân xâm lược trên sơng Bạch Đằng.
Như vậy, việc tích hợp kiến thức liên mơn trong giải quyết các tình huống
thự tiễn ở mơn Ngữ văn chính là hình thức để chúng ta giải quyết những vấn đề đặt
ra trong bài học, trong thực tiễn của cuộc sống.
16



III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua thực tiễn hướng dẫn học sinh làm bài thi liên môn, trong những năm học
vừa qua tôi thấy rằng các em học sinh trong những lớp mình giảng dạy tham gia thi
rất nhiệt tình, đặc biệt là những bài thi có chất lượng của học sinh. Từ đó khiến cho
giáo viên và học sinh đều hăng say giảng dạy và học tập.
Trên đây là một số ý kiến chủ quan của bản thân tôi đã đưa ra rất mong các bạn
đồng nghiệp và học sinh quan tâm đóng góp ý kiến để sáng kiến được hồn thiện
hơ và từ đó áp dụng vào thực tiễn một cách hiệu quả hơn.
2. Kiến nghị
Tôi xin kiến nghị và đề xuất như sau:
* Đối với cấp trên:
- Tiếp tục triển khai mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng thêm về việc đổi mới có hiệu quả
các phương pháp dạy học cho các thầy cô giáo.
- Khích lệ và động viên kịp thời các tập thể và cá nhân tham gia tích cực cuộc thi.
- Tăng cường tổ chức chuyên đề để giáo viên trao đổi học hỏi kinh nghiệm.
- Tăng cường các tiết dạy ngoại khóa các vấn đề địa phương.
* Đối với giáo viên:
- Hưởng ứng sâu rộng cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên mơn để giải quyết các tình
huống thực tiễn dành cho học sinh trung học” do trường Sở giáo dục phát động.
- Tích cực học hỏi đồng nghiệp, để nâng cao trình độ chun mơn.
- Thường xun cập nhật thơng tin, dị tìm kiến thức ngồi cuộc sống hằng ngày để bổ
sung cho vốn kiến thức của bản thân.

17




×